Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh thái học các loài thuộc bộ nấm Lỗ (Polyporales) làm cơ sở cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn ở vườn Quốc gia Ba Vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.75 KB, 27 trang )

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
______________





TRẦN TUẤN KHA




NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI
HỌC CÁC LOÀI THUỘC BỘ NẤM LỖ POLYPORALES) LÀM CƠ
SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC NẤM LỚN Ở
VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ



Chuyên ngành: Lâm sinh
Mã số:62.62.0205





TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ LÂM NGHIỆP









HÀ NỘI -2015

2


Luận án được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP





Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM QUANG THU
GS.TS. NGUYỄN THẾ NHÃ




Phản biện 1:

Phản biện 2:


Phản biện 3:





Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án
cấp Trường







TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
Vào hồi ngày tháng năm 2015








Có thể tìm hiểu luận án tại
-Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Lâm nghiệp.
1



MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2013 đất có rừng
tự nhiên là 10.423.844 ha chiếm 75% diện tích rừng toàn quốc. Do nhiều nguyên nhân
tình trạng khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép ở một số địa phương trở thành điểm
nóng. Luật bảo tồn đa dạng sinh học và luật Bảo vệ và phát triển rừng là vấn đề mấu
chốt để bảo vệ nguồn sinh vật rừng. Làm thế nào bảo vệ tính đa dạng sinh vật để bảo
đảm sự sinh tồn và phát triển của nhân loại là vấn đề được các nhà khoa học, các cơ
quan chính phủ và các giới doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 7000 loài nấm Lón trong 1 triệu 500 loài nấm,
nhưng tồn tại thực tế chỉ hơn 3000 loài nấm Lớn trong số hơn 72.000 loài nấm đã biết,
phần lớn chưa được nghiên cứu lợi dụng. Việc thu thập, phân loại , nắm vững tập tính
sống trong hệ sinh thái rừng, nghiên cứu và lợi dụng các loài nấm Lớn có tác dụng rất
quan trọng trong việc bảo tồn tính đa dạng sinh học sẽ góp phân làm giàu rừng, phát
triển bền vững rừng, bảo vệ môi trường.
Chính vì những lý do trên, chính phủ Việt Nam đã công bố Luật Đa dạng sinh học
đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 4
thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008
Nấm Lỗ là một quần thể sinh vật mọc trên gỗ và trên đất. Phần lớn các loài gây
mục gỗ, một số loài gây ra tổn thất cho nền kinh tế. Đồng thời có nhiều loài dùng làm
dược liệu, một số loài làm thuốc phòng chữa ung thư, dùng làm trắng vải, giấy, dùng
trong công nghiệp da giày, dùng để phân giải kim loại năng, chất độc dioxin, Selenium,
diệt tuyến trùng hại thông Đặc biệt, nấm Lỗ làm nhiệm vụ phân giải lignin, xenlulose,
hemixenlulose biến thành các chất hữu cơ đơn giản hoặc thành các chất vô cơ làm chất
dinh dưỡng cho các cây con hấp thu, từ đó hoàn thành quá trình tuần hoàn vật chất và
năng lượng trong hệ sinh thái.Những năm gần đây các nhà nấm học đã nghiên cứu khả
năng làm sạch môi trường của nấm. Nhiều loài nấm Lớn mọc hoang dại như Lentinus
edodes, Agaricus bisporus, Auricularia auricula, Pleurotus pulmonarius có tác dụng tích

luỹ và hút các chất độc trong không khí và đất như Hg, Cd, As, Ag, Ni, Cr còn mạnh
hơn cả thực vật (Zhou Qixing, 2008)
Hầu hết các nhà nấm học đều cho rằng muốn phát hiện các loài mới, muốn tìm
các giá trị của nấm Lớn nói chung, nấm Lỗ nói riệng chỉ có thể nghiên cứu ở các nước
Nhiệt đới, trong đó có Việt Nam (He Shanghui, 2010 )
Về nghiên cứu thành phần loài, những năm gần đây nhiều nhà nấm học đều ủng
hộ quan điểm phân loại của Hibbett và M.C. Aime (2006) trong cuốn "Kingdom Fungi"
mà Paul M. Kirk, Paul F. Cannon, J.A. Stalpers biên soạn trong cuốn " Từ điển Nấm"
(Dictionary of the Fungi) xuất bản lần thứ 10 năm 2008 và đã được Trung tâm Thông tin
công nghệ sinh học Quốc tế (NCBI, National Center for Biotechnical Information ) công
bố năm 2012 .
Hiện nay ở nước ta chưa một nhà nghiên cứu nào đề cập đến việc xác định thành
phần loài và đặc điểm sinh thái nhằm bảo tồn đa dạng sinh học các loài nấm Lớn nói
chung, nấm Lỗ nói riệng theo hệ thống phân loại mới.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả thực hiện đề tài: " Nghiên cứu thành phần
loài và đặc điểm sinh thái học các loài thuộc bộ nấm Lỗ (Polyporales) làm cơ sở cho
công tác bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn ở vườn Quốc gia Ba Vì."
2


2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Thông qua điều tra và xác định các loài nấm Lỗ hiện có cung cấp các thông tin
cần thiết liên quan đến thành phần loài, đặc điểm sinh thái học nhằm đề xuất một số giải
pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn tại khu vực nghiên cứu nói riêng và các khu bảo
tồn ở Việt Nam nói chung.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định các loài nấm Lỗ tại khu vực nghiên cứu
- Xác đinh thành phần loài nấm Lỗ theo hệ thống phân loại của Kirk P.M,Cannon
PF, Minter DW,Stalpers JA trong "Từ điển Nấm học" Xuất bản lần thứ 10,2008 (Kirk

PM, Cannon PF, Minter DW,Stalpers JA.(2008) Dictionary of the Fungi. 10th.
Wallingford: CABI).
- Xác định tính đa dạng loài, đa dạng đặc điểm hình thái, đặc điểm hiển vi các
loài nấm Lỗ trong khu vực nghiên cứu.
- Xác định đặc điểm sinh thái học nấm Lỗ tại khu vực nghiên cứu
- Bước đầu đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn tại khu vực
nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm các loài thuộc bộ nấm Lỗ hiện có tại vườn Quốc gia Ba Vì.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thành phần loài, một số đặc điểm sinh thái của bộ nấm
Lỗ và đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn tại địa bàn nghiên cứu.
4. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đóng góp mới của luận án
4.1. Ý nghĩa khoa học
-Luận án đã tiến hành phân loại các loài nấm Lỗ trên một khu vực rừng tự nhiên
thuộc một vườn Quốc gia miền Bắc Việt Nam, đề cập tương đối đầy đủ về thành phần
loài, đặc điểm sinh thái học của chúng. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung những
kiến thức cơ bản về khoa học phân loại nấm, đặc điểm sinh trưởng phát triển, đa dạng về
hình thái, đặc điểm hiển vi và mối quan hệ nhiều chiều với các nhân tố sinh vật và phi
sinh vật của các loài nấm Lỗ; cung cấp những thông tin quan trọng vào kho tàng nghiên
cứu nấm tại Việt Nam.
-Thu thập và giám định được 117 loài nấm thuộc 43 chi, 6 họ trong bộ nấm Lỗ
theo hệ thống phân loại mới trong "Từ điển Nấm học" ( XB lần thứ 10, 2008) và được
NCBI công bố năm 2012 mà ít có tài liệu phân loại nào đề cập đến ở Việt Nam
-Luận án đã dùng các công thức toán học để tính mức độ sai dị, mức độ phong
phú, mức độ đồng đều thông qua các chỉ số phong phú Margalef,chỉ số đồng đều
Shannon-Wienner,chỉ số đồng đều Sorensen để chứng minh sự đa dạng các loài nấm Lỗ
ở khu vực nghiên cứu.
-Thống kê được số hệ sợi nấm thể hiện mức độ tiến hoá của các loài nấm Lỗ trong

các lớp, ngành và giới nấm.
- Luận án cũng đã thống kê tác dụng đa dạng của các loài nấm hiện có tại khu vực
nghiên cứu như những loài ăn được, những loài làm thuốc chữa bệnh, những loài kháng
ung thư và những loài phân giải gỗ mạnh. Đặc biệt ở khu vực nghiên cứu có những loài
nấm diệt tuyến trùng hại thông và phân giải dioxin nhằm cung cấp thông tin cho những
nghiên cứu tiếp theo.
3


- Lập được danh sách 33 loài nấm cần được ưu tiên bảo tồn.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận án sẽ cung cấp cho người nông dân biết chăm sóc, bảo vệ rừng,
tạo môi trường cho nấm có ích phát triển phát huy được chức năng bảo vệ rừng, làm giàu
rừng và phát triển bền vững rừng trên cơ sở sinh thái học nấm Lớn nói chung và nấm Lỗ
nói riêng
Giúp người nông dân, các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu bảo tồn, nuôi trồng, phát
triển các loài nấm có ích, làm tăng thu nhập, góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao sức
khoẻ công đồng .
4.3. Những đóng góp mới của luận án
-Luận án là công trình đầu tiên được công bố về số loài nấm Lỗ tại một vườn Quốc
gia trên miền Bắc Việt Nam. Trong đó có 15 loài được công bố đầu tiên ở khu vực
nghiên cứu.
-Luận án lần đầu tiên xây dựng danh lục theo hệ thống phân loại mới công bố trên thế giới:
"Từ điển Nấm, The Dictionary of Fungi" xuất bản lần thứ 10 công bố năm 2008 .
- Luận án đã cung cấp nhiều dẫn liệu khoa học mới về đặc điểm sinh thái học của
một số loài nấm Lỗ hiện có trên khu vực nghiên cứu nói riêng và một số vườn Quốc gia
có các loài nấm phân bố nói chung.
- Luận án đã lần đầu tiên ở Việt Nam sử dụng các công thức toán học về sai dị, chỉ
số phong phú, chỉ số đồng đếu, chỉ số đa dạng để xác định sự đa dạng sinh học nấm Lỗ .
-Luận án đã lần đầu tiên cung cấp thông tin về một số loài nấm Lỗ hiện có ở Ba Vì

có thể nuôi trồng để làm thuốc chữa bệnh, kháng ung thư, phân giải kim loại nặng, chất
độc Selenium, chất độc dioxin và một số loài phòng trừ bệnh tuyến trùng thông, một
bệnh rất nguy hiểm ở Việt Nam và thế giới, đông thời đưa ra danh lục 33 loài nấm ở
vườn QGBV cần được bảo tồn.
- Phần phụ lục tác giả đã mô tả chi tiết về hình thái, hiển vi, phân bố và công dụng
117 loài nấm Lỗ đã phát hiện, giúp cho nhiều người tìm hiểu về nấm có điều kiện nhận
biết và phát hiện các loài nấm mới.
-Luận án đã bước đầu đề xuất các giải pháp liên quan đến bảo vệ rừng nhằm bảo tồn
tính đa dạng sinh học nấm Lớn ở Việt Nam.
5. Bố cục của luận án:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm 3 chương, với tổng 108 trang,
19 bảng biểu, 29 hình, tham khảo 195 tài liệu trong và ngoài nước.Phần phụ lục có 212
ảnh chụp, 3 bản đồ, 14 phụ biểu.

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Những nghiên cứu về nấm Lỗ
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Theo thống kê trên thế giới đã có đến 500.000 tài liệu nói về nấm, trong đó nhiều
tài liệu đề cập đến những lĩnh vực thành phần loài, đặc điểm sinh thái, đa dạng sinh học
của nấm Lỗ.
Những năm gần đây nhiều nhà nấm học đều ủng hộ quan điểm phân loại của
Hibbett và M.C. Aime (2006) trong cuốn "Kingdom Fungi" mà Kirk P.M.,Cannon
P.F.,Stalpers J.A. biên soạn trong cuốn " Từ điển Nấm" (Dictionary of the Fungi) xuất
4


bản lần thứ 10 năm 2008. Chủ yếu là nâng ngành phụ nấm Đảm ( Basidiomycotina)
thành ngành chính (Basidio-mycota).

Theo Mao Xiaolan (2000) Trung Quốc có khoảng 6000 loài, số loài đã biết có gần
2000 loài. Phần lớn chúng thuộc các loài nấm Lỗ. Tại Ấn Độ, nhiều nhà nấm học đã
nghiên cứu về nấm Lỗ ở một số vùng khác nhau như Radariv et al đã nghiên cứu phát
hiện 256 loài nấm Lỗ ở Tây Ghats bang Maharashtra Trong danh lục nấm Lỗ Israel,
Daniel Tura (2010) và cộng sự đã ghi chép được 242 loài thuộc 11 chi. Trong rừng mưa
nhiệt đới Brazil năm 2002, Tatiana B. Gibertoni cũng thông báo về số loài nấm Lỗ mọc
trong rừng trên các dạng khác nhau như trên gỗ, trên cây sống, trên đất Tại Litva một
số tác giả đã nghiên cứu thành phần loài nấm Lớn và nấm Nhầy, năm 2013 công bố 326
loài nấm Lớn tại vườn Asveja Regional (Lithuania).
Năm 2013 Roy Halling, vườn Thực vật New York Mỹ đã phát hiện nhiều loài
nấm Nhiệt đới và Cận nhiệt đới ở Indonesia, Malaysia, Papua New Guinea và Thái lan.
Ông đã lần đầu tiên phát hiện ở Costa Rica, Brazil và Australia; nhà nấm học cây rừng
Nhật Bản Tiến sỹ Tsutomu Hattori đã nghiên cứu nấm Lỗ ở các nước Nhật Bản, Trung
Quốc, Malaysia và Thái lan; Nakason K.K đã công bố một số loài thuộc chi Epithele
( Polyporales) ở Thái Lan và một số nước khác như Côngô, Nam Phi và Đài Loan.Đăc
biệt những năm gần đây các nhà nấm học tập trung viêc phân loại nấm Linh chi
Ganoderma ở các nước nhiệt đới. Mabel Gisela Torres-Torres & Laura Guzmán-Dávalos
(2013) đã điếu tra phân loại nấm ở Thái Lan, Malaysia, Singapor và công bố 33 loài mới.
Về đặc điểm sinh thái bộ nấm Lỗ đã được nghiên cứu nhiều vào thập kỷ 90 của
thế kỷ 20. Zong Wu (2009) đã đề cập đến phân bố địa lí của nấm Lỗ mọc trên gỗ.Theo
tác giả vùng nhiệt đới có 66 loài, chiếm 66%; vùng Cận nhiệt đới (Á nhiệt đới)có 25 loài
chiếm 25%, vùng Ôn đới chỉ có 5 loài.Wei Yulian (2004) đã kết luận nấm mục gỗ có tác
dụng không thể thay thế được trong các khâu tuần hoàn vật chất của hệ sinh thái rừng,
làm tăng tính đa dạng của hệ sinh thái, làm giàu rừng.
Về mối quan hệ nấm Lỗ với các sinh vật khác, con người và môi trường nhiều tác
giả đề cập đến quan hệ với côn trùng, tác dụng diệt tuyến trùng của nấm Lỗ, tác dụng
chữa bệnh và kháng ung thư của nấm Lỗ.
Chất dioxin được nghiên cứu vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Đó là một chất độc
mạnh có thể chảy theo dòng sông, biển, không khí, đất, tác hại đối với người và ô nhiễm
môi trường rất nghiêm trọng.Theo thông báo của Xu Jingtai (2010) ngày nay đã bắt đầu

nghiên cứu sử dụng nấm Lỗ trải bào tử vàng Phanerochaete chrysosporium, nấm mục
trắng P. sordida để phân giải dioxin.
Bệnh tuyến trùng thông là bệnh nguy hiểm của thế giới. Gốc chặt cây thông chết
có tuyến trùng là một trong những nguồn xâm nhiễm quan trọng,Các tác giả đã đề cập
đến sử dụng nấm Lưu huỳnh ( Laetiporus sulphureus ) để diệt tuyến trùng thông.
Về tính đa dạng nấm Lỗ, Zhang Xinbo (2011) đã nghiên cứu tính đa dạng nấm
lớn thông qua sinh học phân từ để phân loại tính đa dạng di truyền nấm Lớn Trung Quốc.
Về bảo tồn những loài nấm Lỗ nói chung nấm ăn và nấm dược liệu nói riêng,
Zhou Liwei (2013) đã chia ra làm 3 loại: loại nguy cơ tuyệt chủng, loại quý và loại hiếm.
Uỷ ban Bảo tồn nấm Châu Âu (ECCF) cũng đề cập đến và đưa nhiều loài vào danh sách
đỏ Châu Âu và từng nước.
Việc ứng dụng toán học để tính toán các chỉ số đa dạng nấm Lớn cũng chỉ mới bắt
đầu trong vài năm gần đây sau khi có các chỉ số phong phú, chỉ số đồng đều, chỉ số đa
5


dạng trong nghiên cứu sinh thái thực vật.Ví dụ như Rao Jun năm 2012 đã áp dụng xác
định tính đa dạng quần xã nấm Lớn trong 3 kiểu rừng
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về thành phần loài nấm Lớn nói chung, nấm Lỗ nói riệng
phải kể đến nhiều công trình của Trịnh Tam Kiệt công bố liên tục từ năm 1981 đến nay
và năm 2014 đã công bố 1821 taxa nấm lớn trong " Danh lục nấm lớn ở Việt Nam.
Trước đây đã có các công trình nghiên cứu của Parmasto, E, (1986). Patouillard, N.,
(1890). Patouillard, N., (1913-1927). và một số tác giả khác.
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
a. Vị trí địa lý:
Vườn Quốc gia Ba Vì nắm trong địa phận huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ( nay là
Thành phố Hà Nội), cách Hà nội 50km về phía Tây. Toạ độ địa lý 21
o
01-21

o
07 độ Vĩ
Bắc , 105o18-105
o
25 độ Kinh Đông. Tổng diện tích quản lý là 7.377ha, theo Quyết định
thành lập số 17-CT ngày 16/01/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) và Quyết định số 407 – CT ngày 18/12/1991 về việc đổi tên thành Vườn quốc gia
Ba Vì và giao Bộ Lâm nghiệp quản lý.
b. Địa hình
Ba Vì là một vùng núi trung bình, núi thấp và đồi nối tiếp bán sơn địa.
c. Đặc điểm khí hậu thủy văn
+ Đặc điểm khí hậu
Khu vục Ba Vì 21
o
Vĩ Bắc, chịu tác động của cơ chế gió mùa. Tác động phối hợp
của vĩ độ và gió mùa tạo nên loại khí hậu nhiệt đới ẩm với một mùa đông khô lạnh.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tháng
Lượng mưa
2T(tb)

P (mm)

Hình 1: Sơ đồ khí hậu Ba Vì theo Gaussen- Walter (1963)
d. Địa chất, thổ nhưỡng
Nền chính của Ba Vì là các loại đá phiến thạch sét và sa thạch đá hỗn hợp, đá
poocphilit.Quá trình feralit hóa trong toàn vùng, thể hiện rõ rệt màu sắc của đất và những
nơi bị xói mòn mạnh.
e. Tài nguyên thực vật
Thảm thực vật được chia ra 3 kiểu rừng: rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm
cận nhiệt đới, rừng kín thường xanh hỗn hợp cây lá rộng và cây lá kim cận nhiệt đới núi
thấp và rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp hiện chỉ cón kiểu phụ nhân tác
rừng thưa nhiệt đới, rừng tre nứa và rừng phục hồi.
Hệ thực vật Ba Vì có khoảng 812 loài thực vật bậc cao thuộc 472 chi 99 họ.
Nhiều loài cây quý hiếm như Bách xanh, Thông tre, Sến mật, Giổi lá bạc, Quyết thân
gỗ…. 250 loài cây thuốc chữa nhiều bệnh.

6



g. Tài nguyên động vật
Năm 2001 đã thống kê có 45 loài thú, 115 loài chim, 11 loài bò sát, 15 loài lưỡng
cư 87 loài loài côn trùng.8 loài sinh vật thuỷ sinh
h. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Ba vì có 7 xã vùng đệm thuộc dân tộc Kinh, Mường, Dao. Tổng số dân là 46.547
người trong 10.125 hộ. Nhìn chung kinh tế trong vùng chưa phát triển, đời sống còn
nhiều khó khăn.

Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Nội dung nghiên cứu
Để đáp ứng mục tiêu đề ra, đề tài nghiên cứu bao gồm các nội dung sau:
2.1.1. Thành phần loài bộ nấm Lỗ ở khu vực nghiên cứu
- Điều tra, thu thập mẫu, xác định tên từng mẫu nấm thông qua đặc điểm hình thái,
kết cấu hiển vi và các tài liệu chuyên khảo về phân loại nấm Lớn trong và ngoài nước.
- Lập danh lục nấm theo hệ thống phân loại mới của Kirk "Từ điển Nấm học"
(2008) (Kirk PM, Cannon PF, Minter DW, Stalpers JA. . (2008) Dictionary of the Fungi.
10th. Wallingford: CABI.)
- Mô tả 15 loài mới phát hiện ở khu vực nghiên cứu
- Thống kê số loài theo các chi, họ thuộc bộ nấm Lỗ.
2.1.2.Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái nấm Lỗ theo các yếu tố phi sinh vật và
sinh vật
1) Các yếu tố phi sinh vật bao gồm phân bố địa lý, địa hình (độ cao so mặt biển)
số lần gặp, mùa mọc Các yếu tố sinh vật bao gồm : khả năng ký sinh của nấm Lỗ, khả
năng chọn lọc cây chủ của nấm Lỗ, mối quan hệ giữa nấm Lỗ với các loài cây chủ, kiểu
rừng, trạng thái rừng và các loài côn trùng
2) Bước đầu nghiên cứu diễn thế quần xã của nấm Lỗ
3) Nghiên cứu một số chức năng của nấm Lỗ nhằm đề xuất danh lục nấm Lõ cần
được bảo tồn
2.1.3. Đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lõ ở Vườn QGBV.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp kế thừa
Chủ yếu là thu thập và sử dụng các thông tin tư liệu trong và ngoài nước về các
vấn đề cần nghiên cứu bao gồm trên 30 tài liệu phân loại nấm Lớn nói chung và nấm Lỗ
nói riêng từ năm 2000 đến nay
2.2.2. Phương pháp điều tra
Tuân thủ phương pháp điều tra sâu bệnh hại cây rừng cũng như phương pháp điều
tra tài nguyên bao gồm công tác chuẩn bị, ngoại nghiệp và nội nghiệp.Mô tả đặc điểm
của các tuyến điều tra và ô tiêu chuẩn.

2.2.3. Phương pháp thu thập mẫu vật
Tham khảo "Quy phạm điều tra tài nguyên nấm lớn của Trung Quốc ban hành
năm 2008" do Viện Khoa học Lâm nghiệp Trung Quốc xuất bản năm 2010,
2.2.4. Phương pháp giám định mẫu
7


Tiến hành xác định mẫu tươi Những mẫu nấm khô và thể quả cứng cần áp dụng
phương làm mềm mẫu của Teixeira (2008)
2.2.5. Phương pháp nghiên cứu thành phần loài
Dựa vào các tài liệu phân loại đã công bố những năm gần đây, chủ yếu là tài liệu
phân loại của Kirk PM, Cannon PF, Minter DW, Stalpers Jaiatrogn "Từ điển nấm
học"(2008), Dictionary of the Fungi. 10th. Wallingford: CABI và của Trịnh Tam Kiệt
(2014) Danh lục nấm Lớn ở Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia , Hà Nội.
2.2.6. Phương pháp mô tả một số loài nấm Lỗ mới phát hiện ở khu vực nghiên cứu
Mô tả theo thứ tự đặc điểm thể quả bao gồm hình dạng, màu sắc, kích thước tán
nấm, cuống nấm, mô nấm, ống nấm và kết cấu hiển vi bao gồm hệ sợi nấm và bào tử';
đặc điểm sinh thái bao gồm sinh cảnh, dạng mục và phân bố.
2.2.7. Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái học
Đề cập đến một số vấn đề liên quan về mối quan hệ với phân bố nấm với các nhân
tố sinh thái bao gồm: nhân tố phi sinh vật như vị trí địa lý, địa hình , số lần gặp, mùa
mọc; nhân tố sinh vật như kiểu rừng, trạng thái rừng, loài cây chủ, các loài côn trùng và
động vật.
2.2.8. Các dụng cụ thiết bị nghiên cứu
Sử dụng máy ảnh Canon 10.0, máy xác định độ cao Nhật Bản, kính hiển vi Đức để
ghi lại hình ảnh, xác định điều kiện môi trường
2.2.9. Phương pháp phân tích số liệu
Để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố địa hình tới đặc điểm phân bố của nấm
Lỗ đã sử dụng một số công thức sau đây:
1. Tiêu chuẩn U. Từ các số liệu điều tra được thể hiện trên các bảng biểu, tiến

hành tính toán theo phương pháp so sánh các mẫu quan sát, tính toán sai dị
theo phương pháp thống kê toán học ứng dụng trong lâm nghiệp của Ngô Kim
Khôi và CS (2001) [13] :
- Điều kiện: + Tổng thể chuẩn (hoặc n  30)
+ Phương sai biết trước.
- Công thức tính tiêu chuẩn U:
2
2
2
1
2
1
21
nn
XX
U





2
2/1
2
2/1
S (01)
trong đó:
X
1
; X

2
là giá trị trung bình cộng cần kiểm tra của hai khu vực
(thí dụ đai cao, hướng phơi )
n
1
, n
2
là dung lượng mẫu quan sát của hai khu vực

1
2
= S
1
2
; 
2
2
= S
2
2
là phương sai của các số trung bình ở hai khu vực
- Đánh giá:
H
0
: 
1
=
2
(Giả thiết hai số trung bình bằng nhau)
Khi

)05,0(96,1
0



HU
 Hai số trung bình có sự khác nhau rõ rệt
với mức độ tin cậy là 95%.
Trường hợp )05,0(96,1
0



HU  Hai số trung bình không có sự khác
nhau với mức độ tin cậy là 95%.
8


1. Chỉ số phong phú Margalef d
d = (S-1)/lnN (02)
Trong đó, S là tổng số loài thu được, N tổng số cá thể thu được
2. Chỉ số đồng đều Pielous (J):
J = H′/ lnS.; (03)
3. Chỉ số đa dạng sinh học loài Shannon and Weiner (1963)
H′= - ∑S
i
; (i = 1 đến s) (04)
S
i
= (ni/ N) log2(ni/ N)

Trong đó ni là số cá thể của loài i; N là tổng số cá thể của các loài.
4. Chỉ số đồng đều Sorensen:
SI = 2C/(A+B) (05)
Trong đó 2C là số loài có ở cả 2 độ cao hay hướng phơi, A và B là số loài chỉ
có ở 1 độ cao hay 1 hướng phơi A hoặc B.

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1.Thành phần loài các loài nấm Lỗ
3.1.1. Danh lục các loài nấm Lỗ
Bảng danh lục bao gồm 117 loài (có 4 loài chưa xác định tên) thuộc 43 chi 6 họ thể
hiện bộ nấm Lỗ ở vườn QGBV khá đa dạng về thành phần loài. Số loài, số chi trong các
họ được trình bày ở các phần dưới đây:.
3.1.2. Đa dạng về số loài trong các họ
Nếu thống kê số loài trong các họ được thể hiện ở bảng 3-1
Bảng 3.1. Số chi và số loài trong các họ thuộc bộ nấm Lỗ
Tên h


S


chi

S


loài


Polyporaceae

20

45

Ganodermataceae

2

39

Phanerochaetaceae

3

10

Fomitopsidaceae

8

9

Meruliac
eae

6

8


Meripilaceae

4

6

C

ng

43

117


Bảng trên cho thấy: số loài trong các họ Polyporaceae chiếm tỷ lệ nhiều nhất sau đó
là Ganodermataceae rồi đến Phanerochaetaceae, số loài trong họ Meripilaceae chiếm tỷ
lệ ít nhất.Số loài và số chi không theo tỷ lệ thuận. Có chi ít loài nhiều loài, có loài nhiều
chi nhưng ít loài.
3.1.4. Đa dạng về số loài trong các chi
Nếu sắp xếp số loài trong 43 chi nấm Lỗ vườn QGBV cho thấy số loài trong các
chi cũng rất đa dạng, số loài có tỷ lệ nhiều nhất thuộc về chi Ganoderma, sau đó là chi
Trametes rồi đến Amauroderma .
Từ kết quả nghiên cứu về thành phần loài nấm Lỗ tại vườn QGBV chúng tôi có một
số nhận xét như sau:
9


Nấm Lỗ ở vườn QGBV rất đa dạng về thành phần loài. Chúng thể hiện ở một số

điểm như sau:
Nếu so sánh với kết quả điều tra khu hệ nấm Lớn khu bảo tồn thiên nhiên Nam
Lĩnh, Quảng Đông,Khu bảo tồn thiên nhiên Cửu Liên Sơn, Giang Tây (TQ, Khu bảo tồn
thiên nhiên Núi thông (Bắc Kinh) Tây Ghats bang Maharashtra Ấn Độ,danh lục nấm Lỗ
Israel và một số khu vực trong nước như:Thanh - Nghệ - Tỉnh,Tây Ninh, Thừa Thiên
Huế vườn Quốc gia Cúc Phương, chúng tôi nhận thấy nấm Lỗ ở Vườn Quốc gia Ba Vì
cũng rất phong phú và đa dạng.

Sơ đồ vị trí phân loại nấm Lỗ (POLYPORALES)
Giới nấm (Fungi)
Ngành nấm Đảm ( Basidiomycota)

Lớp nấm Tán ( Agaricomycetes)

Lớp phụ nấm Tán (Agaricomycetidae)

Bộ nấm Lỗ (Polyporales) [117]


Polypolaceae [45] Fomitopsidaceae [9] Ganodermataceae [39]

Meruliaceae [8] Meripilaceae [6]Phanerochaetaceae [10]
Hình 3.1. Vị trí phân loại nấm Lỗ ở vườn QGBV
3.1.5. Phân bố cá thể loài theo hệ thống phân loại
Chứng được thể hiện ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Số thể quả các loài nấm thuộc bộ nấm Lỗ
Các h


S



loài

S


th


qu


T


l


(%)

Polyporaceae

45

3146

72,56

Ganodermataceae



39


469

10,82

Meripilaceae

6

389

8,99

Fomitopsidaceae

9

154

3,54

Meruliaceae

8

127


2,93

Phanerochaetaceae

10

51

1,17

C

ng

117

4336

100


Bảng trên cho thấy số thể quả họ Polyporaceae nhiều nhất, chiếm 72,56% sau đó
là Ganodermataceae, 10,82%, số thể quả ít nhất là họ Phanerochaetaceae, 1,17%. Điều
10


này thể hiện những nấm có thể quả nhỏ chiếm số lượng nhiều nhưng phân bố không
đồng đều, chúng tập trung ở những cành khô, cây đổ như các loài thuộc họ Polyporaceae
thường phân bố trên cả 2 đai độ cao. Các loài thuộc họ Ganodermataceae,

Fomitopsidaceae thường phân bố ở trên đai núi vừa, các họ Meripilaceae, Meruliaceae,
Phanerochaetaceae lại thường phân bố ở trên đai độ cao núi thấp.
3.1.6. Đặc điể
m m

t só loài n

m m

i phát hi

n trong b

n

m L



khu v

c nghiên c

u
Từ danh lục các loài nấm Lớn ở Việt Nam đã được Trịnh Tam Kiệt công bố năm
2014, có 13 loài nấm Lỗ chưa được đề cập đến và đã được mô tả trong luận án theo
những đặc điểm hình thái và kết câu hiển vi phân bố và công dụng.
3.1.7. Đặc điểm hình thái và kết cấu hiển vi của nấm Lỗ
Đặc điểm hình thái và kết cấu hiển vi của nấm Lỗ là căn cứ chủ yếu để phân loại.
Từ 117 loài trong danh lục nấm, có thể thống kê về đặc điểm hình thái và kết cấu hiển vi

của tất cả các loài nấm hiện có ở Ba Vì theo bảng thống kê như sau:
3.1.7.1. Đặc điểm hình thái của nấm Lỗ
Sau khi thống kê các đặc điểm hình thái thể quả, có thể tổng hợp vào bảng 3-3.
Bảng 3.3. Một số đặc điểm hình thái của nấm Lỗ
Chỉ tiêu Đặc điểm Số loài Tỷ lệ (%)

Hính thái thế quả
Không cuống 58 49,57
Có cuống 42 35,90
Dạng trải 17 14,53
Dạng tán Bán nguyệt 65 55,56
Tròn 8 6,84
Quạt 7 5,99
Quả thận 5 4,27
Khác 15 12,82


Tính chất thể quả
Chất bần 64 54,70
Chất da 42 35,90
Chất gỗ 7 5,98
Ch

t khác

4

3,42

Tập tính sống Sống 1 năm 104 88,89

Sống nhiều năm 13 11,11

Bảng trên chứng tỏ hầu hết nấm Lỗ vườn QGBV không cuống, hình bán nguyệt, chất
bần và sống 1 năm. Nguyên nhân của sự khác nhau đó là do đa số chúng là những loài
nấm hoại sinh thích nghi với cành khô và một ít cây đổ nhằm bảo tồn nòi giống.
3.1.7.2. Đặc điểm kết cấu hiển vi của nấm Lỗ
11


Thống kê số hệ sợi, sợi sinh sản có khoá, không khoá và hình thái bào tử của nấm
lỗ được thể hiện ở bảng 3-8 :
Bảng trên chứng tỏ: trong các loài nấm Lỗ, 3 hệ sợi nấm là nhiều nhất, 2 và 3 hệ sợi
chiếm tỷ lệ khá cao (82,90%). Điều này chứng tỏ hầu hết nấm Lỗ là những loài có mức
tiến hoá cao, so với các loài nấm khác. Tỷ lệ sợi nấm có khoá và không có khoá xấp xỉ
nhau. Các sợi nấm không có khoá đêu thuộc các chi thuộc họ Ganodermataceae, sợi nấm
có khoá thường thuộc họ Polyporaceae và một số họ khác. Về hình thái bào tử, đa số
chúng không màu, hình trụ, hình bầu dục và hình trứng, một số ít trong chi
Amauroderma có bào tử hình câu. Đặc biệt hình thái của bào tử nấm Linh chi có hai
vách tế bào, vách trong có gai, có màu là những loài rất dễ nhận biết.
Tóm lại, thành phần loài nấm Lỗ vườn QGBV không chỉ phong phú và đa dạng về
số loài, số cá thể mà còn phong phú và đa dạng về hình thái, kết cấu hiển vi.
3.2. Đặc điểm sinh thái bộ nấm Lỗ vườn QGBV
3.2.1.Sự phân bố nấm lỗ theo các nhân tố sinh thái
3.2.1.1. Sự phân bố nấm Lỗ theo các nhân tố phi sinh vật
1) Phân bố nấm Lỗ theo vị trí địa lý
Phân bố nấm Lỗ rất rộng, từ núi cao đến đồng bằng đều có nấm Lỗ mọc. Chúng đa
dạng không chỉ về mặt địa hình, loài cây mà những nơi nào có gỗ là có nấm Lỗ. Thông
thường nấm Lỗ được chia ra nấm mọc trên gỗ và nấm mọc dưới đất. Những loài mọc
trên gỗ phần lớn là những loài hoại sinh, một số ít kiêm hoại sinh. Số loài nấm Lỗ gây
bệnh cho cây gỗ rất ít. Sự biến đổi số loài nấm Lỗ thường phụ thuộc loài cây và điều

kiện khí hậu.
Nấm Lỗ phân bố trên địa cầu cũng rất rộng. Ngoài Bắc, Nam cực và các đảo xa
chưa thấy có các tài liệu nghiên cứu công bố, hầu như tất cả mọi nơi trên địa cầu đều có
nấm Lỗ. Nhiều loài nấm vẫn chưa rõ vùng phân bố, đặc biệt là các loài nấm vùng Nhiệt
đới. Từ các tài liệu đã công bố trên thế giới và trong nước, ta có thể thống kê 117 loài
nấm ở vườn QGBV như bảng 3-4
Bảng 3.4. Sự phân bố chủ yếu của các loài nấm Lỗ ở vườn QGBV
Phân b


S


loài

Th
ế

gi

i

24

B

c bán c

u


14

Ôn đ

i

5

C

n nhi

t d

i

16

Nhi

t đ

i

74


Bảng trên cho thấy hầu hết nấm Lỗ vườn QGBV có thành phần phân bố rộng ở
vùng Cận nhiệt đới và Nhiệt đới.có 90 loài, chiếm 76,92%. Một số loài phân bố Bắc bán
cầu và Thế giới, rất ít loài phân bố vùng Ôn đới.

2) Phân bố nấm Lỗ theo địa hình
a) Phân bố nấm Lỗ theo độ cao
Chúng được thể hiện ở bảng 3-5:
Bảng 3.5. Phân bố số loài nấm theo đai dộ cao
Ch


tiêu

S


loài

Núi th

p <700m

66

Núi v

a >700m

72

12




Bảng trên chứng tỏ số loài nấm mọc ở đai độ cao núi vừa nhiều hơn núi thấp. Sở
dĩ có hiện tượng này là do tại những đai núi vừa là những khu rừng hỗn giao nhiều loài
cây lá rộng ít người tác động, sự biến đổi sinh cảnh vẫn theo quy luật tự nhiên, còn nhiều
cành khô lá rụng, nhiều cây đổ tự nhiên. Mặt khác những nấm chất da, chất bần có khả
năng phát tán nhiều nơi, trên các cành khô, các cây gỗ đã mục lâu. Còn các loài nấm chất
gỗ thường sống lâu năm, phân bố trên gốc chặt cây lá kim, cây gỗ cứng, hoặc gốc cây
còn sống nhưng sinh trưởng yếu ớt, bị ong, xén tóc, vòi voi, mọt đục. Những cây sống
đó nếu có nấm mọc ở gốc là cây bị côn trùng đục vào mang sợi nấm vào gốc hoặc thân
cây. Những loài nấm đó là Ganoderma applanatum, G. lucidum, Fomes fomentarius,
Fomitopsis officinalis, còn ở đai núi thấp hầu hét là rừng trồng có nhiều cành khô, gôc
chặt, có nhiều loài nấm nhỏ mọc thành cụm hoặc đám nên số lượng thể quả nhiều hơn
núi cao. Tuy nhiên sự sai khác nhau đso không lớn lắm. ực ra sự sai khác giữa các loài ở
các độ cao khác nhau là do sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng. Cứ lên cao 100m
nhiệt độ giảm 0,6
o
C. Do vậy những điều kiện trên đã làm thay đổi thành phần loài và số
lượng loài nấm Lỗ. Sự khác nhau giữa các độ cao tại vườn QGBV cũng chỉ là tương đối,
bởi vì ngoài nhân tố độ cao, còn các nhân tố hướng dốc, độ dốc, thực bì và các tác động
khác của con người Nhận xét này cũng phù hợp với nhận định của Zhang Lixin (2010) .
Phân bố nấm Lỗ cũng như các sinh vật khác không chỉ khác nhau về số loài mà
phân bố cá thể (thể quả) cũng có sự khác nhau. Nếu xem xét phân bố số cá thể theo đai
độ cao chúng được thể hiện ở bảng 3-6:
Bảng 3.6. Phân bố số thể quả nấm Lỗ theo đai độ cao
Ch


tiêu

S



th


qu


Núi th

p <700m

2891

Núi v

a >700m

2671


Bảng trên cho thấy số thể quả nấm Lỗ ở đai núi thấp <700m nhiều hơn đai núi vừa.
Điều này chứng tỏ ở đai núi thấp có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp hơn cho sự phát tán bào tử,
sinh trưởng và sinh sản của nấm Lỗ làm tăng số lượng thể quả. Tuy nhiên do số loài cây chủ ở
đây không phong phú như ở khu vực đai núi vừa nên số loài nấm vẫn ít hơn.
Nếu tình chỉ số đa dạng theo Margalef dể xác định mức độ phong phú loài ta sẽ có
kết quả như sau:
Toàn khu vực nghiên cứu: d= (117-1)/ln5562 = 116/8,6237 =13,4513
Đai núi thấp <700m: d= (66-1)/ln2891 = 65/7,9694 =8,1562
Đai núi vừa >700m :d= (72-1) /ln2671 = 71/ 7,8902= 8,9985
Kết quả tính toán trên cho thấy, đai độ cao núi vừa phong phú hơn đai núi thấp, sở

dĩ có hiện tượng trên là do ở đai núi thấp đã bị tác động của con người, do ở khu vực này
một số nơi đã biến thành khu du lịch.
Trên 30 ô tiêu chuẩn được xác lập, sau khi tính toán số loài và số thể quả trong
các ô, được trình bày ở phần phụ lục 6 , nếu dùng công thức Sorensen SI = 2C/ (A+B) để
tính mức độ đồng đều về loài của 2 đai độ cao, ta có kết quả 2x23/117 = 46/117= 0,39
<0,5. Chứng tỏ sự phân bố nấm trong khu vực nghiên cứu không đồng đều. Sự phân bố
của nấm Lỗ không chỉ phụ thuộc vào đai độ cao mà còn phụ thuộc vào trạng thái rừng,
loại hình rừng, hướng phơi Nhận xét này cũng phù hợp với một số tác giả sinh thái nấm
của Trung Quốc như Dai Y.C, (2012) .
Nếu dùng chỉ số đồng đều Pielous :
13


J = H′/ lnS.; H′= - ∑ s i; si = ( ni/ N) log2( ni/ N) để so sánh mức độ đồng đều ở 2 độ
cao, ta có : Đai núi thấp <700m : J = 0,04585
Đai núi vừa > 700m : J =0,02221
Kết quả trên chứng tỏ phân bố nấm ở đai núi thấp đồng đều hơn đai núi vừa, tuy
nhiên sự chênh lệch nhau không đáng kể.
b) Phân bố nấm Lỗ theo hướng phơi
Số loài và số thể quả được thể hiện ở bảng 3.7
Bảng 3.7. Số loài và số thể quả theo hướng phơi


ng phơi

S


loài


S


th


qu


Đông Nam

98

4526

Tây B

c

26

1036


Bảng trên chứng tỏ số loài và số thể quả ở sườn Đông Nam lớn hơn nhiều so với sườn
Tây Bắc. Nếu tính chỉ số đa dạng loài sườn Đông Nam cũng đa dạng hơn sườn Tây Bắc. Sở
dĩ có hiện tượng này là do sườn Đông Nam cây sinh trưởng tốt hơn, nhiều cây tái sinh hơn,
nhiều cành khô cây đổ, tỉa cành tự nhiên tốt hơn, cho nên có nhiều nấm Lỗ hơn. Chúng đã
góp phần rất quan trọng cho tái sinh rừng, phục hồi hệ sinh thái rừng bền vững.
Nếu dùng chỉ số Margalef ta tính được chỉ số đa dạng ở 2 hướng phơi khác

nhau ta có:
d = (98-1) / ln 4526 ( hướng sườn Đông Nam) = 97/8,4175 =11,5236
d= (26-1) / ln 1502 ( hướng sườn Tây Bắc) = 25/ 7,3145= 3,4179
Rõ ràng sườn Đông Nam đa dạng hơn sườn Tây Bắc.
Nếu dùng công thức Sorensen SI = 2C/ (A+B) để tính mức độ đồng đều về loài của 2
hướng phơi ta có: SI = 2 x 7/117 =14/117 =0,06 <0,5.
Để so sánh mức độ đồng đều ở hai hướng phơi, ta dùng công thức Pielou:
J = H′/ lnS.; H′= - ∑ s i; si = ( ni/ N) log2( ni/ N)
Sau khi tính toán ta được kết quả như sau: hướng Đông nam: J = 0,03704 < 0,5,
chứng tỏ hướng này có số thể quả phân bố không đồng đều mặc dù chúng có số loài khá
lớn. Hướng Tây Bắc: J = 0,79402 > 0,5, chứng tỏ phân bố số thể quả đồng đều hơn
hướng Đông Nam. Điều này chứng minh hướng Đông Nam thể hiện tính đa dạng hơn
hướng Tây Bắc.
Tính đa dạng và sự không đồng đều này là do nhiều nhân tố phi sinh vật và sinh
vật tác động lên nấm Lỗ, trong đó có phân bố loài cây chủ, độ tàn che, khả năng phục
hồi rừng, tác động của con người và các sinh vật khác Nhận xét này phù hợp với Lin
Xiaomin (2007), Zhang Xinbo (2011) Wu Xingliang (2012).
3) Số lần gặp các loài nấm qua các dợt điều tra
Trải qua các đợt điều tra thu thập và xác định mẫu nấm, chúng tôi tiến hành thống
kê một số loài nấm có số lần gặp trên 5 lần (số liệu thống kê ở phần phụ lục 11, số lần
gặp các loài nấm Lỗ vườn QGBV ). Số lần gặp trên 5 lần được thể hiện ở bảng 3.8 trang
86 của luận văn
Bảng 3.8. chứng tỏ số lần gặp các loài nấm nhiều nhất là loài Mỉcoporus xanthopus,
sau đó là loài Trametes apiaria . Các loài trong chi Ganoderma có số lần gặp khá nhiều.
Điều này chứng tỏ, khu vực nghiên cứu có nhiều cành khô thích hợp cho các loài nấm
thuộc chi Microporus, Trametes sinh trưởng và phát triển. Mặt khác nhiều cây đổ và cây
sống lâu năm thích hợp cho các loài nấm thuộc chi Ganoderma phát sinh, phát triển.
14



Chúng tạo điều kiện cho sự phân giải gỗ, làm giàu rừng tự nhiên. Vì vậy, bảo vệ rừng
cũng nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh vật nấm Lỗ tại khu vực vườn QGBV.
4) Phân bố nấm Lỗ theo mùa mọc
Kết quả thể hiện ở bảng 3-9, hình 3-1:
Bảng 3.9. Phân bố nấm Lỗ theo các tháng
Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12


S


loài

6

7

12

24

36

46

48

78

86

28

8

5



0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Hình 3-1. Phân bố nấm Lỗ theo các tháng
Sơ đồ trên chứng tỏ số loài nấm thu thập được thay đổi theo các tháng, nhiều nhất là
từ tháng 6 đến tháng 9. Muốn thu thập được nhiều mẫu nấm, cần tiến hành vào các tháng
mùa mưa, khi đó điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho nấm Lỗ phát sinh phát triển.
Điều này cũng phù hợp với quy phạm điều tra, thu hái, giám định, cất trữ mẫu nấm và vi
sinh vật của Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc công bố năm 2011 và thực thi năm 2012.
3.2.1.2 Sự phân bố nấm lỗ theo các nhân tố sinh vật
1) Phân bố nấm Lỗ theo kiểu rừng
Theo phân loại thảm thực vật của Phân hội các vườn Quốc gia và khu Bảo tồn
thiên nhiên. Vườn Quốc gia Ba vì có 3 kiểu rừng thể hiện sự xuất hiện các loài nấm khác
nhau:
a) Rừng kín thường xanh mưa ẩm cận nhiệt đới núi thấp Những khu vực đó có
khí hậu mát mẻ, tồn tại một số loài mọc ở các vùng Ôn đới,Cận nhiệt đới như:Fomes
rufolaccatus, Ganoderma diaoluoshanese, Ganoderma neo-japonicum, Ganoderma
nitidum và nhiều loài phân bố thế giới như Microporus affinis, Microporus xanthopus
Đáng chú ý là ở vườn Quốc gia Ba Vì do được quản lý bảo vệ rừng tốt, nhiều cành khô

lá rụng, nhiều cây đổ tự nhiên nên mọc rất nhiều loài nấm sống 1 năm thuộc các chi
Microporus, Trametes, và xuất hiện nhiều loài nấm Lỗ trải thuộc chi Ceriporia Đây là
sự thích nghi sinh thái của các loài nấm với điều kiện của kiểu rừng. Trên những cây
sống lâu năm ở rừng tự nhiên hỗn loài thường có các loài nấm sống lâu năm như các loài
thuộc các chi Fomes, Fomitopsis, Ganoderma, những loài đó thường có thể quả to, mô
nấm dày. Có những thể quả rộng tới 30-40cm. Còn những loài mọc trên cành khô
thường mọc những thể quả nhỏ, mỏng.
b) Rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim cận nhiệt đới núi
thấp. không có nấm Lỗ mọc. Rải rác có một ít loài mọc trên mặt đất thuộc bộ nấm Tán
( Agaricales)
tháng
số loài
15


c) Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp. Theo quan điểm phát
sinh trước đây ở đai khí hậu nhiệt đới này có rất nhiều loài cây trong các họ ưu thế như
Re, Dẻ, Dâu tằm, Mộc lan, Trám, Sến, Bồ đề. Nhưng trải qua quá trình chặt chọn những
cây gỗ tốt dùng làm vật liệu xây dựng của người dân địa phương hoặc chặt phá làm
nương rẫy, nên đai rừng này đã bị mất hoàn toàn quần thể rừng tự nhiên và được thay
thế bởi những kiểu phụ nhân tác, bao gồm các kiểu rừng thưa nhiệt đới, rừng tre nứa và
rừng phục hồi. Chúng thường phân bố ở độ cao 400-800m. Trong quá trình điều tra thu
thập mẫu nấm Lỗ, ta có thể phát hiện được nhiều loài nấm mọc trên các cây đổ, các bãi
gỗ, các cành khô thuộc các chi nấm chất da và chất bần như Coriolus, Xanthopus,
Pycnoporus, Trametes; ít thấy các loài chất gỗ. Tại rừng tre nứa xuất hiện nhiều loài nấm
Linh chi giả Amauroderma mọc từ các cành khô bị vùi lấp lâu năm.
2) Phân bố nấm Lỗ theo trạng thái rừng
Vườn QGBV có 3 trạng thái rừng là rừng IIIa1, IIIa2 và IIb. Tuỳ theo diện tích
rừng, số ô điều tra có sự khác nhau. Rừng IIIa1, được điều tra 5 ô, rừng IIIa2 điều tra 12
ô, rừng IIb điều tra 10 ô. Sau đó lấy trị số bình quân của các ô tiêu chuẩn . Diện tích ô

tiêu chuẩn là 16m x 16m (theo phương pháp của Rao Jun, 2012). Kết quả được tóm tắt ở
bảng 3-10:
Bảng 3.10. Phân bố nấm Lỗ theo các trạng thái rừng.
Tr

ng thái
rừng
Số thứ tự ÔTC Số loài Tỷ lệ (%)
IIIa1

8,12,13,14,15

67

57,26

IIIa2

1.2.4.5.6.7,10,11,13,14,15,16

34

29,06

II B

3,4,7,9,21,22,19,20,23,30

6


5,13


Qua bảng trên ta thấy các loài chủ yếu tập trung ở rừng giàu (IIIA1) chiếm tỷ lệ
cao nhất do ở đây có độ ẩm và độ tàn che cao nên số lượng loài tập trung nhiều, còn lại
trạng thái II B chỉ chiếm tỷ lệ 5,13% có độ che phủ và độ ẩm thấp hơn.Từ đó ảnh hưởng
đến sự xuất hiện các loài nấm Lỗ.Nhận xét này phù hợp với nghiên cứu của Lin Xiaomin
(2007) về sinh thái nấm Lớn. Ông cho rằng ở các vùng có rừng có độ tàn che lớn thường
có tính đa dạng loài nấm hơn các khu vực rừng có độ tàn che nhỏ. Những khu vực rừng
có độ tàn che trên 0,5 số lượng và mật độ nấm Lớn ít bị thay đổi, còn ở rừng có độ tàn
che dưới 0,5 số lượng loài thay đổi lớn, thậm chí không có nấm Lớn ở độ tàn che 0,2-0,3.
3) Phân bố nấm Lỗ trên các loài cây chủ khác nhau
Mỗi loài nấm khác nhau, khả năng thích nghi với mỗi loài cây chủ khác nhau.
Mức độ phá hoại nặng hay nhẹ phụ thuộc vào trạng thái cây, loài cây và phản ứng tự vệ
cây chủ. Sự tồn tại của nấm Lỗ trên các loài cây thể hiện ở bảng 3-11:
Bảng 3.11. Sự phân bố nấm Lỗ trên các loài cây chủ
TT

Loài cây ch


S


loài

T


l


(%)

1

D

, Nh

i, Kim giao, Li

u sam nh

t,

8

6,84

2


Kháo nư

c, Hoàng mang,

Phân mã,Thị rừng.
25

21,37



16


Bảng trên cho thấy nấm mọc nhiều trên những cây gỗ mềm, dễ bị mục như Hoàng
mang, Phân mã.Thị rừng Trên một só loài cây gỗ cứng hoặc có chứa các chất tannin và
phytoxit như Dẻ, Nhội, Quế và Kim giao có ít loài hơn.
Hầu hết các loài nấm Lỗ ở Ba Vì đều mọc trên cây lá rộng, rất ít loài mọc trên cây
lá kim.Những loài mọc trên cây lá rộng thường là những loài gây mục trắng, một số ít
loài mọc trên cây lá kim thường gây mục nâu. Theo Zhao Jiding, 1998, vai trò của nấm
gây mục nâu có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ đất và nước trong nhiều năm.
Vì vậy, ta có thể thấy rằng việc trồng thông tại vườn QGBV là phù hợp với công
tác bảo vệ môi trường không chỉ làm sạch không khí mà còn có tác dụng bảo vệ môi
trường đất và nước.


4) Mối quan hệ nấm Lỗ với cây chủ
Mối quan hệ nấm Lỗ với cây chủ thể hiện nhiều mặt như khả năng ký sinh, khả
năng chọn lọc cây chủ, khả năng gây mục gỗ
a)Khả năng ký sinh của nấm Lỗ
Khả năng ký sinh của vật gây bệnh nói chung và nấm Lỗ nói riêng được chia ra 4
loại: chuyên ký sinh, kiêm hoại sinh, kiêm ký sinh và chuyên hoại sinh. Chuyên ký sinh
gồm những loài mọc trên cây còn sống, kiêm hoại sinh gồm những loài mọc trên cây
sinh trưởng yếu, kiêm ký sinh gồm những loài mọc trên cây bị thương và sinh trưởng
yếu còn loại chuyên hoại sinh chỉ gồm những loài mọc trên đất hoặc xác động thực vật
Quan sát qua các đợt điều tra cho thấy nấm Lỗ ở vườn QGBV đều là những loài
nấm hoại sinh mọc trên cây khô, cây đổ, gốc chặt, các cành khô rơi xuống đất hoặc một
số kiêm ký sinh, mọc trên cây sinh trưởng yếu ớt, tạo điều kiện cho các loài côn trùng
như các loài xén tóc, cát đinh, vòi voi, mối, mọt phá hoại.Trường hợp này chúng tôi đã

phát hiện được một số loài nấm Linh chi Ganoderma applanatum, Ganoderma fulvellum
mọc trên cây ở độ cao 800m-900m, nơi người qua lại du lịch gây ra vết thương ở thân và
gốc cây sống.
Về vị trí mục, thông thường người ta chia ra các loài nấm mọc trên thân, dưới gốc
cây, mục dác, mục lõi. Theo quan sát bước đầu, rất ít loài nấm mọc ở thân cây còn sống .
Một số loài nấm mọc ở gốc cây, gây mục lõi; nhiều loài mọc ở thân cây đổ và cành khô
nhánh rụng, gây mục dác.
Hiện tượng nấm gây mục lõi cũng là trường hợp hiếm thấy ở khu vực nghiên cứu,
bởi vì, theo giải thích của Wei Yulian (2004), môi trường nấm gây mục lõi có thể chịu
đựng được hợp chất phenol nồng độ cao mà nồng độ cao đó thường ức chế nhiều loài
nấm khác. Vả lại môi trường nhiều axit acetic đều có thể là môi trường cho sợi nấm loại
này sinh trường bình thường. Theo phân tích của các nhà nấm học, sợi nấm gây mục lõi
chứa nhiều axit acetic với pH < 3. Điều này cho thấy rằng, nếu có nấm gây mục lõi
thường chỉ mọc 1 loài trên cây sống và là những loài nấm gây mục nâu. Hiện tượng này
chúng tôi chưa bắt gặp và mới chỉ phát hiện được nhiều loài gây mục trắng.
4) Mối quan hệ nấm Lỗ với cây chủ
Mối quan hệ nấm Lỗ với cây chủ thể hiện nhiều mặt như khả năng ký sinh, khả
năng chọn lọc cây chủ, khả năng gây mục gỗ
a)Khả năng ký sinh của nấm Lỗ
Khả năng ký sinh của vật gây bệnh nói chung và nấm Lỗ nói riêng được chia ra 4
loại: chuyên ký sinh, kiêm hoại sinh, kiêm ký sinh và chuyên hoại sinh. Chuyên ký sinh
17


gồm những loài mọc trên cây còn sống, kiêm hoại sinh gồm những loài mọc trên cây
sinh trưởng yếu, kiêm ký sinh gồm những loài mọc trên cây bị thương và sinh trưởng
yếu còn loại chuyên hoại sinh chỉ gồm những loài mọc trên đất hoặc xác động thực vật
Quan sát qua các đợt điều tra cho thấy nấm Lỗ ở vườn QGBV đều là những loài
nấm hoại sinh mọc trên cây khô, cây đổ, gốc chặt, các cành khô rơi xuống đất hoặc một
số kiêm ký sinh, mọc trên cây sinh trưởng yếu ớt, tạo điều kiện cho các loài côn trùng

như các loài xén tóc, cát đinh, vòi voi, mối, mọt phá hoại.Trường hợp này chúng tôi đã
phát hiện được một số loài nấm Linh chi Ganoderma applanatum, Ganoderma fulvellum
mọc trên cây ở độ cao 1200m, nơi người qua lại du lịch gây ra vết thương ở thân và gốc
cây sống.
Về vị trí mục, thông thường người ta chia ra các loài nấm mọc trên thân, dưới gốc
cây, mục dác, mục lõi. Theo quan sát bước đầu, rất ít loài nấm mọc ở thân cây còn sống .
Một số loài nấm mọc ở gốc cây, gây mục lõi; nhiều loài mọc ở thân cây đổ và cành khô
nhánh rụng, gây mục dác.
Hiện tượng nấm gây mục lõi cũng là trường hợp hiếm thấy ở khu vực nghiên cứu,
bởi vì, theo giải thích của Wei Yulian (2004), môi trường nấm gây mục lõi có thể chịu
đựng được hợp chất phenol nồng độ cao mà nồng độ cao đó thường ức chế nhiều loài
nấm khác. Vả lại môi trường nhiều axit acetic đều có thể là môi trường cho sợi nấm loại
này sinh trường bình thường. Theo phân tích của các nhà nấm học, sợi nấm gây mục lõi
chứa nhiều axit acetic với pH < 3. Điều này cho thấy rằng, nếu có nấm gây mục lõi
thường chỉ mọc 1 loài trên cây sống và là những loài nấm gây mục nâu.
b) Khả năng chọn lọc cây chủ của nấm Lỗ
Khả năng chọn lọc cây chủ là sự thích nghi của vật gây bệnh với cây chủ. Đối với
nấm Lớn nói chung và nấm Lỗ nói riêng, khả năng thích nghi khá rộng, nghĩa là chúng
có thể sống trên nhiều loài cây chủ và trên 1 cây chủ có thể mọc khá nhiều loài nấm, như
các loài nấm thuộc các chi Microporus , Poria, Trametes thường cùng mọc chung trên
một cành mục.
c) Các kiểu mục của nấm Lỗ
Thông thường mục gỗ có 3 kiểu: mục trắng, mục nâu và mục mềm.
Mục trắng là do gỗ bị nấm phân giải lignin là chủ yếu. Mục trắng có hai hình thức:
cùng mục là các chất xenlulose, hemixenlulosse và lignin cùng bị phân giải. Chúng
thường phát sinh trên cây lá rộng, sau khi bị phân giải, gỗ bị giòn hình thành các dạng
mục phiến, xốp, tổ ong. Phân giải chọn lọc là trước hết phân giải hemixenlulose và
lignin, sau đó mới phân giải xenlulose. Loại này gỗ còn có tính chất đàn hồi. Thể hiện
các dạng mục chậm hơn.
Mục nâu là do gỗ bị nấm phân giải xenlulose và hemixenlulose còn lignin không

bị phân giải. Sau khi bị phân giải, gỗ thường bị co thắt, nứt ra, biến dạng, giòn, dạng
khối, màu nâu. Chúng thường phát sinh trên cây lá kim, tàn dư của chúng là lignin, có
thể tồn tại trong đất mấy nghìn năm, là nhân tố không thể thiếu được của tái sinh trong
hệ sinh thái rừng. Có nhiều nghiên cứu phát hiện, cây con lá kim thường mọc thành hàng
là do sau khi hạt nẩy mầm trải qua chọn lọc, trên rễ cây con tồn tại xác của nấm mục nâu,
những xác đó có thể làm tăng thêm khả năng thoáng khí và giữ nước trong đất, xúc tiến
sự hình thành nấm rễ ngoại cộng sinh và tác dụng cố định Nitơ của các vi sinh vật phi
cộng sinh, cải thiện nhiệt độ,giảm trị số pH, làm tăng sự trao đổi nơtron trong chất dinh
dưỡng (Wei Yulian, 2004).
18


Mục mềm thường do các loài nấm Túi như nấm Gậy than (Xylaria, Ustulina) gây
ra, theo phân loại của các nhà Nấm học (Wei Yulian, 2004) cho nên luận án không đề
cập đến.
Kết quả thống kê thể hiện trong bảng 3.12.
Bảng 3.12. Các kiểu mục của nấm Lỗ
Ki

u m

c

S


loài

T



l


(%)


M

c nâu

9 7,69
M

c tr

ng

101 86,32
Bảng trên chứng tỏ nấm gây mục trắng chiếm tỷ lệ cao hơn mục nâu rất
nhiều.Nấm mục trắng có thể sinh ra một số loại enzym cần thiết cho việc oxy hoá chất
lignin để có thể gây ra mục trắng. Theo giải thích của nhiều tác giả, việc phân giải này
chỉ có thể xây ra ở xung quanh sợi nấm và hình thành các dạng mục xốp, mục phiến,
mục tổ ong, không có dạng khối. Còn nấm mục nâu có thể sinh ra enzym glucose
oxydasse thu được dihydrogen dioxide, sau đó mới oxy hoá xenlulose. Mục nâu chỉ có
thể dựa vào chất đó làm cho gỗ hình thành các khối nhỏ và không xẩy ra xung quanh sợi
nấm. Vì vậy mục nâu thường hình thành dạng khối.
Có thể nói hầu hết các loài gỗ cứng sau khi mục, hình thành loại mục khối nâu,
còn hầu hết chúng gây mục trắng xốp, trắng phiến và trắng tổ ong.
Từ các mô tả chúng tôi có một số nhận xét sau:

Do phân giải lignin còn lại xenlulose nên chúng gây mục trắng. Loại này chiếm
hầu hết các loài nấm hiện có ở Ba Vì và phân bố rất rộng như các loài Trametes
versicolor, Fomes fomentarius Những loài này thường gây mục nghiêm trọng. Còn
những loài nấm hút dinh dưỡng chất xenlulose và hemixenlulose gây mục nâu thông
thường trên các loài cây lá kim trên gốc chặt rừng thông trồng cách đây 20 năm phân bố
ở khu vực 400m. Những loại gỗ mục nâu, theo giải thích của Gilberrson & Ryvarden
(1996), chúng ổn định và tồn tại rất lâu trong đất, xác của chúng chiếm thể tích bề mặt
đất khá cao,khoảng 30%, cho nên chúng có khả năng giữ nước trong đất, không những
thế, chúng là nơi tạo nên cộng sinh và không cộng sinh với rễ cây. Những môi trường
như thế tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi pH và ion khá cao, có lợi cho việc cải
thiện nhiệt độ đất. Chức năng sinh thái này là vấn đề quan trọng liên quan với sinh
trưởng phát triển của rừng, đặc biệt là những nơi điều kiện lập địa rừng nghèo xấu.

5) Ảnh hưởng của các sinh vật khác đến sự phân bố nấm Lỗ
Trong hệ sinh thái rừng, nấm mục gỗ nói chung, nấm Lỗ nói riêng thường có quan
hệ cộng sinh với rất nhiều loài động vật. Theo Wei Yulian (2004), nhiều loài động vật có
vú và côn trùng ăn nấm tạo điều kiện cho sự phát tán nấm. Nhiều loài nấm cung cấp
thức ăn và nơi sinh sản của các loài sâu bộ Cánh cứng đồng thời cũng là môi giới mang
sợi nấm, bào tử nấm xâm nhập vào cây.
Tại khu vực nghiên cứu có nhìều loài mọt, xén tóc đục cây làm cho cây sinh
trưởng yếu rồi chết. Nhiều nghiên cứu chứng minh: ong đục cây và mối luôn luôn phải
có nấm mục gỗ mới sinh trưởng phát triển. Các enzym phân giải gỗ luôn luôn cung cấp
trực tiếp hoặc gián tiếp cho nhiều loài côn trùng. Gỗ mục do nấm Gloeophyllum trabeum
có nhiều chất ngoại kích thích tố có thể hấp dẫn mối, mặc dù cơ chế này chưa được làm
rõ, nhưng nhiều nghiên cứu đã chứng minh các sợi nấm trong gỗ có loài nấm này có thể
cải thiện chất lượng thức ăn của mối, lượng đẻ trứng của mối tăng lên và tạo thành mối
quan hệ lẫn nhau ( Xu, 2010)
19



Nhiều nghiên cứu cũng chứng minh mọt thuộc họ Platypodidae đã tạo lỗ đục cho
các bào tử các loài nấm gây mục lõi nẩy mầm, xâm nhập. Hiện tượng mọt đục trong cây
rừng tự nhiên là hiện tượng thường gặp.
Về tác động của các sinh vật khác, thông thường nấm Lỗ mọc tăng diện tích về phía
ngoài và hai bên tán nấm. Một số loài nấm phía ngoài tán nấm có màu trắng hoặc vàng
thể hiện chúng đang tăng diện tích và thể tích thể quả. Khả năng sinh trưởng của nấm Lỗ
rất khoẻ. Khi gặp một cản trở nào đó, chúng có thể bao hết vật cản mọc ra phía ngoài.
Trong trường hợp bị thương do một nguyên nhân hay một tác động, chỗ bị thương sẽ
mọc lên một thể quả khác, có thể xếp ngang hàng hoặc xếp chồng lên nhau tạo nên một
thể quả có hình dạng khác thường. Nếu do một lý do nào đó, giá thể gỗ bị lật ngược, thể
quả có thể mọc đổi hướng cho phần tán nấm lên trên, lỗ nấm xuống dưới nhằm bảo tồn
sự sản sinh bào tử, bảo vệ sự phát triển nòi giống của nấm Lỗ. 3.2.2. Diễn thế quần xã
của nấm Lỗ
Quần xã sinh vật luôn luôn ở trạng thái biến đổi không ngừng, có sự thay đổi ngày
đêm , thay đổi theo mùa , thay đổi theo năm, nhưng sự thay dổi đó không gây ra sự biến
đổi bản chất quần xã, những đặc trưng cơ bản vẫn được giữ vững. Nhưng có khi trong
giới tự nhiên cũng thường thấy một hiện tượng khác, một quần xã phát triển thành một
quần xã khác . Hiện tượng đó gọi là diễn thế quần xã hoặc diễn thế sinh thái. Trong quá
trình diễn thế trải qua các giai đoạn, cuối cùng đạt được một quần xã tương đối ổn định ,
gọi là cực đỉnh.
Đối với các loài nấm Lỗ thường biến đổi theo loài cây chủ cho nên diễn thế của
cây chủ mặc dù chậm chạp, nhưng diễn thế quần thể của các loài nấm lại có thể rất
nhanh, tuỳ theo sự tác động của con người. Trong những quần thể cây rừng có độ tàn che
lớn sẽ tạo điều kiện cho nhiều loài nấm sinh trưởng phát triển, còn ở những nơi độ tàn
che nhỏ dưới 0,5 thường ít thấy hoặc không thấy nấm Lỗ. Hiện tượng này xuất hiện cách
đây 5 năm trên gốc chặt của rừng thông độ cao 400m có rất nhiều loài nấm chất gỗ thuộc
chi Ganoderma, Fomitopsis, nhưng 2-3 năm sau, do tác động chặt tỉa thưa rừng thông
làm đường phục vụ du lịch, không hề thấy một cá thể các loài nấm đó, thay vào đó là
những loài nấm chất da, chất thịt như Da trải hoặc Lỗ trải, rải rác có một vài loài nấm
Chân chim và một số loài nấm có kích thước rất nhỏ khác.

Về diễn thể quần xã của nấm Lỗ, hiện nay vẫn chưa có một thông báo về sự biến
đổi động thái các giai doạn mục khác nhau của gỗ. Một quần xã nấm này bị một quần xã
nấm khác thay thế là hiện tượng diễn thế thường xẩy ra. Một số loài nấm sống trên cây
sinh trưởng yếu làm cho cây đổ xuống, về sau có một số loài nấm khác sống trên đó xuất
hiện, hiện tượng này thường được phát hiện trong quá trình điều tra. Điều này có thể
giải thích ban đầu là nấm kiêm ký sinh gây hại, sau đó là những nấm kiêm hoại sinh và
nấm hoại sinh. Vì vậy chúng ta có thể dự đoán được những loài cây sống lâu năm bị
thương do mối, mọt, xén tóc hay con người tác động sẽ dẫn đến một số loài nấm kiêm ký
sinh gây hại nhất là các loài nấm thuộc các họ Ganodermataceae, Polyporaceae,
Fomitopsidaceae gây mục lõi hay mục dác làm cho cành khô cây chết hoặc cây đổ. Về
sau nhiều loài nấm sống 1 năm gây mục dác xuất hiện thuộc các chi như Trametes,
Lenzites, Microporus, Pycnoporus Trong công tác bảo vệ rừng, tránh gây vết thương,
hạn chế sự xâm nhập của xén tóc, cát đinh, vòi voi, mối, mọt là điều vô cùng quan trọng
nhằm bảo vệ những cây sống lâu năm mang tính chất lịch sử có giá trị du lịch trong
vườn Quốc gia và khu bảo tồn.
20


Về kết cấu quần xã, các nhà khoa học chia ra kết cấu không gian và két cấu thời
gian. Kết cấu không gian được chia ra kết cấu thẳng đứng và kết cấu nằm ngang. Kết cấu
thẳng đứng liên quan mật thiết với ánh sáng, mỗi lớp thực vật thích ứng với một độ
chiếu sáng, những tầng dưới, cường độ chiếu sáng thấp, hiện tượng giảm dần cường độ
chiếu sáng trong rừng rất rõ rệt. Sự thay đổi cường độ chiếu sáng kéo theo sự thay đổi
nhiệt độ, độ ẩm không khí.Trong tầng cành khô lá rụng, các xác thực vật bị phân giải
bao gồm các loài quyết, địa y và nấm, các côn trùng, ruồi, nhện Tầng trên mặt đất chứa
đầy các rễ cây. Tại đây có nhiều vi khuẩn, nấm, côn trùng, giun. Có lúc ở dưới sâu còn
có một số động vật sống trong hang.Tại vườn QGBV nấm Lỗ thường xuất hiện ở tầng
cành khô lá rụng, nơi xác thực vật bị phân giải. Rất ít loài mọc ở tầng cây cao trừ cây đã
chết khô. Bởi vì nấm là loại sinh vật không cần quang hợp, ít chịu ảnh hưởng của ánh
sáng trực xạ. Cho nên chúng chỉ có thể tồn tại phát triển ở tầng cành khô lá rụng dưới

rừng. Một số loài nấm Lỗ mọc trên tầng mùn trên mặt đất thuộc chi Amauroderma,
Ganoderma còn không có nấm nào mọc ở tầng có độ sâu dưới 20cm. Nhận xét này cũng
phù hợp với công trình nghiên cứu của Wu Xingliang (2012)
Về kết cấu nằm ngang của quần xã nấm Lỗ, nhiều quần xã sinh vật không chỉ
phân hoá kết cấu thẳng đứng mà còn có kết cấu nằm ngang. Chúng biểu hiện mọc thành
đám phân bố không đều. Trên các đám không đều các loài cây, số lượng của chúng. độ
tàn che, sản lượng và các tính chất khác đều không như nhau. Tại khu vực nghiên cứu,
nấm Lỗ cũng phân bố không đều theo loài và các cá thể. Chúng thường mọc thành đám
và thành cụm theo loài cây chủ, các loại cành khô lá rụng của cây chủ. Nguyên nhân của
sự phân bố không đều đó chủ yếu là do độ chiếu sáng tạo nên phân bố cây chủ, sự hình
thành các loài sinh vật ký sinh, hoạt động của động vật và con người. Điều này khác với
sự phân bố ở các vùng hoang mạc và đồng cỏ.
Theo phân tích của các nhà sinh thái học, những vùng Ôn đới và Hàn đới có ít số
loài và phân bố cá thể thưa thớt , tính đa dạng rất thấp ; ở vùng Nhiệt đới số cá thể khá
đồng đều giữa mọi loài, giữa 2 cây gần nhau rất ít khi cùng loài ( Rừng mưa nhiệt đới),
tính đa dạng loài khá cao. Tính đa dạng loài quần xã quyết định bởi thời gian tiến hoá,
tính ổn đinh của môi trường và tinh có lợi của điều kiện sinh thái. Những cây to cổ xưa
vùng Nhiệt đới hình thành sự ổn định nhất về môi trường, khí hậu nhiệt độ cao, nhiều
mưa rất có lợi cho sinh trưởng các loài sinh vật nên tính đa dạng loài lớn nhất. (Wei
Yulian ,2004)
3.2.3. Công dụng của nấm Lỗ
Phải nói rằng mọi sinh vật trong hệ sinh thái đều có mặt có lợi và mặt có hại,
chúng ta cần khai thác mặt có lợi, tránh hoặc giảm bớt mặt có hại. Nấm nói chung, nấm
Lỗ nói riêng cũng không ngoài những mặt đó. Bên cạnh gây mục gỗ, chúng có tác dụng
phân giải gỗ làm giàu rừng, nhiều loài có thể làm nấm làm thực phẩm và làm dược liệu.
Công dụng của 117 loài nấm Lỗ đã được tổng hợp trên bảng 3-13:
Bảng 3.13. Công dụng của các loài nấm Lỗ
Công d

ng


S


loài

T


l


(%)

Thưc ph

m

8

6,83



c li

u

29


24,79

Kháng u

24

20,51

Phân gi

i g


117

100

Khác

17

14,53

21


Bảng trên chứng tỏ nấm Lỗ có nhiều tác dụng. Trong 117 loài được thống kê chỉ
có 6,83% loài làm thực phẩm khi nấm còn non, 24,79% loài làm dược liệu, 20,51% loài
có tác dụng kháng ung thư, 100% loài phân giải gỗ mục làm giàu hệ sinh thái rừng,
14,73% loài có những tác dụng đặc biệt như ức chế tuyến trùng, phân giải kim loại nặng,

các chất độc trong đất, nước. Trong các loài trên, để bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lỗ,
cần chú ý khai thác hợp lý, nghiên cứu nuôi trồng những loài nấm dược liệu và nấm
kháng ung thư. Những loài phân giải gỗ ở một số cây trồng lâu năm cần chú ý khai thác
đúng kỳ hạn. Nghĩa là khi cây biến màu cần tiến hành khai thác ngay. Đối với những
cành khô lá rụng, cây khô cây đổ có thể không cần thu dọn để cho các loài nấm hoại sinh
phân giải tạo nên chu trình tuần hoàn vật chất trong hệ sinh thái rừng.
3.3. Một số ý kiến đề xuất các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lớn vườn
QGBV
3.3.1. Những loài nấm cần được bảo tồn
Những tiêu chí cơ bản để đề xuất những loài nấm cần được bảo vệ là:
- Dựa vào đặc điểm sinh thái của nấm Lớn có vai trò quan trọng trong bảo vệ tính
đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng,
- Dựa vào những đặc điểm đa công dụng của một số loài nấm Lớn, trong đó có
một số loài có tác dụng ức chế ung thư, chữa bệnh hiểm nghèo, diệt tuyến trùng hại
thông và phân giải kim loại nặng.
Trong quá trình điều tra nghiên cứu từ các tài liệu về công dụng của nấm Lỗ hiện có
ở khu vực nghiên cứu, những loài nấm cần bảo tồn được thống kê trên bảng 3-14:
Bảng 3.14. Những loài nấm Lỗ cần được bảo tồn
TT Tên nấm TP DL KU PGG Khác
1

Ganoderma ahmadii







*


2 G. applanatum ■ ☻ ♥ ♦
3 Ganoderma australe ☻ ♥ ♦
4 G. formosanum ☻ ♥ ♦
5 Ganoderma lobatum ☻ ♥ ♦
6

Ganoderma lucidum









7 G. mastoporum ☻ ♥ ♦
8

G. neo
-
japonicum










9 Ganoderma oroflavum ☻ ♥ ♦
10 Ganoderma tropicum ☻ ♥ ♦
11 Amauroderma rude ☻ ♥
12 Fomitopsis cajanderi ☻ ♦
13

F. rufolaccata









14 Daedalea dickinsii ☻ ♥ ♦
15

Isch. resino
sum









16 Laetiporus sulphureus ■ ☻ ♥ ♦ *
17 Fomes fulvellus ☻ ♥ ♦
18 Fomes fomentarius ☻ ♥ ♦
19 Lenzites betulina ☻ ♥ ♦
20

Microporus xanthopus










21 Pycno. cinnabarinus ☻ ♥ ♦
22 P. sanguineus ☻ ♥ ♦
23 Trametes gibbosa ♥ ♦ *
24 Trametes palisotii ☻ ♦ *
25

Trametes suaveolens









*

22


26 Tyromyces lacteus ☻ ♥ ♦ *
27

Polyporus melanopus










28 Lentinus badius ■ ☻ ♦
29 Lentinus tigrinus ■ ♦
30

Panus neostrigosus










31 Panus conchatus ♥ ♦ *
32

Grifola frondosa










33 Meripilus giganteus ■ ♦ *
Ghi chú: Theo các tài liệu tham khảo đã dẫn
Do tác dụng quan trọng của nấm Lỗ trong hệ sinh thái rừng, ở mức độ nhất định
phải bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ của rừng, không chỉ phải bảo vệ tính
đa dạng cây rừng, động vật mà còn phải bảo vệ tính đa dạng các loài nấm Lớn. Hiện nay
nước ta chưa có cuốn sách đỏ nói về nấm, do nhiều loài nấm sống trên cây đổ, cây mục,
khi bảo vệ hệ sinh thái rừng phải giữ lại các cây đổ, cây mục trong rừng là một biện pháp
quan trọng để bảo vệ tính đa dạng các loài nấm Lỗ. Nhiều loài nấm ăn và nấm làm
thuốc quý hiếm cần nghiên cứu nuôi trồng theo phương pháp công nghệ sinh học, tạo
nên nguồn dược liệu hoặc thực phẩm cho nhân dân là điều cần thiết.

Theo phân tích của các chuyên gia lâm nghiệp, nguyên nhân của sự suy giảm diện
tích rừng tự nhiên là do tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép ở
một số địa phương. Công tác bảo vệ và phát triển rừng chưa được các đia phương quan
tâm đúng mức. Công tác kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng còn nhiều hạn chế,
bất cập. Vồn đầu tư của các dự án còn thấp so với nhu cầu phát triển. Hệ thống chính
sách lâm nghiệp chưa đồng bộ, thiếu sự hướng dẫn. Chính quyền cơ sở chưa kiên quyết
có những biện pháp, chế tài đủ mạnh để ngăn chặn viêc chặt phá rừng, gây cháy rừng.
Công tác tuyên truyền giáo duc về Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Bảo tồn đa dạng
sinh học chưa thu hút được sự tham gia của xã hội.
3.3.2. Đề xuất các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học nấm Lỗ
`1) Cần bảo vệ hệ sinh thái bền vững trên cơ sở bảo vệ đa dạng sinh học, trong đó
có bảo vệ và sử dụng hợp lý các loài nấm có nguy cơ tuyệt chủng, các loài nấm có ích
cho nghiên cứu khoa học và các loài nấm có lợi cho kinh tế. Đặc biệt chú ý đến các loại
rừng III A1, hường Đông Nam, khu vực địa hình núi vừa.
2) Bằng mọi hình thức khoanh nuôi bảo vệ và trồng mới nhiều loài cây gỗ tạo nên
khu rừng hỗn giao có cành khô lá rụng có cây khô cây đổ tạo điều kiện cho nhiều nấm
mọc nhằm phân giải gỗ và chất hữu cơ để làm giàu rừng. Đồng thời tạo điều kiện cho
các côn trùng và động vật cư trú sinh tồn.
3) Cần xuất bản cuốn số tay tài nguyên nấm cho một số vườn Quốc gia và khu
bảo tồn nói chung và vườn Quốc gia Ba Vì nói riêng để nâng cao nhận thức cơ bản cho
nhân viên Kiểm lâm và nhân dân quanh vùng nhằm bảo tồn các loài nấm quý hiếm có
hiệu quả.
4) Các nhà khoa học chuyên môn liên quan cần nghiên cứu xây dựng một số Quy
phạm Bảo vệ nấm và vi sinh vật về các mặt điều tra, giám định, thu thập, chụp ảnh, nhân
giống, bảo vệ nguồn gen mà các nước đã và đang thực hiện trong mấy năm gần đây.
5) Cần nghiên cứu phát hiện, nhân nuôi nhiều loài nấm có ích khác ngoài những
loài đã nuôi trồng, nhằm bảo tồn tình đa dạng những loài nấm Lớn, góp phần phát triển
bền vững hệ sinh thái rừng, đặc biệt phải chú ý đến những loài nấm diệt tuyến trùng,
23



phân giải các chất kim loại nặng gây ô nhiễm môi trường, các chất độc trong đất và
không khí.
6) Nhà nước đã phê duyệt chính sách rừng đặc dụng ( Quyết định số 24/2012 /QĐ-
TTg) và thí điểm chính sách đồng quản lý rừng ( QĐ 126/2012/QĐ-TTg), chương trình
hành động quốc gia về REDD (góp phần giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với
biến đổi khí hậu toàn cầu do UN tài trợ) giai đoạn 2011-2020 tại Quyết định 799/QĐ-
TTg ngày 27 tháng 6 năm 2012. Những chính sách đó phải được thấm nhuần trong quần
chúng.
7) Tiến tới xây dựng sách đỏ cho các loài nấm Lớn như một số nước đã thực hiện
nhằm bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng, loài bị uy hiếp và loài quý hiếm.






KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu trên, cho ta rút ra một số kết luận sau: 1.1. Nấm
Lỗ vườn QGBV có 117 loài thuộc 43 chi, 6 họ. Trong đó có 15 loài lần đầu tiên phát
hiện được ở khu vực nghiên cứu. Họ có số loài nhiều nhất là Polypolaceae,sau đó là
Ganodermataceae .Chi có số loài nhiều nhất là Ganoderma, sau đó là Amauroderma, rồi
đến Trametes, Polyporus. Có 23 chi chỉ có 1 loài, chiếm 53,8%, số chi có 3 loài trở lên
có 10 loài, chiếm 23,26%.
1.2. Số loài và số thể quả nấm lỗ chiếm số lượng nhiều nhất là Polyporaceae, sau
đó là Ganodermataceae, rồi đến Meripilaceae
1.3.Về đặc điểm hình thái, phần lớn chúng không có cuống (chiếm 49,57%), sống
1 năm (88,89%), hầu hết thuộc chất bần và chất da (90,60%).
Về đặc điểm hiển vi, hầu hết nấm Lỗ có 3 hệ sợi (57,26%) và 2 hệ sợi (25,64%); 1 hệ sợi

chỉ chiếm 17,10% .Chứng tỏ chúng có mức độ tiến hoá khá cao. Nhiều loài nấm có khoá,
Tỷ lệ sợi nấm có khoá và không khoá xấp xỉ nhau ( 48,72% và 51,28%); hầu hết bào tử
nấm Lõ có dạng hình bầu dục, hính trụ và hình trứng không màu vách mỏng.
1.4.Về tình hình phân bố nấm Lỗ vườn QGBV phụ thuộc vào nhiều nhân tố phi
sinh vật thể hiện chủ yếu có ở vùng Nhiệt đới và Cận nhiệt đới, ở độ cao trên 700m,
sườn Đông Nam, mọc theo mùa và chịu ảnh hưởng của các nhân tố sinh vật bao gồm
loài cây chủ, trạng thái rừng, kiểu rừng, các kiểu mục, các loài côn trùng và các sinh vật

×