Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận môn Quản trị học Cơ sở văn hóa Việt Nam và tác động của văn hóa tới các công tác quản trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.24 KB, 37 trang )

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình
thành và phát triển. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường,
nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn
bản sắc của dân tộc.
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng
các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền
tảng sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta vẫn giữ vững
và phát huy bản sắc của mình, không những không bị đồng hoá, mà chúng ta còn
biết tiếp nhận có chọn lọc, làm cho nền văn hóa nước nhà phong phú và có bản sắc
riêng.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người. Điều đó khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, bao gồm cả văn hóa cá nhân, xã hội và tổ chức.
Trong thời kì hội nhập kinh tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại
gần nhau hơn, tầm quan trọng của việc xây dựng được một văn hóa riêng cho tổ
chức, cho doanh nghiệp cần được hiểu đúng và đủ. Văn hóa tổ chức là vũ khí tinh
thần, là sợi dây kết nối tất cả các nguồn lực trong tổ chức tạo ra sức mạnh giúp
doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Muốn như thế, chúng ta cần hiểu những khái niệm chung nhất, cơ bản nhất về
văn hóa dân tộc, văn hóa tổ chức và những ảnh hưởng của mỗi loại hình văn hóa
dân tộc lên tổ chức, để làm tiền đề cho các hoạch định xa hơn trong công tác xây
dựng, giữ gìn, và phát huy văn hóa dân tộc, cũng như văn hóa của tổ chức mình.
Với những lý do trên, nhóm chúng tôi viết tiểu luận về “Cơ sở văn hóa Việt
Nam và tác động của văn hóa tới các công tác quản trị doanh nghiệp”.
Bài tiểu luận gồm 3 phần chính thể hiện bằng 3 chương:
Chương 1: Văn hóa dân tộc


Chương 2: Văn hóa tổ chức
Chương 3: Tác động của văn hóa lên các chức năng của quản trị.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 1
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
CHƯƠNG 1. VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1. Định nghĩa văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc
tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và
phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là
trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và
hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật
chất và tinh thần do con người tạo ra.
Từ “Văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ
phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả,
từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống
Theo đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam -
Bộ giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhà xuất bản Văn hóa – Thông
tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con
người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Trong từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, do nhà xuất bản Đà Nẵng và
trung tâm từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra nhiều quan niệm về văn hóa:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội. Văn hóa là những hoạt
động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần; Văn hóa là trình độ
cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; Văn hóa còn là cụm từ để chỉ

một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng
thể những di vật có những đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa
Đông Sơn.
Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và nhà
xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: “Văn hóa – Vô
sở bất tại”, tức là “Văn hóa - Không nơi nào không có!”. Điều này cho thấy tất cả
những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có
con người nơi đó có văn hóa.
Trong cuốn sách: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS. VS Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 2
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: “Văn hóa
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia”.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người
sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
1.2. Tính chất và chức năng của văn hóa
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với
nhau. Do đó, văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Ta cần nghiên cứu văn hóa
như một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do các ngành khác như dân
tộc học, sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học cung cấp với mục đích phát hiện các
đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển để tìm ra bản sắc, đặc trưng riêng
của từng nền văn hóa. Nghiên cứu văn hóa dân tộc theo lối này không chỉ là tìm
hiểu "Cái gì?", mà chủ yếu là tìm hiểu "Tại sao?" và "Như thế nào?". Nhờ đi vào bề
sâu, tìm những mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học sẽ cho
phép ta, chẳng hạn, nếu biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể
nói được rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào Tính hệ

thống của văn hóa thể hiện sự tác động qua lại, ảnh hưởng nhau lên các phương
diện khác của xã hội, từ đó lấy văn hóa làm cơ sở cho việc nghiên cứu các lĩnh vực
khác nhau, các quốc gia khác nhau sẽ có tầm nhìn đa dạng và bao quát hơn nhưng
vẫn theo một hệ thống chặt chẽ, hợp lý của từng giai đoạn. Văn hóa gắn liền với các
giai đoạn lịch sử, nhờ nghiên cứu văn hóa ta có thêm cơ sở lý giải nhiều sự vật, hiện
tượng khác. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao
trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội, nhiều mặt
của đời sống xã hội mang đậm dấu ấn của văn hóa qua từng thời kỳ, tác động đến
lối sống, tư duy, cách ứng xử xã hội Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn
định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phó với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình.
1.2.2. Tính giá trị và chức năng thúc đẩy xã hội vận động đi lên
Tính chất quan trọng thứ hai của văn hóa là giá trị. Giá trị là những gì mà qua
đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều gì là đáng mong muốn và không
đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu Trong một xã hội, các thành
viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và về thế giới dựa trên những
giá trị văn hóa. Trong quá trình trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà
trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội và thông qua đó xác định nên suy nghĩ và hành
động như thế nào theo những giá trị của nền văn hóa. Giá trị là sự đánh giá trên
quan điểm văn hóa nên khác nhau ở từng cá nhân nhưng trong một nền văn hóa, có
những giá trị mà đại đa số các thành viên đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn
như tự do, bình đẳng, tiến bộ, v.v Giá trị cũng luôn luôn thay đổi và ngoài xung
đột về giá trị giữa các cá nhân hoặc các nhóm trong xã hội, trong chính bản thân
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 3
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
từng cá nhân cũng có xung đột về giá trị, chẳng hạn như giữa thành công của cá
nhân mình với tinh thần cộng đồng.
Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất, phục vụ
cho nhu cầu vật chất, và giá trị tinh thần, phục vụ cho nhu cầu tinh thần. Theo ý
nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ. Các giá

trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần
còn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng như khoa học, giáo dục trong đó có
cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm ngàn đời, con
người đã tích lũy được.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con
người quyết định, chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo
của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự
phát triển xã hội. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được
chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã
hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng tự hoàn thiện và
thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát
triển.
Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng bộ phận là định hướng các
chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con người. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn
hóa có chức năng phái sinh là động lực cho sự phát triển của xã hội. Không phải
ngẫu nhiên mà UNESCO nhấn mạnh rằng văn hóa chiếm vị trí trung tâm và đóng
vai trò điều tiết của phát triển. Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm
cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con
người: văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn
hóa trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngoài xã hội, văn hóa trong
giao lưu và hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa
trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát
triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều
kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu
bền.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là
chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động
không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng

hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá
trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng
bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 4
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như
những mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ
yếu bằng văn hóa.
Văn hóa truyền thống Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hòa hợp, hài
hòa với thiên nhiên. Nó đưa ra mô hình ứng xử có văn hóa của con người đối với
thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu
mai sau.
Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha
hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi
bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác,
của dân tộc khác.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác
định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm; Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt; Xây dựng văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững của đất nước.
Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định là phải “Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan trọng để
đất nước phát triển bền vững.
1.2.3. Tính lịch sử và truyền thống có chức năng giáo dục, duy trì cộng
đồng
Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một
quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề

dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành
phân loại và phân bố lại các giá trị.
Văn hoá bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua
nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo cho văn hoá một bề dày, một chiều sâu. Nó
được duy trì bằng truyền thống văn hoá, tức là cơ chế tích luỹ và truyền đạt kinh
nghiệm trong cộng đồng qua không gian và thời gian. Nó là những giá trị tương đối
ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được
tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…
Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị ổn định
mà còn bằng những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và các giá trị
đang hình thành tạo nên một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ đó,
văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng
người, dưỡng dục nhân cách. Một đứa trẻ được sống với cha mẹ sẽ được giáo dục
theo truyền thống văn hoá trong gia đình mình được sinh ra; còn nếu bị rơi vào
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 5
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
rừng, đứa trẻ ấy sẽ mang hành vi, tính nết của loài thú. Không phải ngẫu nhiên mà
trong trong các ngôn ngữ phương Tây khác nhau, thuật ngữ “văn hoá” (cultura,
culture) đều có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo dục, vun trồng… Chức
năng giáo dục của văn hoá sẽ đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nếu gien sinh học di
truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con người thì văn hoá được coi là một thứ
“gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
Do là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người,
văn hoá có tính nhân sinh đậm nét và trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng
thông qua ngôn ngữ. Nếu như ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hoá là nội
dung của nó. Điều đó đúng với giao tiếp giữa cá nhân trong một dân tộc, lại càng
đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và sự giao tiếp
giữa các nền văn hoá khác nhau.
Bằng chức năng giáo dục, văn hoá tạo cho lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi dân

tộc một sự phát triển liên tục. Chức năng tổ chức xã hội và sự phát sinh của chức
năng này là văn hoá có chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực,
các cách ứng xử của con người. Gần đây, UNESCO cũng như Đảng và Nhà nước ta
cho rằng văn hoá là động lực của phát triển, chính là đề cập đến chức năng này.
1.2.4. Tính dân tộc tạo nên cá tính, bản sắc riêng, phân biệt với dân tộc
khác
Tính chất dân tộc của nền văn hóa là cái “cốt”, cái tinh tuý bên trong rất đặc
trưng của nền văn hoá dân tộc. Nó là “căn cước” của một dân tộc, để phân biệt
không nhầm lẫn với văn hoá của dân tộc khác. Để được như vậy, phải “trau dồi cho
văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam”, phải “lột tả cho hết tinh thần
dân tộc”. Đó là chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc lập, tự lực tự cường, đoàn kết,
nhân nghĩa… của dân tộc. Bác Hồ đã chỉ ra rằng, “nếu dân tộc hóa mà phát triển
đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó, vì lúc bấy giờ văn hóa thế giới sẽ
phải chú ý đến văn hóa của mình và văn hóa của mình sẽ chiếm được địa vị ngang
với các nền văn hoá thế giới”. Tính dân tộc của nền văn hoá không phải “nhất thành
bất biến”, không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho
phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Con người vừa là chủ thể của sự sáng tạo văn hóa vừa là sản phẩm của văn
hóa. Trong quá trình vận động và phát triển, các quốc gia đều xây dựng và phát
triển các giá trị văn hóa của dân tộc mình, bảo lưu và truyền đạt cho các thế hệ tiếp
nối, tạo thành một dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa dân tộc. Các giá trị văn
hóa này được kết tinh ở truyền thống văn hóa dân tộc và được biểu hiện sinh động ở
các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể cùng phương thức ứng xử của con người
trong hoạt động thực tiễn. Toàn bộ những giá trị đó tạo thành nền tảng tinh thần của
dân tộc, là cơ sở liên kết và đúc kết các thế hệ, tạo nên sức sống của một dân tộc,
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 6
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
tạo nên bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh và xây dựng bảo vệ đất
nước. Nền tảng tinh thần văn hoá Việt Nam là toàn bộ các giá trị do dân tộc Việt

Nam sáng tạo ra đúc kết thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời này sang đời
khác.
Nền tảng tinh thần xã hội chính là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội truyền
thống, đã được đúc kết từ trong lịch sử dân tộc, quốc gia, tạo nên bản sắc văn hoá,
là những nét riêng để phân biệt với các dân tộc khác, quốc gia khác.
1.3. Cấu trúc của một nền văn hóa
Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định - một chủ
thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng người - chủ thể văn
hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được một kho tàng kinh
nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về bản thân con người - đó chính là hai vi
hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.
Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng
đồng người - chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi
hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội
trong một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ
chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín
ngưỡng, phong tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ).
Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai
loại môi trường: môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu, v.v.) và môi trường xã
hội (các xã hội, dân tộc, quốc gia láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hóa còn bao
gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức xử sự của cộng đồng dân tộc với hai
loạ̣i môi trường ấy. Hai tiểu hệ đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn
hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Cấu trúc của hệ thống văn hóa trong quan hệ với loại hình văn hóa có thể tóm
tắt trong hình 1.1.
Văn hoá nhận thức
Nhận thức về vũ trụ
Nhận thức về con người
Văn hoá tổ chức cộng
đồng

Văn hoá tổ chức đời sống tập thể
Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân
Văn
hoá ứng
xử
Với môi
trường tự
nhiên
Văn hoá hòa hợp môi trường tự
nhiên
Văn hoá ứng phó với môi trường tự
nhiên
Với môi
trường xã hội
Văn hoá hòa hợp môi trường xã hội
Văn hoá ứng phó với môi trường xã
hội
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 7
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
Hình 1.1: Cấu trúc của hệ thống văn hóa.
1.4. Các loại hình văn hóa
1.4.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
Môi trường sống ở phương Đông (chính xác hơn là Đông Nam Á, miền Nam
Trung Quốc) là xứ nóng, mưa nhiều, ẩm, gió mùa, tạo nên những sông dài rộng với
các vùng đồng bằng trù phú, sông rạch chằng chịt, thích hợp cho việc trồng trọt.
Những người sống tại địa hình này chọn cách sống trồng trọt, lối sống nông nghiệp
hình thành. Đó là lối sống bắt buộc người dân phải định cư, định canh, trọng tĩnh vì:
- Nông nghiệp phải phụ thuộc, trông chờ nhiều vào thiên nhiên (mưa nắng
phải thì), dẫn đến lối sống hoà hợp cùng thiên nhiên, tôn trọng, không ganh đua với
thiên nhiên.

- Làm nông nghiệp cấy trồng thì phải định cư lâu dài, phải trông chờ mùa vụ,
sản phẩm cây trái dài ngày. Định cư nông nghiệp ưa ổn định, ưa tĩnh và khao khát
hoà bình, ''Trời yên biển lặng mới vui tấm lòng''.
- Nông nghiệp cấy trồng thì phải dựa vào nhau để tạo sức mạnh làm thủy lợi,
chiến thắng thiên tai địch hoạ. Phải dựa vào nhau nên phải yêu thương nhau, vì thế
văn hoá nông nghiệp thiên về trọng tình cảm, tình nghĩa ''Một bồ cái lý không bằng
một tý cái tình''.
- Yêu thương nhau thì ''chín bỏ làm mười', văn hoá nông nghiệp ít ưa hạch
toán, ít trọng lý, ít trọng pháp, dẫn đến lối ứng xử xuê xoa, đại khái.
- Thành quả nông nghiệp là từ nhiều yếu tố hợp thành: thời tiết, giống má, kỹ
thuật nên dẫn đến phát triển tư duy tổng hợp.Tổng hợp thì kéo theo biện chứng - tư
duy không phải là tập hợp các yếu tố riêng lẻ, mà là mối quan hệ qua lại giữa các
yếu tố.
- Văn hoá nông nghiệp trong cộng đồng, trọng tình nghĩa, tình cảm, khiến nảy
nở tâm lý hiếu hoà, cư xử khoan dung.
1.4.2. Loại hình văn hóa gốc du mục
Môi trường sống ở phương TÂY (chính xác là Tây Bắc Âu châu và miền Bắc
Trung Quốc) là xứ lạnh, với khí hậu khô ráo, tạo nên những đồng cỏ mênh mông,
thực vật khó sinh trưởng, thích hợp cho chăn nuôi theo bầy đàn. Sau thời kỳ lâu dài
sống bằng hái lượm và săn bắt, những người cư ngụ tại xứ lạnh, khí hậu khô ráo với
những đồng cỏ rộng lớn, chuyển sang sống bằng chăn nuôi theo bầy đàn từ đó hình
thành cách sống du mục.
Tài sản của dân du mục là đàn súc vật. Súc vật ăn cỏ, ăn hết cỏ, không thể
ngồi đợi cho cỏ mọc, phải đi tìm bãi cỏ khác. Vì thế nghề chăn nuôi theo bầy đàn
dẫn đến nếp sống du cư, vừa đi vừa ở, nay đây mai đó, lang thang trên các đồng cỏ,
không bao giờ ở một chỗ nhất định. Súc vật di chuyển phải được điều động có kỷ
luật, với đánh đập la hét, loại bỏ những con vật yếu đuối, bệnh tật. Điều đó giải
thích tính khắc nghiệt trong quan hệ giữa người với người tại Tây phương cũng như
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 8
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP

miền Bắc Trung Quốc. Cách sống đó bắt buộc dân du mục thường xuyên chém giết
nhau để chiếm đoạt từng bãi cỏ, từng vũng nước …
Nếp sống đó dần dần đã rèn luyện cho dân du mục tính hiếu chiến, thích
cưỡng đoạt với óc độc tôn độc hữu. Những kinh nghiệm của kỷ luật và kỹ thuật
chăn nuôi theo bầy đàn chuyển hóa vào tâm thức, biến thành môi trường văn hóa
tinh thần. Trên cơ sở đó, văn hóa du mục phát sinh chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở
phương Tây và miền Bắc Trung Quốc.
Để phục vụ cho đô thị và có hàng hóa mang trao đổi lấy sản phẩm nông
nghiệp về nuôi sống đô thị, đồng thời với sự phát triển khoa học sản phẩm của tư
duy phân tích, một xã hội công nghiệp được hình thành.
- Dân du mục sống không phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không coi trọng
thiên nhiên bằng coi trọng sức mạnh con người; ít chú ý bảo vệ thiên nhiên. Con
người trong ứng xử thì độc tôn, trong tiếp nhận theo xu hướng chiếm đoạt và trong
đối phó thì cứng rắn.
- Du mục ưa di chuyển, trọng động, hiếu chiến (khởi nguyên là từ chiếm đoạt
gia súc, chiếm đoạt thị trường).
- Sự ra đời của thương nghiệp, đô thị, công nghiệp đòi hỏi phải tính toán, hạch
toán, nên tư duy phân tích sớm phát triển.Tư duy phân tích chú trọng các thành tố,
yếu tố, dẫn đến phát triển mạnh về cấp số nhân, kéo theo sự xuất hiện trừu tượng
hoá thoát khỏi những yếu tố ban đầu, dẫn đến siêu hình. Tư duy phân tích gắn liền
với siêu hình nên triết học siêu hình sớm nảy nở.
- Thương nghiệp, công nghiệp thì phải hạch toán, dẫn đến rất coi trọng và
thiên về pháp lý hơn tình cảm. Đó chính là cơ sở cho pháp luật sớm ra đời,
Như vậy, sự khác biệt giữa hai loại hình văn hóa có thể được so sánh như sau:
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 9
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
VĂN HÓA GỐC NÔNG NGHIỆP VĂN HÓA GỐC DU MỤC
1. Sự hình thành và phạm vi ảnh
hưởng:
Những dân cư của nền văn hóa nông

nghiệp phần lớn sinh sống ở vùng khí
hậu nhiệt đới, nhiều đồng bằng, sông
nước như vùng Đông Nam Á, miền Hoa
Nam Trung Hoa, một số khu vực khác ở
châu Á, môi trường sống là xứ nóng,
sinh ra mưa nhiều tạo nên những con
sông lớn với những đồng bằng trù phú.
Sống định cư ổn định, nghề nghiệp
chính là trồng lúa nước
2. Về văn hóa nhận thức:
Sống phụ thuộc vào thiên nhiên,
không phải chỉ chịu ảnh hưởng vào
những sự riêng lẻ mà tất cả cùng một
lúc; trời, đất, mưa, gió, nước, trông trời,
trông đất, trông mây, trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm… Tư duy
tổng hợp và biện chứng là đặc trưng của
văn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh mà
nông nghiệp trồng lúc nước là điển hình.
3. Văn hóa tổ chức cộng đồng:
Về mặt nguyên tắc tổ chức cộng
đồng, chúng ta nhận thấy vì sống ổn
định lâu dài với nhau, nên lối sống trọng
tĩnh làm nảy sinh nguyên tắc trọng tình,
trọng văn và trọng nữ. Nếp sống nông
nghiệp trồng lúa nước tạo điều kiện
thuận lợi khiến con người thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau. Tình thương nảy nở
tự nhiên trong gia đình đã lan ra đồng
ruộng, trong xóm làng. Đó là đầu mối

cho việc xây dựng nếp sống hài hòa, hòa
thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu:
một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.
1. Sự hình thành và phạm vi ảnh
hưởng
Dân cư của nền văn hóa du mục phần
lớn hình thành và phát triển ở các vùng
thảo nguyên, đồng cỏ, khí hậu ôn đới,
như các vùng Tây Bắc Trung Hoa, Mông
Cổ, Châu Âu, Châu Mỹ.
Sống bằng nghề chăn nụôi theo bày
đàn lối sống du cư, trọng động.
2. Về văn hóa nhận thức:
Họ không coi trọng thiên nhiên, có
tham vọng chinh phục, chế ngự thiên
nhiên. Đối tượng quan tâm ở đây là tập
trung vào chính các bộ phận riêng lẻ. Tư
duy phân tích và siêu hình chính là đặc
trưng của văn hóa trọng động gốc du
mục. Tư duy phân tích và siêu hình là cơ
sở cho sự hình thành và phát triển của
khoa học.
3. Văn hóa tổ chức cộng đồng:
Vì sống du cư nên lối sống trọng động
làm nẩy sinh nguyên tắc trọng lý, trọng
sức mạnh, trọng tài, trọng võ và kéo theo
trọng nam khinh nữ. Ở Tây phương,
người nữ khi lấy chồng, không còn mang
họ của gia đình. Cựu ước xem phụ nữ
đồng hạng với nô lệ, với gia súc và với

đồ vật sở hữu của người đàn ông.
Tư duy phân tích của văn hóa trọng
động gốc du mục (cách thức chăn rèn
súc vật) dẫn đến cách tổ chức cộng động
theo khuôn phép. Cuộc sống du cư đòi
hỏi con người luôn luôn phải sống có tổ
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 10
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
Hài hòa với thiên nhiên (trời trong biển
lặng mới yên tấm lòng). Lối sống trọng
tình cảm, tất yếu dẫn đến thái độ trọng
đức, trọng văn, trọng nữ.
Như vậy có thể nói một trong những
đặc trưng quan trọng của nền văn hóa
nông nghiệp trồng lúa nước là tâm lý coi
trọng tập thể, cộng đồng.
4. Văn hóa ứng xử với môi trường
thiên nhiên:
Còn những sắc dân nông nghiệp – nếp
sống định cư – tìm kiếm sự ổn định lâu
dài (tinh thần trọng tĩnh). Nông dân, nhất
là nông dân trồng lúa nước (dân Việt,
dân Đông Nam Á) sống phụ thuộc rất
nhiều vào thiên nhiên. Qua những yếu tố
thời tiết, nắng mưa, giông bão v.v…,
người nông dân có tâm lý tôn trọng tìm
cách thích nghi với thiên nhiên. Sống
hòa hợp với thiên nhiên là điều bận tâm,
mong muốn của cư dân thuộc các nền
văn hóa nông nghiệp trọng tĩnh.

5. Văn hóa ứng xử với môi trường
xã hội:
Dân gốc nông nghiệp, sống định canh
định cư ổn định lâu dài nên ưa tĩnh, sống
yên vui trong xóm làng với cái nhà, ao
cá v.v… Nông dân xây dựng nếp sống
đổi công, nay người mai ta, tương trợ lẫn
nhau để gặt hái được kết quả tốt đẹp
trong việc cày cấy, trồng trọt. Do đó, đời
sống nông nghiệp ổn định hơn đời sống
dân du mục. Lề lối sinh hoạt đó rèn
luyện cho dân nông nghiệp nếp sống
trọng tình nghĩa, tôn trọng sự bình đẳng
giữa nam và nữ, phân công hợp tác trong
nông vụ, trong gia đình.
chức, phải tuân thủ kỷ luật chặt chẽ. Đó
là đầu mối dẫn đến sự hình thành một
nếp sống theo pháp luật với tính tổ chức
cao.
Coi trọng cá nhân, ứng xử theo
nguyên tắc và coi trọng pháp luật, có
truyền thống cạnh tranh
4. Văn hóa ứng xử với môi trường
thiên nhiên:
Dân du mục, nếu thấy nơi này không
thuận tiện, họ có thể dễ dàng đi nơi khác,
không quan tâm đến thiên nhiên (địa lý,
khí hậu thời tiết).
Lề lối sinh hoạt đó dẫn đến tâm lý coi
thường thiên nhiên. Đồng cỏ, nguồn

nước mới là bận tâm của dân du mục.
Họ không coi trọng thiên nhiên, có tham
vọng ứng phó, chinh phục thiên nhiên.
5. Văn hóa ứng xử với môi trường
xã hội:
Dân gốc du mục hằng ngày điều động
đàn súc vật đến những bãi cỏ, di chuyển
luôn luôn, coi trọng những người khỏe
mạnh, tháo vát. Lề lối sinh hoạt đó tạo
cho người chăn nuôi theo bầy đàn (dân
du mục) tinh thần trọng sức mạnh, trọng
võ (thiên về quân sự), trọng nam giới
(khinh nữ).
Trong ứng xử với môi trường xã hội
thì độc tôn trong tiếp nhận và cứng rắn
trong đối phó.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 11
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
1.5. Định vị văn hóa Việt Nam
Việt Nam do ở góc tận cùng phía Đông - Nam nên thuộc loại văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình. Thể hiện trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề
trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái
và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý
thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở
miệng là nói "lạy trời", "nhờ trời", "ơn trời"
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm

Trời trong, bể lặng mới yên tấm lòng.
Cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo
biện chứng. Cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ,
mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu
tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích
lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm
thì ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa
mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc
trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa
thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình.
Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà là coi trọng cái bếp
và coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình, là người nắm tay hòm chìa khóa.
Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”, “Lệnh ông không bằng
cồng bà” Còn theo kinh nghiệm dân gian thì “Ruộng sâu trâu nái, không bằng con
gái đầu lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong
việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của
người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là "mẹ" đã mang thêm nghĩa
"chính, quan trọng": sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái,
máy cái.
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông
nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn ứng biến
sao cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống “Ở bầu thì tròn, ở
ống thì dài”, “Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy”…
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 12
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
Sống theo tình cảm, con người phải biết cư xử bình đẳng, tôn trọng, và dân
chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc. Lối sống trọng tình và cư xử dân chủ

dẫn đến tâm lý coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải
tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện, biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc,
thiếu tôn trọng pháp luật… Thích đi cửa sau trong giải quyết công việc vì “Nhất
quen, nhì thân, tam thần, tứ thế”. Do đó, tính tổ chức của người nông nghiệp kém
hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh
hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam có nhiều tôn giáo,
đều được tôn trọng và đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm
lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 13
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA CỦA TỔ CHỨC
2.1. Khái niệm và các thành tố của văn hóa của tổ chức
2.1.1. Khái niệm
Thực tế cũng cho thấy rằng thành công hay thất bại của nhiều tổ chức ngoài
sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế
chung, sự cạnh tranh từ bên ngoài, v.v… còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên
trong. Các yếu tố bên trong sẽ tạo ra sức mạnh của doanh nghiệp, giúp cho doanh
nghiệp có được cái nhìn chiến lược, hoạch định và kiểm soát tốt hơn để có thể
khống chế được các rủi ro từ bên ngoài và đạt được các mục tiêu của mình. Vậy yếu
tố bên trong ấy là gì, sức mạnh doanh nghiệp có từ đâu, chất lượng quản lý chi phối
các hoạt động tổ chức như thế nào và ngược lại nó chịu những sự tác động nào. Một
trong những nguồn sức mạnh mà tổ chức có được chính là sức mạnh có được từ văn
hoá của tổ chức đó. Vậy văn hoá tổ chức hay văn hóa doanh nghiệp là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hoá doanh nghiệp, nhưng một
định nghĩa được coi là khái quát nhất về văn hoá được 2 học giả là Rolff Bergman
và Ian Stagg đồng thời là giảng viên của khoa quản trị kinh doanh trường đại học
Monash , một trong những trường đại học lớn của Úc cho rằng:
“Văn hoá của tổ chức là một hệ thống các ý nghĩa biểu đạt chung bao trùm

lên toàn bộ tổ chức, có tính chất quyết định tới mọi hành vi và hoạt động của toàn
bộ các thành viên trong tổ chức đó”.
Theo định nghĩa trên thì văn hoá doanh nghiệp đề cập đến nhiều vấn đề.
Thứ nhất, nói đến văn hóa của tổ chức là nói đến một nhận thức chỉ tồn tại
trong một tập thể chứ không phải trong một cá nhân. Do vậy các cá nhân ở những
cương vị khác nhau, thực hiện những quá trình khác nhau trong tổ chức đều có
khuynh hướng diễn tả văn hóa của tổ chức cùng một cách. Chính vì thế văn hóa của
tổ chức giúp cho người ta phân biệt được tổ chức này với tổ chức khác.
Thứ hai là, văn hoá doanh nghiệp là một khái niệm mô tả. Nó đề cập tới việc
các thành viên nhìn nhận về doanh nghiệp của họ như thế nào chứ không quan tâm
đến việc họ thích hay không thích.
Thứ ba là, văn hoá doanh nghiệp là một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực được xây dựng và áp dụng chung cho các thành viên của doanh nghiệp.
Hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này tạo nên và định hướng cho hành
động của toàn doanh nghiệp nhằm đạt được một mục tiêu chung.
Chức năng mà văn hóa tổ chức thực hiện là làm cho các thành viên thích ứng
với môi trường bên ngoài và hội nhập với nội bộ của tổ chức; giúp cho tổ chức thích
nghi với môi trường hoạt động của mình. Ngoài ra, văn hóa còn có chức năng điều
chỉnh hành vi của các thành viên phù hợp với hành vi được chấp nhận trong tổ
chức.
2.1.2. Thành tố của văn hóa tổ chức bao gồm
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 14
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
a. Những giá trị cốt lõi: là những giá trị trung tâm của văn hóa tổ chức phản
ánh những giá trị liên quan đến công việc của một xã hội, một cộng đồng mà trong
đó tổ chức đang hoạt động.
b. Những chuẩn mực: là những quy tắc không chính thức về những hành vi
ứng xử được các thành viên trong nhóm chia sẻ và bị ràng buộc phải tuân thủ.
c. Những niềm tin: những điều mà người ta tin là đúng, trung thực… và
thông thường nó đến từ bên ngoài của tổ chức như từ tôn giáo, và nó có tác động

đến những giá trị chung.
d. Những huyền thoại: là những câu chuyện liên quan đến các sự kiện mang
tính tiêu biểu cho các thành viên và thông thường nó được hư cấu từ những câu
chuyện có thật để tạo thành những hình ảnh lý tưởng.
e. Những nghi thức tập thể: là những hoạt động tinh thần của tập thể như lễ
hội… được lặp đi lặp lại để tạo nên sự đồng tâm hiệp lực giữa các thành viên và tạo
cho các thành viên cảm thấy họ là một bộ phận của tổ chức.
f. Những điều cấm kỵ: là những tập quán văn hóa của tổ chức ngăn cấm các
thành viên trong tổ chức không được phép làm, hay nói về điều gì đó.
2.2. Các loại hình văn hóa của tổ chức
Văn hóa của một tổ chức được nhận biết qua nhiều hình thức và mức độ
khác nhau như: khẩu hiện, triết lý kinh doanh, biểu tượng, cách ứng xử, quy tắc hay
những giá trị mà các thành viên trong tổ chức cảm nhận và chia sẻ thông qua những
khẩu hiệu, biểu tượng, biểu hiện đó.
Văn hóa của một tổ chức không dễ dàng được nhận thấy mà phải trải qua
một sự quan sát, phân tích, thảo luận và nghiên cứu để có thể hiểu được những giá
trị mà các cá nhân trong tổ chức đó cảm thụ và truyền đạt một cách vô thức.
Nếu dựa vào yếu tố hình thành, văn hóa tổ chức có thể nhận thấy qua 3
dạng:
Loại hình văn hóa tổ chức hướng vào cá tính của nhà lãnh đạo hoặc tập thể.
Họ là những người sáng lập, là nhân viên quản lý hoặc trưởng các bộ phận, hoạt
động của họ có ảnh hưởng rộng rãi, có ý nghĩa tác động to lớn tới hoạt động của mọi
thành viên. Chẳng hạn tại hãng dược nổi tiếng của Úc - Shaklee Corporation, không
khí làm việc ở đây sôi sục một ý chí sáng tạo không ngừng do tác động liên tục từ
phía giám đốc đồng thời là người sáng lập của hãng. Ông này đã làm việc không mệt
mỏi với mong muốn sáng chế ra các loại thuốc vitamin cho con người. Tinh thần
làm việc của ông có sức lôi kéo rộng rãi tới mọi thành viên của hãng và được coi
như là bằng chứng sống cho khẩu hiệu "Sáng tạo - Làm việc - Phục vụ không
ngừng”. Còn khái niệm về giải trí của hãng Walt Disney là xuất phát từ ý tưởng
hướng tới khách hàng của ông J.C. Penney. Trong khi đó, những sản phẩm và đặc

điểm quảng cáo của hãng Procter & Gamble thì lại được hình thành bởi những người
sáng lập ban đầu và tiếp tục ảnh hưởng lớn tới văn hoá doanh nghiệp của các thế hệ
sau. Họ là những người mà biết làm cho mình nổi bật lên và tất cả hoạt động của tổ
chức hình như được thực hiên qua vai trò người lãnh đạo đó. Với loại hình văn hóa
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 15
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
này, tổ chức sẽ mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo, người lãnh đạo đóng vai trò
là chất xúc tác, tạo nguồn năng lượng dồi dào, và có sức hấp dẫn đến niềm say mê
của cấp dưới.
Loại hình văn hóa tổ chức hướng vào một hoạt động hay nghề nghiệp. Ví dụ
như các hãng vận tải đã sử dụng hình ảnh của những chiếc xe tải bền bỉ để tôn cao
cho hoạt động của họ.
Loại hình văn hóa tập trung vào cách ứng xử mang tính chất cộng đồng, tính
gia đình. Loại hình này dựa trên một sự xã hội hóa sâu rộng những giá trị, chuẩn
mực được chia sẻ rộng rãi. Người ta còn có thể chia thành hai loại hình là văn hóa
cộng đồng và văn hóa thị trường.
Trong văn hóa cộng đồng, tồn tại tình cảm thương yêu giữa những người ở
nhiều thứ bậc khác nhau. Sự hài lòng, tin tưởng trong các mối quan hệ tạo ra động
lực làm việc, năng suất lao động cao và khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mọi người
trong tổ chức dựa vào những quyền lợi hỗ tương và có sự cam kết lâu dài vượt ra
khỏi những đòi hỏi thỏa thuận trong hơp đồng, những thành viên lâu năm sẽ hỗ trợ
tinh thần và có vai trò mẫu mực cho những thành viên mới. Thông qua các mối
quan hệ trên, những giá trị chuẩn mực được duy trì, quan hệ trong những tổ chức
văn hóa này rất bền lâu, ôn hòa và tận tụy. Điển hình nhất của mô hình này là Nhật
Bản hoặc có thể tìm thấy ở các nước Chân Á, nơi đề cao những giá trị truyền thống
và trân trọng văn hóa gia đình hay trong những công ty tuyệt hảo của Mỹ tin tưởng
vào nhân viên như Hewlett Packard, P&G…
Ngược lại, văn hóa thị trường mang tính trao đổi và nghĩa vụ nhiều hơn.
Quyền lợi, trách nhiệm nghĩa vụ giữa các thành viên được xác định trong hợp đồng.
Người lao động không cam kết trung thành, và tổ chức ko đảm bảo sự ổn định lâu

dài. Loại hình này không chú trọng vào mỗi quan hệ giữa các thành viên, không đặt
nặng sức ép về chuẩn mực đạo đức, đồng nghiệp mà đề cao sự độc lập, không phụ
thuộc và chủ nghĩa cá nhân, thúc đẩy mọi người theo đuổi lợi ích của riêng mình.
Loại hình này người lãnh đạo ko đóng vai trò tích cực và hỗ trợ tinh thần đối với
cấp dưới của minh, các thành viên thường tách biệt, ít có sự phối hợp nhưng lại thúc
đẩy sự sáng tạo và tinh thần trách nhiệm đối với quyết định mỗi cá nhân, mỗi cá thể
được tự do theo đuổi những mục tiêu riêng của bản thân với ít sự ràng buộc, hạn
chế tối thiểu từ tổ chức. Công ty đi theo loại hình văn hóa này thường có ở những
công ty Tây Âu và Bắc Mỹ như ITT, General Electric, General Motors…
2.3. Sự hình thành và duy trì văn hóa của tổ chức
Văn hóa được hình thành và phát triển theo thời gian. Ngay từ khi tổ chức
mới được thiết lập thì những thành viên ban đầu mang vào tổ chức những giá trị,
những niềm tin, tác phong và thái độ ứng xử được chia sẻ bởi xã hội, cộng đồng, gia
đình và các nhóm khác nhau mà chính họ là những thành viên trong đó. Chính
những yếu tố này là cốt lõi tạo nên cơ tầng văn hóa của tổ chức. Trong giai đoạn
hình thành, các nhà sáng lập và những người nòng cốt sẽ tạo nên nhóm nòng cốt,
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 16
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
cùng chia sẻ những viễn cảnh, xác định lý do tồn tại và các mục tiêu của tổ chức.
Những yếu tố này kết hợp với cơ tầng văn hóa dần dần xác lập nên bản sắc của tổ
chức, là cái giúp chúng ta nhận dạng được sự khác biệt của các tổ chức trong cùng
một môi trường hoạt động như nhau. Vì thế văn hóa của tổ chức có vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của mỗi loại hình doanh nghiệp, do đó nếu thiếu những yếu
tố văn hóa thì doanh nghiệp khó có thể đứng vững và tồn tại được trên thị trường ở
bất kỳ thời điểm hay hình thái kinh tế xã hội nào.
Trong quá trình thích nghi với môi trường bên ngoài, thích nghi với cộng
đồng, thích nghi với những sinh hoạt tinh thần mang tính tập thể, tổ chức sẽ hình
thành cho mình một truyền thống văn hóa trên cơ sở bản sắc của nó. Do đó văn hóa
của tổ chức bao gồm phần cốt lõi là một bộ phận văn hóa của dân tộc và phần văn
hóa mà các thành viên của tổ chức đã tạo lập nên trong quá trình tồn tại và phát

triển của nó. Ngày nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới nguồn nhân lực của tổ
chức là con người mà văn hóa của tổ chức là sự liên kết và nhân lên nhiều lần các
giá trị của từng nguồn nhân lực riêng lẻ tổng hợp lại. Không những thế văn hóa của
tổ chức còn được thể hiện thông qua phong cách của người lãnh đạo đứng đầu các
vị trí của tổ chức và tác phong làm việc của mọi nhân viên. Vì vậy đối tác khi quan
hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đáng giá doanh nghiệp
qua văn hóa của doanh nghiệp đó. Văn hóa tổ chức của nước ta còn có những mặt
hạn chế nhất định, đó là một nền văn hóa được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp,
môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn đến có những cái nhìn ngắn hạn chưa có
quan niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, chưa có tính chuyên nghiệp còn bị
ảnh hưởng bởi các tàn dư của nền kinh tế bao cấp, chưa có cơ chế dùng người thỏa
đáng với từng vị trí làm việc, có sự bất cập trong giáo dục đào tạo…
Xét trên tiếp cận hệ thống thì văn hóa của tổ chức là hệ thống con của hệ
thống văn hóa của dân tộc và văn hóa tổ chức là tập hợp những hệ thống nhỏ hơn
như văn hóa các nhóm, các bộ phận trong tổ chức. Nghĩa là văn hóa của dân tộc có
tác động lên văn hóa của tổ chức, văn hóa của tổ chức tác động lên các văn hóa
nhóm… Đến lượt mình văn hóa nhóm tác động ngược lại văn hóa tổ chức, văn hóa
tổ chức ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc.
Tại Mỹ các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động thành
tựu của doanh nghiệp và họ nhận thấy rằng hầu hết các công ty thành công trong
sản xuất kinh doanh đều duy trì, giữ gìn bản sắc văn hóa doanh nghiệp riêng của
mình.
Tại Nhật Bản do hoàn cảnh sau chiến tranh thế giới đã tạo ra những nét văn
hóa đặc trưng cho doanh nghiệp. Đó là những người lao động Nhật Bản thường
nguyện làm việc suốt đời cho một doanh nghiệp. Do đó văn hoá doanh nghiệp kiểu
Nhật đã tạo cho doanh nghiệp một không khí, ý thức làm việc của mỗi con người
như trong một gia đình. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn quan tâm đến mọi hoạt động
của các thành viên. Vì vậy mục tiêu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 17
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP

phẩm và đào tạo con người là hai đặc trưng cơ bản của văn hóa doanh nghiệp Nhật
Bản.
Ở các nước phương Tây, quyền lực cao nhất trong việc quyết định số phận
của một doanh nghiệp là các cổ đông. Người quản lý doanh nghiệp và vốn của
doanh nghiệp tách hẳn nhau. Cổ đông yêu cầu nhà quản lý doanh nghiệp phải nâng
cao lợi nhận của doanh nghiệp trong thời gian ngắn.
Văn hóa của một tổ chức được duy trì thông qua một quá trình xã hội hóa,
tức là quá trình mà theo đó người ta học tập những giá trị và niềm tin của một tổ
chức hay một cộng đồng rộng lớn hơn. Các bước của quá trình xã hội hóa gồm:
- Thứ nhất: Quá trình tiếp nhận những thành viên mới, thường tổ chức tuyển
chọn cẩn thận với chủ định lựa chọn những người mà tổ chức cho rằng họ có những
giá trị, niềm tin và phong cách ứng xử phù hợp với văn hóa của tổ chức.
- Thứ hai: Sau khi các thành viên mới được tiếp nhận, trong quá trình mới
hội nhập vào tổ chức, tổ chức sẽ khuyến khích sự cởi mở tiếp nhận những giá trị
chuẩn mực của tổ chức.
- Thứ ba: Các thành viên mới trong tổ chức được huấn luyện để hiểu và nắm
được các nguyên tắc cốt lõi của tổ chức để điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với những chuẩn mực trong ứng xử của tổ chức.
- Thứ tư: Các thành viên hội nhập vào các giá trị có thể hòa hợp cùng với
quá trình điều hóa liên quan đến việc từ bỏ những cái riêng để tiếp nhận những cái
chung của tổ chức.
- Thứ năm: Là giai đoạn củng cố tất cả những niềm tin, những tập quán
truyền thống, châm ngôn, tức cái cội rễ của văn hóa.
- Cuối cùng: Ghi nhận và khích lệ những cá nhân nào thực hiện công việc tốt
đẹp và ai nêu được tấm gương mẫu mực cho các thành viên mới vào trong tổ chức
và dần dần những mô hình chức năng bền vững được xác lập để làm tiêu chuẩn cho
việc tuyển lực các thành viên mới.
Ở Việt Nam những năm gần đây, xu hướng chung là các doanh nghiệp Việt
Nam đã bước đầu quan tâm xây dựng văn hóa tổ chức, coq1 những doanh nghiệp đã
mời công ty nước ngoài xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho tổ chức mình, đây là

dấu hiệu đáng mừng cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Trong tiền trình hội nhập
kinh tế quốc tế, văn hóa doanh nghiệp Việt Nam có thể tập trung làm tốt những vấn
đề sau để xây dựng văn hóa doanh nghiệp đặc thù Việt Nam:
- Phải đặc biệt coi trọng và lấy con người làm gốc. Nó bao gồm:
+ Bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm của người lao động, kích thích sự say mê,
tính chủ động sáng tạo.
+ Giáo dục ý thức cho người lao động coi doanh nghiệp là “tổ ấm” của cá
nhân mình để nó trở thành nhận thức chung của cả tập thể và tạo nội lực để phát
triển cho doanh nghiệp.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 18
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
+ Có cơ chế quản trị hợp lý cho những người có cống hiến cho sự phát triển
của doanh nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi ích vật chất xứng đáng với
công sức mà họ bỏ ra, chế độ thưởng phạt hợp lý.
- Phải xây dựng quan niệm hướng tới thị trường: việc các doanh nghiệp phải
trở thành doanh nghiệp tự chủ để phù hợp với kinh tế thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp phải nhanh chóng hình thành quan niệm thị trường năng động, sát với thực
tiễn. Quan niệm thị trường bao gồm nhiều mặt như giá thành, khả năng tiêu thụ,
chất lượng dịch vụ, sức cạnh tranh.
- Xây dựng quan niệm khách hàng là trên hết. Doanh nghiệp hướng ra thị
trường nói cho cùng là hướng tới khách hàng, phải lấy khách hàng làm trung tâm,
cùng với việc làm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng sau đó mới nghĩ tới
doanh lợi.
- Hướng tới vấn đề an sinh xã hội. Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các
doanh nghiệp. Bởi hiện nay các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng nhưng hậu
quả của sự phát triển ấy cũng hết sức nặng nề là ô nhiễm môi trường và lãng phí tài
nguyên thiên nhiên. Do đó các doanh nghiệp cần thông qua văn hóa tổ chức doanh
nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển bền vững vì lợi ích con người và cho các đời
sau.
- Xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp không những

phải coi sản phẩm của mình là bộ phận làm nên quá trình phát triển của nhân loại
mà còn phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp của mình là một bộ phận của
văn hóa nhân loại, phải thỏa mãn được nhu cầu văn hóa nhiều mặt của xã hội như
tích cực ủng hộ tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa xã hội, thúc đẩy khoa học kỹ
thuật phát triển và tiền bộ.
Nhà quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập và duy trì văn hóa tổ
chức. Từ khi tổ chức được thiết lập và có được tiềm năng tồn tại thì những niềm tin,
những giá trị và những giả thiết nền tảng của nhà quản trị trở thành những mẫu mực
tinh thành cho cấp dưới. Thông qua ba cách:
- Người đứng đầu tổ chức chỉ chọn và tiếp nhận vào tổ chức những người
nào suy nghĩ, cảm nhận được cách thức mà người đứng đầu làm
- Các nhà lãnh đạo thực hiện quá trình xã hội hóa cấp dưới của họ theo cách
mà nhà quản trị nghĩ, cảm nhận.
- Hành vi ứng xử của các nhà quản trị đóng vai trò kiểu mẫu thúc đẩy, động
viên cấp dưới đồng nhất với họ và cấp dưới tiếp nhận những niềm tin, giá trị và các
giả thiết của họ.
Các nhà quản trị phải có nghệ thuật trong lãnh đạo. Trong giai đoạn một tổ chức
mới hình thành vai trò của nhà lãnh đạo hầu như là quyết định, phải tham gia hầu
hết mọi quyết định.Khi tổ chức đã đi vào hoạt động tương đối ổn định thì quyền lực
của nhà lạnh đạo phải được chuyển giao dần xuống cấp dưới. Trong giai đoạn tăng
trưởng cao nhất khi tổ chức vận hành tốt thì người lãnh đạo phải rút ra khỏi khâu
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 19
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
quản lý trực tiếp để đóng vai trò kích thích sáng tạo, đổi mới trong tổ chức, cung
cấp tầm nhìn chiến lược cho tương lai, vì trong đỉnh của vinh quang ẩn chứa mầm
mống của suy tàn.
2.4. Vấn đề thay đổi văn hóa của tổ chức
Để thay đổi, nâng cao trình độ văn hóa tổ chức của mình, các tổ chức nên tham
khảo ba vấn đề cốt yếu là:
1. Trước khi thay đổi văn hóa, phải xác định rõ khiếm khuyết trong văn hóa

hiện tại của tổ chức.
2. Nếp văn hóa mới của tổ chức phải hỗ trợ việc thực hiện thành công chiến
lược phát triển, tổ chức đặt ra một tầm nhìn, sứ mệnh nào và cần điều chỉnh
văn hóa ra sao để thực hiện thành công tầm nhìn, sứ mệnh đó?
3. Các cá nhân trong tổ chức phải đồng tâm thay đổi hành vi của họ để tạo ra
một môi trường văn hóa tổ chức như mong muốn. Đây là bước khó khăn
nhất trong quá trình thay đổi văn hóa tổ chức.
Có hai yếu tố rất quan trọng để tạo ra sự thay đổi văn hóa tổ chức là sự ủng hộ
của mọi thành viên và cách thức huấn luyện nếp văn hóa mới. Người đứng đầu của
tổ chức phải là những người đi đầu trong việc điều chỉnh hành vi của mình và phải
nhất quán trong việc thay đổi. Các thành viên cần phải hiểu rõ những gì được mong
đợi từ họ và phải biết cách thể hiện những hành vi mới trong thực tế. Một số cách
sau đây sẽ giúp tổ chức thay đổi nếp văn hóa.
- Xây dựng những tuyên bố về giá trị và niềm tin. Có thể tổ chức các nhóm
thảo luận nhỏ theo từng phòng ban để chuyển tải sứ mệnh, tầm nhìn và các giá trị
của tổ chức thành lời nói và giải thích những tác động của tuyên bố đối với công
việc của từng nhân viên. Việc làm này giúp cho các nhân viên có sự hiểu biết chung
về môi trường văn hóa mà tổ chức muốn xây dựng và những hành động, hành vi mà
họ phải thực hiện để phản ánh cho được nếp văn hóa mới.
- Giao tiếp hiệu quả. Phải thông báo cho tất cả các nhân viên về quá trình thay
đổi văn hóa của tổ chức nhằm đảm bảo sự cam kết của họ và thành công của quá
trình chuyển đổi văn hóa. Các nhân viên cần phải được biết rằng những gì mong đợi
từ họ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thay đổi văn hóa doanh nghiệp một cách
có hiệu quả.
- Xem xét lại cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong một tổ chức
nhỏ có những bốn bộ phận kinh doanh độc lập cạnh tranh lẫn nhau trong việc phục
vụ cho một số khách hàng nhất định thì tổ chức như vậy không thể hỗ trợ cho việc
thay đổi văn hóa doanh nghiệp một cách hiệu quả.
- Điều chỉnh lại cách công nhận và khen thưởng nhân viên. tổ chức có thể phải
làm điều này để khuyến khích nhân viên điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp với

môi trường văn hóa mới.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 20
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
- Xem xét lại tất cả các chính sách, chế độ lưu hành nội bộ để đảm bảo hệ
thống chính sách phải phù hợp với môi trường văn hóa mới. Chẳng hạn, tổ chức
không thể chỉ khen thưởng cho thành tích cá nhân nếu môi trường văn hóa mới đề
cao tinh thần làm việc đồng đội.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 21
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
CHƯƠNG 3: VĂN HÓA TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ
Nếu như trước đây người ta ít chú trọng đến yếu tố văn hoá doanh nghiệp trong
quản lý và kinh doanh, một mặt vì kinh doanh và sản xuất còn mang tính tự phát,
mặt khác do ít phải cạnh tranh trong nước và quốc tế, thì nay nó được coi như là
một yếu tố không thể thiếu được nếu muốn phát triển doanh nghiệp với bộ máy
quản lý chất lượng toàn diện và kinh doanh hiệu quảtrong một bối cảnh cạnh tranh
gay gắt và kinh tế hội nhập toàn cầu như ngày nay. Văn hoá có quan hệ hữu cơđối
với kết quả của việc quản lý để tạo ra môi trường làm việc tốt trong doanh nghiệp,
tiến tới việc hoàn thành mục tiêu và tăng cường vị thế của doanh nghiệp. Ảnh
hưởng của văn hoá đối với quá trình quản lý có thể được trình bày như sau:
Ảnh hưởng của văn hóa tác động trực tiếp tới quan điểm và cách nhìn nhận của
người lãnh đạo, nó có thể làm hạn chế hay thúc đẩy khả năng nhìn nhận và ra quyết
định của họ trong suốt quá trình quản trị doanh nghiệp.
Nếu tiếp thu các giá trị văn hoá một cách tích cực, họ sẽ rất tôn trọng thành quả
của những người đi trước và cố gắng đưa ra các quyết định sáng suốt nhất. Các
quyết định của người lãnh đạo sẽ tạo ra một môi trường làm việc tốt trong đó đảm
bảo sự hợp tác tổng lực của mọi tầng lớp các thành viên và điều đó cũng có nghĩa là
doanh nghiệp đã có được khả năng đối phó với những bất thường và tiến tới hoàn
thành mục tiêu của mình .
Văn hoá doanh nghiệp có tác động như thế nào đối với các quyết định của nhà
quản trị và môi trường làm việc. Dưới đây ta xem xét ảnh hưởng của các nội dung

văn hoá tới từng chức năng quản trị.
3.1.Văn hóa và công tác hoạch định
Ngày nay không chỉ các nhà kinh tế mà các nhà văn hóa cũng đều thống nhất
cho rằng, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Tác động của nền văn hóa đến kinh tế là hết sức rộng lớn và phức tạp. Bên cạnh đó,
xu thế toàn cầu hóa, đa phương hóa giúp các doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn để
tiếp cận các thị trường nước ngoài khác nhau. Khi gia nhập một thị trường nước
ngoài, điều đáng quan tâm nhất của các doanh nghiệp chính là các yếu tố văn hóa.
Việc khai thác có hiệu quả yếu tố văn hóa trong các hoạt động sản xuất kinh doanh
sẽ giúp doanh nghiệp tránh khỏi những thất bại và đạt được thành công trên thị
trường đó.
Văn hóa tổ chức tác động một cách sâu sắc đến hoạt động quản trị của tổ chức
từ công tác hoạch định, ra quyết định, đến công tác tổ chức, điều khiển và kiểm tra.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 22
Văn hóa của
tổ chức
Quyết định
của nhà quản
trị
Môi trường
làm việc của
tổ chức
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
Từng loại hình văn hóa có ảnh hưởng đến công tác hoạch định, đặc biệt là khi xác
định chiến lược và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của một tổ chức. Trước
nhất các loại hình văn hóa khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến chiến lược mà
tổ chức sẽ lựa chọn.
Văn hoá nông nghiệp: coi trọng kinh nghiệm cao hơn tư duy sáng tạo trong
hoạch định. Đặc biệt đối với hoạch định chiến lược thì thường thay đổi theo hướng
cải tiến nhiều hơn là thay đổi sáng tạo mới hoàn toàn. Hoạch định thường sử dụng

năng lực và trí tuệ của cả tập thể. Hoạch định thường đưa ra những mục tiêu dài hạn
mà ít có mục tiêu ngắn hạn. Ít khi xác định trách nhiệm cá nhân và thường phải có
nhiều thành viên, bộ phận tham gia vào quá trình hoạch định nên mất nhiều thời
gian.
Văn hoá du mục: Hoạch định mang tính đột phá, sáng tạo, chấp nhận rủi ro,
mạo hiểm, thường có nhiều kế hoạch ngắn hạn, mục tiêu rõ ràng, trách nhiệm từng
thành viên, từng bộ phận rất rõ ràng, ít mất thời gian cho quá trình họach định. Tuy
nhiên khi thực hiện thì thường dễ bị chống đối và thời gian thực hiện kéo dài.
=> Về mặt nhận thức: hai loại hình văn hóa này tạo nên hai kiểu tư duy trái
ngược nhau: Nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, sống phụ thuộc vào
thiên nhiên rất nhiều - không chỉ phụ thuộc vào một hai hiện tượng riêng lẻ nào, mà
là cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả: Trời, đất, nắng, mưa Nắng nhiều quá cũng
chết mà không nắng cũng chết, mưa nhiều quá cũng chết mà không mưa cũng chết.
Cho nên người Việt nói: Trông trời, trông đất, trông mây, Trông mưa, trông nắng,
trông ngày, trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm, Trời yên bể lặng mới yên
tấm lòng (ca dao).
Đó chính là đầu mối của lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng -
cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là tập hợp của các yếu tố riêng rẽ,
mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu
tố, còn biện chứng là chú trọng đến mọi mối quan hệ giữa chúng - đó chính là đặc
trưng tư duy của văn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh mà nông nghiệp lúa nước là
điển hình. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các
loại quan hệ này: Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì
mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa
cau thì đau mùa lúa (tục ngữ); Mồng tám tháng tám không mưa, bỏ cả cày bừa mà
nhổ lúa đi (ca dao). Người xưa đã tìm ra không chỉ những mối quan hệ giữa các
hiện tượng thiên nhiên, mà còn rất chú ý đến cả những mối quan hệ giữa chúng với
các hiện tượng trong đời sống thường ngày và trong xã hội: Thâm đông thì mưa,
thâm dưa thì khú, Do bị ảnh hưởng bởi yếu tố tự nhiên, khí hậu nên người ta luôn
coi trọng yếu tố kinh nghiệm hơn là tư duy sáng tạo và táo bạo. Từ đó, trong công

tác lập kế hoạch, các tổ chức thường dựa chủ yếu vào kinh nghiệm trong quá khứ để
xây dựng kế hoạch cho tương lai và các kế hoạch phần lớn thiên về cải tiến, ít có
những dự đoán liều lĩnh mang tính đổi mới vượt bậc. Ngoài ra kinh tế nông nghiệp
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 23
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
lệ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, thường bị mất mùa, hạn hán nên văn
hóa nông nghiệp có thói quen “ tích cốc phòng cơ”. Thói quen này dẫn đến việc lập
kế hoạch thường tính đến dài hạn và hướng về phòng chống rủi ro hơn là đi tìm sự
mạo hiểm.
Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc
sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý không bằng một tí
cái tình (tục ngữ). Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng
văn, trọng phụ nữ. Muốn sống dựa trên tình cảm, trong quan hệ xã hội con người
còn phải biết tôn trọng nhau và cư xử bình đẳng (dân chủ) với nhau. Đó là nền dân
chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ
tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến đặc trưng
quan trọng bậc nhất của văn hóa nông nghiệp là tâm lý coi trọng tập thể, cộng đồng.
Người Việt Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau. Do
trách nhiệm tập thể mang tính trội, trong công tác lập kế hoạch các tổ chức thuộc
loại hình văn hóa nông nghiệp ít xác định trách nhiệm cá nhân và công việc cá nhân
một cách cụ thể, mà thường được ngầm định và các cá nhân cũng tự xác định được
trách nhiệm của mình. Trong quá trình lập kế hoạch, thường có sự tham gia của các
thành viên có trách nhiệm liên quan.
Ngược lại, loại hình văn hóa gốc du mục thường có đặc trưng trái ngược.
Trong ứng xử với tự nhiên thì nghề chăn nuôi buộc người dân phải đưa gia súc đi
tìm cỏ, sống du cư và do nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiên nhiên nên sinh ra
coi thường tự nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên (cho nên phương Tây
đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này). Trong lĩnh vực nhận thức thì thiên về
tư duy phân tích (theo lối khách quan, lý tính và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là

khoa học phương Tây phát triển), đồng thời chú trọng các yếu tố (dẫn đến lối sống
thực dụng, thiên về vật chất). Do đó với loại hình văn hóa du mục, các cá nhân cũng
như tổ chức thường phân tích những viễn cảnh, các cơ hội một cách khoa học để đề
ra một chiến lược thích ứng. Công tác kế hoạch thường hướng đến việc tạo lập
những bước đổi mới táo bạo và mang nhiều rủi ro. Do ảnh hưởng của tính cách du
mục là “nay đây, mai đó” và ít bị rủi ro do thời tiết, nên người dân thuộc loại hình
văn hóa này không hay phòng xa. Từ đó trong công tác lập kế hoạch, các tổ chức
thuộc loại hình văn hóa này có thiên hướng lập những kế hoạch ngắn hạn hơn và cụ
thể hơn. Trong tổ chức cộng đồng của họ là trọng sức mạnh (kéo theo trọng tài,
trọng võ, trọng nam giới). Lối sống theo nguyên tắc của văn hóa trọng động dẫn đến
lối ứng xử độc tôn trong tiếp nhận và cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó (ưa giải
quyết mâu thuẫn bằng vũ lực và khi giải quyết luôn có tham vọng buộc đối phương
khuất phục hoàn toàn. Cuộc sống du cư của tổ tiên khi xưa đòi hỏi con người luôn
phải sống có tổ chức, phải tuân thủ kỷ luật chặt chẽ, sớm dẫn đến sự hình thành một
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 24
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN DIỆP
nếp sống theo pháp luật, với tính tổ chức cao. Cách thức tổ chức theo nguyên tắc
liên quan đến lối sống trọng lý - đề cao lý trí (theo lối nói cực đoan phương Tây là
duy lý). Để duy trì được nguyên tắc, kỷ luật, văn hóa trọng động tạo ra cách cư xử
mà quyền lực tuyệt đối nằm trong tay người cai trị (quân chủ). Tư duy phân tích,
cách tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc, v.v dẫn đến một đặc điểm quan trọng của
văn hóa phương Tây là tâm lý trọng cá nhân (dẫn đến lối sống ganh đua, cạnh tranh
nhau một cách khốc liệt). Thời trung cổ trở về trước là coi trọng cá nhân người cai
trị, thời dân chủ tư sản về sau là coi trọng tự do cá nhân của mỗi con người, ứng xử
theo nguyên tắc (khiến cho người phương Tây có được thói quen sống theo pháp
luật từ khá sớm). Do ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, trong các kế hoạch thường
nêu một cách chi tiết trách nhiệm từng thành viên với những công việc phải thực
hiện. Việc lập kế hoạch, sự tham gia của những người có trách nhiệm liên quan là
rất hạn chế.
=> Tóm lại: Mỗi nền văn hóa, mỗi lối sống có cái ưu và nhược điểm riêng của

nó. Không phải cứ linh hoạt, trọng tình, dân chủ là tốt; ngược lại, nguyên tắc, trọng
võ, quân chủ là xấu.
Nếu như mặt trái của nguyên tắc là máy móc, rập khuôn cứng nhắc; mặt trái
của quân chủ là áp đặt thiếu bình đẳng thì mặt trái của linh hoạt là tùy tiện, mặt trái
của dân chủ là tâm lý hòa cả làng, bệnh coi thường phép nước (Phép vua thua lệ
làng - tục ngữ). Biểu hiện tiêu biểu của bệnh tùy tiện là tật co giãn trong khái niệm
giờ giấc (giờ cao su), của bệnh coi thường phép nước là sự thiếu tôn trọng pháp
luật, rõ nhất là trong giao thông Nguyên tắc sống trọng tình cảm làm cho bệnh tùy
tiện và coi thường phép nước càng trở nên trầm trọng hơn: Đưa nhau đến trước cửa
quan, Bên ngoài là lý, bên trong là tình (ca dao) Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau" trong
giải quyết công việc (một khi tình cảm đã thông thì mọi việc đều có thể "linh động"
xong hết): Nhất thân, nhì quen, tam thần, tứ thế (tục ngữ mới). Trọng tình và linh
hoạt làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn hẳn so với cư dân gốc du
mục.
Thực trạng văn hoá doanh nghiệp ở nước ta:
Nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta thấy văn hoá trong các cơ quan và
doanh nghiệp ở nước ta còn có những hạn chế nhất định: Đó là một nền văn hoá
được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp và phức tạp do những yếu tố khác ảnh
hưởng tới; môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn tới có cái nhìn ngắn hạn; chưa
có quan niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, làm việc chưa có tính chuyên
nghiệp; còn bị ảnh hưởng bởi các khuynh hướng cực đoan của nền kinh tế bao cấp;
chưa có sự giao thoa giữa các quan điểm đào tạo cán bộ quản lý do nguồn gốc đào
tạo; chưa có cơ chế dùng người, có sự bất cập trong giáo dục đào tạo nên chất lượng
chưa cao. Mặt khác văn hoá doanh nghiệp còn bị những yếu tố khác ảnh hưởng tới
như: Nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn và ảnh hưởng của tàn dư đế quốc, phong
kiến.
CAO HỌC QTKD KHÓA 04 25

×