Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

SKKN MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ CẤP TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.7 KB, 41 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ CẤP
TRƯỜNG.
A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục Tiểu học được xác định : “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
Trung học cơ sở”. Với yêu cầu trên, cho ta thấy đội ngũ giáo viên chính là lực
lượng nòng cốt giữ vai trò then chốt trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Muốn học sinh học tốt cần phải có người thầy giỏi vững chuyên môn, có kiến
thức sâu rộng, nắm bắt được tâm lý học sinh, để từ đó tổ chức được các hoạt động
học tập cho các em nhằm giúp các em có thể chủ động học tập tích cực và chiếm
lĩnh được kiến thức. Chính vì thế, công tác nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho giáo viên là vấn đề cấp thiết mà nhà trường cần phải thực hiện.
Để nâng cao tay nghề cho giáo viên chúng ta có thể : Yêu cầu giáo viên đi học
các lớp đại học, cao đẳng ; Tham gia các lớp tập huấn, tham gia hội thảo, hội
giảng, tổ chức chuyên đề các cấp Trong đó tổ chức chuyên đề là một hoạt động
chuyên môn quan trọng để giúp giáo viên nâng cao tay nghề. Ngoài ra các chuyên
đề triển khai ở nhà trường thường là những vấn đề mới hoặc là giải pháp khắc
phục những vấn đề khó nảy sinh trong quá trình dạy học. Những vấn đề khó có
thể là vướng mắc của thầy khi dạy hoặc những sai lầm thường mắc của trò khi
học.
Tuy nhiên, hiện nay việc tổ chức hoạt động này ở một số trường tiểu học còn có
những hạn chế cơ bản đó là : nặng về hình thức, nội dung dàn trải, chưa tập trung
vào nội dung trọng tâm của chuyên đề đã mở ; chất lượng tiết dạy thể nghiệm
chuyên đề phần lớn phụ thuộc vào năng lực nguời thể nghiệm, trí tuệ tập thể chưa
được phát huy đúng mức ; các ý kiến thảo luận còn tập trung nhiều ở các chi tiết
vụn vặt, cụ thể của từng bài học, của giáo viên, tính khái quát thấp. Công tác tổ
chức chuyên đề mỗi trường mỗi kiểu. Các bước đi của một chuyên đề không rõ
ràng, khoa học chỉ mang tính hình thức, không có hiệu quả.
Cách tổ chức thể nghiệm chuyên đề của nhiều đơn vị không mang tính đặc thù,


chưa làm thỏa mãn nhu cầu trao đổi, học tập kinh nghiệm giảng dạy của giáo
viên.
Hơn thế nữa, không ít giáo viên trước khi dạy tiết minh họa giống như một buổi
trình diễn trước mọi người dẫn đến mục tiêu của việc thể nghiệm chuyên đề
không được như mong muốn.
Đó chính là những lý do khiến tôi phải thực hiện đề tài này.
1. Cơ sở lý luận :
Chuyên đềvề trọng tâm là thể nghiệm nhằm kiểm tra một ý kiến mới, hoặc gợi ra
những ý kiến mới (từ điển Việt Nam). Như vậy một tiết dạy chuyên đề có yêu cầu
cơ bản đó là:
- Trình bày được ý tưởng mới, hoặc kiểm tra ý tưởng mới.
- Cuộc thảo luận ở hoạt động chuyên đề cần phải xem xét tỉ mỉ từng chi tiết của ý
tưởng mới nhằm thậm định chân lý của ý tưởng hoặc phụ định ý tưởng đó.
- Sau thảo luận, dựa trên trí tuệ tập thể để rút ra kết luận chung (tạo vốn tri thức
dạy - học) .
Với hoạt động chuyên đề, giáo viên được đóng góp xây dựng những kinh
nghiệm qua việc giảng dạy của mình. Từ nhiều ý kiến đóng góp, xây dựng của
giáo viên đúc kết lại để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình giảng dạy. Và chuyên
đề cũng chính là bài học kinh nghiệm quý báu được nhân rộng ra cho toàn thể đội
ngũ giáo viên trong nhà trường.
Ngành giáo dục và đào tạo đang thực hiện đổi mới giáo dục nói chung, trong đó
yêu cầu giáo viên đổi mới phương pháp dạy học. Trước đây, giáo viên vẫn quen
dạy theo phương pháp truyền thụ, một chiều. Bây giờ họ phải thực hiện nhiệm vụ
khơi dậy, tổ chức các hoạt động học tập để các em tự chiếm lĩnh kiến thức. Muốn
đạt được hiệu quả cao hơn thì giáo viên không có cách nào khác là phải học và tự
học, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng cao tay nghề chuyên môn.
Yêu cầu mới về vận dụng khoa học công nghệ trong giảng dạy cũng bắt buộc giáo
viên phải học và tự học. Thí dụ như phải học ngoại ngữ, tin học để vừa ứng dụng
trong quá trình giảng dạy, lại vừa dạy cho học sinh.
Mặt khác, ta đang xây dựng xã hội học tập, ai cũng phải học tập suốt đời. Kiến

thức trong trường có giới hạn, trong khi tri thức nhân loại liên tục phát triển, nếu
không học tập nâng cao tay nghề thì giáo viên sẽ trở thành lạc hậu.
Tất cả những yêu cầu trên là cơ sở lí luận để chúng ta cần tổ chức các chuyên đề
trong nhà trường.
1. Cơ sở thực tiễn :
Chuyên đề là một hoạt động chuyên môn rất quan trọng ở các trường phổ thông
nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Việc tổ chức thể nghiệm chuyên đề được diễn
ra thường xuyên trên các quy mô : cấp huyện, liên trường, trong trường, tổ
chuyên môn, nhóm giáo viên.
Quy trình của việc thể nghiệm một chuyên đề thông thường diễn ra 3 giai đoạn :
giai đoạn chuẩn bị – giai đoạn trình bày (dạy thể nghiệm) – giai đoạn hội thảo đúc
rút kinh nghiệm – Giai đoạn đánh giá, tổng kết chuyên đề
Thông qua các chuyên đề, giáo viên có thể tích luỹ được những kinh nghiệm dạy
- học thiết thực và bổ ích góp phần hoàn thiện thêm năng lực chuyên môn của
mình.
Hoạt động chuyên đề còn là một trong những nội dung sinh hoạt cơ bản của tổ
chuyên môn ở trường tiểu học. Hoạt động chuyên đề gắn bó chặc chẽ với vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của tổ chuyên môn trường tiểu học. Nó góp phần nâng cao
kết quả giảng dạy giáo dục và trình độ tay nghề của giáo viên. Qua họat động
chuyên đề, chất lượng người thầy được nâng lên, phát huy được năng lực tiềm
tàng, sáng kiến, kinh nghiệm của từng tổ viên trong tổ khối, nhân rộng những
kinh nghiệm tốt trong tòan trường, từ đó không ngừng nâng cao chất lượng học
tập của học sinh.
Tóm lại, việc tổ chức các chuyên đề trong nhà trường là một giải pháp rất chính
đáng, thực sự cần thiết và cần được đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức, cần
mở rộng trong tất cả các lĩnh vực trong dưới sự đồng tình ủng hộ của các giáo
viên.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích :
- Nhằm đánh giá lại các phương pháp, hình thức tổ chức các chuyên đề ở các

trường tiểu học trong những năm qua và hiện nay.
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc hiện nay ở các trường việc tổ chức các
chuyên đề chưa có tính thống nhất và chưa mang lại hiệu quả cao.
- Đánh giá lại kết quả của việc cải tiến và đổi mới phương pháp tổ chức các
chuyên đề trong những năm gần đây. Việc tổ chức các chuyên đề có tác dụng như
thế nào trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức các
chuyên đề trong nhà trường nhằm nâng cao chất giảng dạy, học tập của giáo viên
và học sinh.
2. Phương pháp :
+ Phương pháp lấy tư liệu :
Trong quá trình nghiên cứu cần rất nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu. Các ý kiến từ
ban giám hiệu, giáo viên, học sinh vv…Trong quá trình công tác quản lí nhiều
năm đã đúc kết được một số kinh nghiệm từ bản thân và đồng nghiệp là nền tảng
giúp tôi nghiên cứu đề tài này.
+ Phương pháp đàm thoại :
Đây là phương pháp nhằm tiếp thu ý kiến giáo viên. Thông qua trò chuyện trực
tiếp đối với giáo viên chúng ta có thể biết được những khó khăn, thắc mắc của
giáo viên trong giảng dạy. Những ý kiến đề xuất hay. Từ đó chúng ta mới có biện
pháp, kể hoạch tổ chức chuyên đề hiệu quả.
+ Phương pháp xử lý thông tin :
Kịp thời thu thập và xử lý các thông tin, kết quả thu thập được trong quá trình
nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp, hình thức không thích hợp, đi sâu các
biện pháp, hình thức có tác dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về
vấn đề đang nghiên cứu.
+ Phương pháp thảo luận :
Đưa ra nội dung và những vấn đề nảy sinh trong khi tổ chức chuyên đề để giáo
viên và ban giám hiệu cùng thảo luận, thống nhất đi đến quyết định đúng đắn
nhất.
+ Phương pháp thực nghiệm :

Đề xuất với giáo viên chủ nhiệm, với ban giám hiệu một số phương pháp đổi mới
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Từ đó tổ chức dạy thực nghiệm nhằm đánh
giá lại quá trình ngiên cứu.
+ Phương pháp cải tiến :
Qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra một số phương
pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở nghiên cứu.
III. Giới hạn của đề tài:
1. Khách thể nghiên cứu bao gồm :
- Không gian : Địa bàn chính trường TH Xuyên Mộc và các trường tiểu học trên
địa bàn huyện Xuyên Mộc.
- Thời gian : Năm học 2010 –2011 và năm học 2011-2012.
- Nhân tố : Đội ngũ giáo viên, ban giám hiệu cùng học sinh các lớp thuộc trường
tiểu học Xuyên Mộc và các đơn vị bạn.
2. Đối tượng nghiên cứu bao gồm :
- Các phương pháp, hình thức tổ chức chuyên đề cấp trường.
- Những vấn đề liên quan đến nội dung chương trình giảng dạy, phương pháp,
hình thức giảng dạy trong nhà trường mà mà đó chính là đề tài cần tổ chức
chuyên đề để cho giáo viên học tập, rút kinh nghiệm để ứng dụng vào thực tế
giảng dạy.
- Kinh nghiệm dạy học của giáo viên, khả năng sáng tạo trong công tác giảng dạy
của giáo viên.
- Sự quan tâm của các cấp, của nhà trường, giáo viên đối với việc tổ chức chuyên
đề trong nhà trường.
IV. Các giả thiết nghiên cứu:
- Hoạt động chuyên đề trong nhà trường là một trong những hoạt động chủ lực
nhằm nâng cao tay nghề cho giáo viên. Nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà
trường. Nếu tổ chức tốt các hoạt động chuyên đề trong nhà trường thì sẽ nâng cao
được tay nghề giáo viên và chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
- Việc tổ chức các chuyên đề trong nhà trường có hiệu quả cao khi chúng ta thực
hiện đầy đủ các bước của một chuyên đề ; biết cách vận dụng phương pháp và

hình thức hợp lí. Chọn lựa nội dung chuyên đề thích hợp, cách thức tổ chức, kiểm
tra, đánh giá đúng đắn cũng là một trong những cách để một tiết chuyên đề đạt
hiệu quả cao nhất.
V. Kế hoạch thực hiện :
Thời gian Nội dung
Người tham gia
thực hiện
Từ 20/08/2010 đến
30/09/2010
-Đánh giá lại công tác tổ chức chuyên
đề trong những năm qua.
Tác giả phối hợp với
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 01/10/2010 đến
30/11/2010
-Thu thập thông tin, tìm nguyên nhân
vì sao các chuyên đề tổ chức từ trước
đến nay chưa đạt hiệu quả cao.
Tác giả phối hợp với
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 01/12/2010 đến
20/05/2011
-Đề ra những biện pháp khắc phục.
Thực hiện những biện pháp đó
Tác giả phối hợp với
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 21/05/2011đến

30/08/2011
-Đánh giá lại quá trình thực hiện và có
biện pháp điều chỉnh các biện pháp.
Tác giả phối hợp với
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 01/09/2011đến - Tiếp tục đề xuất những biện pháp Tác giả phối hợp với
30/12/2011
khắc phục mới. Thực hiện những biện
pháp đó
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 01/01/2012 đến
20/01/2012
-Đánh giá kết quả của quá trình nghiên
cứu.
Tác giả phối hợp với
ban giám hiệu-giáo
viên trường
Từ 21/01/2011 đến
28/02/2011
-Rút ra bài học kinh nghiệm. Và viết
đề tài.
Tác giả

B. NỘI DUNG
1. Thực trạng và những mâu thuẫn:
Trường tiểu học Xuyên Mộc cũng như một phần lớn các trường trong huyện
Xuyên Mộc, là trường có đội ngũ giáo viên trải qua nhiều năm công tác, phần lớn
là giáo viên lớn tuổi, có gần 70% giáo viên công tác trên 20 năm, chỉ có 2 giáo

viên mới ra trường. Một số giáo viên lớn tuổi vẫn sử dụng các phương pháp
truyền thống để truyền thụ kiến thức cho học sinh, chưa mạnh dạn đổi mới
phương pháp. Những năm trước, nhà trường đã tổ chức được các chuyên đề cấp
trường, khối tập trung chủ yếu ở hai phân môn Toán, Tiếng Việt và một số nội
dung mới. Tuy nhiên việc tổ chức chuyên đề ở nhà trường chưa đạt hiệu quả cao.
Do hình thức tổ chức chuyên đề chưa được chặt chẽ, khoa học, các bước chuyên
dề thực hiện vẫn mang tính chiếu lệ. Chưa tổng kết đánh giá chuyên đề. Ngoài ra
việc chọn nội dung chuyên đề, lưu giữ hồ sơ chuyên đề vẫn còn nhiều bất cập nên
việc tổ chức chuyên đề chưa đạt mục tiêu đề ra.
Cơ sở vật chất nhà trường đầy đủ, trang thiết bị dạy học bảo đảm chuẩn tạo điều
kiện cho việc nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy vậy tay nghề giáo viên ở trường
vẫn không đồng đều, số lượng giáo viên giỏi các huyện còn ít chưa đến 20%. Một
số giáo viên lên lớp còn sử dụng phương pháp và hình thức dạy học chưa phù hợp
với tâm sinh lí các em học sinh.
2. Các biện pháp giải quyết vấn đề :
Chuyên đề thực hiện trong nhà trường được tiến hành qua các giai đoạn theo sơ
đồ sau :
2.1 Giai đoạn phát hiện vấn đề và chọn đề tài cho chuyên đề :
Đây là giai đoạn khá quan trọng quyết định sự thành công của chuyên đề. Những
nội dung đưa ra trong chuyên đề phải thật sự cần thiết thường là những vướng
mắc mà giáo viên đang cần tháo gỡ trong công tác giảng dạy .
Chuyên đề phải xuất phát từ nhu cầu của giáo viên. Tuyệt đối tránh tình trạng ban
giám hiệu tổ chức hàng loạt chuyên đề cho đủ tất cả phân môn trong chương trình
mà không cần biết những chuyên đề đó có thật sự cần thiết và đáp ứng được nhu
cầu của giáo viên hay không, điều này sẽ gây “bội thực” cho giáo viên và cả học
sinh mà lại không đạt hiệu quả, làm lãng phí thời gian vô ích.
Thông thường để chọn một nội dung chuyên đề phù hợp thì Ban giám hiệu cần
phát hiện ra những vướng mắc, khó khăn của giáo viên qua việc dự giờ thăm lớp,
qua hội giảng, qua những ý kiến của giáo viên trong các buổi họp chuyên môn từ
đó chọn nội dung để tổ chức chuyên đề.

Ví dụ: Hiện nay một số giáo viên khi dạy môn tự nhiên – xã hội (lớp 1, 2, 3) hay
khoa học (lớp 4, 5) vẫn dạy qua loa, hình thức, không sử dụng tranh ảnh, đồ
dùng dạy học để dạy, chưa biết vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy,
thành ra tiết học chưa đạt hiệu quả cao.
- Vậy nên tổ chức chuyên đề : “Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy
môn tự nhiên – xã hội.”
Những nội dung chuyên đề có thể là:
- Nội dung mới được triển khai trong năm (giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục
kĩ năng sống, cách lồng ghép vào các môn các bài có địa chỉ lồng ghép qui định
trong chương trình; dạy và học tích cực. Một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học, dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng )
- Nội dung khó giáo viên và học sinh còn vướng mắc trong năm trước.
- Nội dung chuyên đề đã thực hiện nhưng chưa giải quyết dứt điểm hoặc chưa
đem lại hiệu quả Ví dụ : chuyên đề “Một vài điểm chú ý khi sử dụng công nghệ
thông tin (giáo án điện tử) trong dạy học.” Đây là chuyên đề có thể thực hiện
trong nhiều năm học.
- Khi lựa chọn chuyên nhằm giải quyết những vấn đề khó, vướng mắc của giáo
viên ta không nên lựa chọn tên chuyên đề quá rộng, chung chung. Tên chuyên đề
cần rõ ràng, cụ thể vào một nội dung nhỏ. Ví dụ : “Hướng dẫn học sinh viết từ
khó trong phân môn chính tả lớp 3”. Hay “Một số phương pháp dạy môn toán
có yếu tố hình học ở lớp 4, 5.”
- Chú ý : Đối với cấp trường nên tổ chức 2 đến 3 chuyên đề trong một năm.
Tránh ôm đồm làm nhiều chuyên đề nhưng rồi không có hiệu quả. Vì để hoàn
thành một chuyên đề cấp trường cần phải qua nhiều gian đoạn và trong một thời
gian dài. (Nhiều trường khi đến kiểm tra thì ngay từ giữa học kì I đã tổ chức đến
5 chuyên đề cấp trường. Và mỗi khối cúng có từ 4 đến 5 chuyên đề cấp khối. Trên
thực tế các trường này chỉ tổ chức chuyên đề cho có vì không tổ chức dự giờ kiểm
tra. Phần lí thuyến không có nội dung mới mà chỉ là cũng cố lại những phương
pháp dạy học từ trước. Không có kế hoạch chuyên đề, không tổng chức tổng kết,
đánh giá chuyên đề.)

2.2 Xây dựng kế hoạch:
Sau khi chọn được những nội dung để tổ chức các chuyên đề cấp trường thì
Chuyên môn cần xây dựng kế hoạch :
- Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề cấp trường cần cụ thể và chi tiết
(mục đích, thời gian, nội dung, công việc, phân công…).
+ Thời gian tổ chức chuyên đề :
Thời gian tổ chức chuyên đề cần phù hợp với nội dung chương trình giảng dạy và
đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của giáo viên. Có thể tranh thủ vào các tuần nghỉ
giữa kì để không ảnh hưởng đến việc giảng dạy của giáo viên, ảnh hưởng đến
việc học của học sinh.
Có những chuyên đề ta có thể tổ chức bất kì thời điểm nào trong năm học nhưng
cũng có chuyên đề phải tổ chức theo mạch kiến thức mới.
Ví dụ:Chuyên đề tổ chức bất kì trong năm “Sử dụng giáo án điện tử vào giảng
dạy môn khoa học lớp 4”
Chuyên đề phải tổ chức sau khi học sinh học xong phần vần là: “Rèn kĩ năng đọc
đúng cho học sinh lớp 1 ”.
+ Nội dung của kế hoạch chuyên đề :
- Khi xây dựng nội dung của kế hoạchchuyên đề cần tập trung làm rõ các vấn đề
sau:
+ Tên chuyên đề.
+ Sự cần thiết của chuyên đề.
+ Mục đích của chuyên đề.
+ Nội dung chuyên đề.
+ Biện pháp thực hiện
- Về kế hoạch cần xây dựng kế hoạch chung cho cả năm học và có kế hoạch cụ
thể cho từng nội dung chuyên đề.
Kế hoạch cụ thể có thể trình bày như sau :

Tên chuyên đề Mục Thời gian Phân công Nội dung thực hiện
01/ Dạy toán

có yếu tố hình
học và hình
thức dạy toán
cho học sinh
khá giỏi.

Trình bày lí
thuyết

02/12/11
Nguyễn Hồng

-Một số điểm cần lưu ý
khi dạy toán có yếu tố
hình học, hình thức dạy
toán cho học sinh khá
giỏi.
Dạy
chuyên đề
02/12/11
Huỳnh Thị Bạch
Yến
-Dạy chuyên đề môn
toán khối 4.
Dự giờ
xoay vòng
05/12/11
đến
24/02/12
-Ban giám hiệu

-Khối trưởng
-Dự giờ theo từng lớp
(mỗi khối 1-2 tiết).
Tổng kết
chuyên đề
24/02/12
TRần Thị Mỹ
Vân
-Dạy tổng kết chuyên đề
môn toán khối 4.
Đoàn Thị Lục -Tổng kết chuyên đề

2.3 Phân công thực hiện :
Sau khi xây dựng kế hoạch thì ban giám hiệu cần thành lập tổ chuyên đề, phân
công người chịu trách nhiệm các phần theo kế hoạch đề ra. Như người báo viết
phần lí thuyết và báo cáo, người dạy tiết minh họa, người xây dựng tiết minh họa,
người tổ chức thảo luận,
-Trước tiên cần thành lập tổ chuyên đề để trợ giúp phó hiệu trưởng xây dựng
chuyên đề. Tổ chuyên đề gồm ban giám hiệu do hiệu phó làm tổ trưởng, môt thư
kí để ghi lại tiến trình chuyên đề, các thành viên là tổ khối trượng hoặc giáo viên
dạy giỏi có kinh nghiệm về nội dung chuyên đề đang mở
02/ Đổi mới
phương pháp
dạy học môn
luyện từ và câu.
Kết hợp lồng
ghép với việc
ứng dụng
CNTT vào dạy
luyện từ và câu.



Trình bày lí
thuyết
20/03/12
Nguyễn Hồng

-Định hướng một số
phương pháp dạy học đặc
trưng của phân môn LT
& câu ; việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào
dạy luyện từ và câu.
Dạy
chuyên đề
20/03/12
Phạm Vũ Mai
Sương
-Dạy chuyên đề môn LT
và câu lớp 3.
Dự giờ
xoay vòng
20/03/12
đến
20/04/12
Ban giám hiệu
- Khối trưởng
-Dự giờ theo từng lớp
(mỗi khối 1-2 tiết).
Tổng kết

chuyên đề
20/04/12
Nguyễn Thị
Nam
-Dạy tổng kết chuyên đề
môn LT& câu lớp 3.
Đoàn Thị Lục -Tổng kết chuyên đề
- Để chọn người viết phần lí thuyết cho chuyên đề trường thì nên chọn những
giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng hoặc là phó hiệu trưởng phụ trách
chuyên môn. Cần phân công hợp lý theo sở trường và thế mạnh của giáo viên
nhằm đạt hiệu quả cao nhất của chuyên đề. Người viết phần lí thuyết cũng là
người báo cáo lí thuyết. (Đối với chuyên đề cấp trường thông thường là phó hiệu
trưởng hoặc hiệu trưởng sẽ thực hiện phần này)
Ví dụ : Đối với những nội dung mới được bồi dưỡng trên sở Hiệu trưởng hoặc
Phó hiệu trưởng sẽ luân phiên triển khai, các nội dung liên quan đến nội dung,
phương pháp dạy học thì có thể phân công các tổ trưởng chuyên môn hoặc giáo
viên giỏi, giáo viên có nhiều kinh nghiệm thực hiện viết phần lí thuyết.
- Người dạy tiết minh họa nên phân công giáo viên giỏi hoặc giáo viên lâu năm có
khả năng giữ bình tĩnh, đủ tự tin khi thể hiện tiết dạy trước tập thể sư phạm nhà
trường. Để tránh tình trạng giáo viên dạy minh họa quá hồi hộp mà không sử lí
được các tình huống đã chuẩn bị theo chuyên đề.
- Người dạy chuyên đề phải là người đang dạy lớp, môn có liên quan đến chuyên
đề. VD : Chuyên đề “Rèn kĩ năng viết chữ trong môn tập viết lớp 2” thì phải
chọn giáo viên viết chữ đẹp có kinh nghiệm dạy viết chữ ở khối lớp 2.
2.4 Viết phần lí thuyết và phổ biến đến giáo viên.
a) Viết phần lí thuyết :
- Đây là nội dung rất quan trọng của một chuyên đề cấp trường. Hiện nay rất
nhiều trường khi thực hiện chuyên đề lại không có phần lí thuyết, mà chỉ có tiết
minh họa và thảo luận tiết dạy. Như vậy giáo viên dự chuyên đề sẽ khó nắm bắt
nội dung của chuyên đề đang mở. Vì thông thường khi dự tiết chuyên đề mỗi giáo

viên cảm nhận một cách khác nhau. Khi thảo luận thì giáo viên lại e ngại ít dám
phát biểu nêu lên ý kiến của mình. Vì vậy tiết chuyên đề không truyền đạt được
cho giáo viên những nội dung mà người mở chuyên đề muốn truyền tải.
- Phần lí thuyết là những kinh nghiệm của giáo viên, những phương pháp, những
biện pháp dạy học mới mà giáo viên, ban giám hiệu đúc kết được qua quá trình
giảng dạy. Phần lí thuyết là các giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của
giáo viên trong quá trình giảng dạy, là những sáng kiến, kinh nghiệm của giáo
viên chứa đựng nội dung của chuyên đề đang mở.
- Để viết được phần lí thuyết, người viết cần tham khảo ý kiến của các giáo viên
đứng lớp, đang giảng dạy khối lớp đó. Đưa ra nội dung chuyên đề và tham khảo ý
kiến giáo viên, của bộ phận chuyên môn và cùng nhau xây dựng nội dung báo
cáo. Có thể tham khảo những sáng kiến kinh nghiệm hay của giáo viên để viết
phần lí thuyết.
- Để viết tốt phần lí thuyết thì từ nội dung của chuyên đềchúng ta cần nêu lên
được vướng mắc thực tế, nguyên nhân, và từ đó tìm ra được biện pháp khắc phục.
Ví dụ: Để viết phần lí thuyết cho chuyên đề : “Dạy luyện nói cho học sinh lớp
Một”.
+Vướng mắc :
Khó khăn khi dạy cho học sinh lớp Một luyện nói là : Học sinh rất ít chịu nói. Khi
nói thì không thành câu hoặc dùng từ ngữ thiếu chính xác khi diễn đạt ý
+Nguyên nhân :
- Giáo viên thường bỏ qua giờ luyện nói mà tập trung vào dạy đọc chữ cho học
sinh.
- Học sinh lớp Một chưa quen với việc đúng trước tập thể để nói, nhút nhát, thiếu
tự tin, sử dụng vốn từ chưa được tốt nên gây khó khăn khi nói.
+Biện pháp tháo gỡ :
- Để học sinh nói được tốt giáo viên thường đưa ra những gợi ý nhỏ để học sinh
trả lời. Giáo viên tập cho các thói quen nói trước lớp bằng những câu hỏi những
câu hỏi dễ trả lời
- Kêu những em giỏi lên trước sau đó mới kêu các học sinh trung bình và yếu để

các em được bình tĩnh hơn
- Nội dung của phần lí thuyết có thể là định hướng cho giáo viên những phương
pháp, hình thức dạy học mới. Những kinh nghiệm mà những giáo viên thực hiện
có kết quả. Là những định hướng cho một nội dung mới mà giáo viên chưa nắm
bắt đầy đủ.
Ví dụ : Phần lí thuyết cho chuyên đề“Dạy đối tượng học sinh khá giỏi theo chuẩn
kiến thức kĩ năng ở môn toán” như sau :
Một vài định hướng về thực hiện giảng dạy đối tượng học sinh khá giỏi theo
chuẩn KTKN ở bộ môn toán:
Từ chuẩn kiến thức kĩ năng mà bộ đưa ra (hay còn gọi là chuẩn tối thiểu). GV cần
xác định mức độ chuẩn cho lớp mình. Việc xác định chuẩn của lớp GV cần dựa
vào: Sách giảm tải, hướng dẫn thực hiện chuẩn KTKN, dựa vào mục đích – yêu
cầu trong sách giáo viên mà Bộ giáo dục và đào tạo phát hành, và tùy theo điều
kiện, tình hình của lớp. (Xác định chuẩn của lớp tức là GV xác định lượng kiến
thức, kĩ năng cho những đối tượng học sinh có trình độ nhận thức trung bình,
dưới trung bình của lớp mình). Làm sao trong khi dạy học sinh trung bình, dưới
trung bình của lớp phải đạt được mức chuẩn do giáo viên đưa ra. Khi xác định
được chuẩn của lớp, thì tất cả học sinh trong lớp bắt buộc phải hoàn thành tất cả
kiến thức và kĩ năng đó… (Chuẩn của lớp không được dưới chuẩn tối thiểu).
Còn những kiến thức kĩ năng còn lại trong sách giáo khoa mà nhằm ngoài chuẩn
của lớp thì giáo viên có thể lựa chọn để dạy cho học sinh có khả năng, có điều
kiện (học sinh khá – giỏi) thực hiện.
Như vậy học sinh cótrình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình không cần
phải làm hết các bài tập trong sách giáo khoa mà chỉ cần làm các bài tập mà giáo
viên xác định nằm trong khuôn khổ chuẩn của lớp…
Những nội dung ngoài chuẩn có hai loại :
Loại bài toán mà học sinh có trình độ nhận thức trung bình, dưới trung bình có
thể hiểu và làm được nhưng giảm tải do số lượng nhiều thì giáo viên nên giảng
chung cho cả lớp và sau đó chỉ yêu cầu các em khá - giỏi làm thêm. Giáo viên nên
tránh các trường hợp dùng từ ngữ không hợp lí, như: “em nào làm nhanh thì làm

thêm…”, “các em học sinh khá - giỏi làm thêm cho cô…”. Trong khi HS làm bài
giáo viên quan sát theo dõi thấy học sinh nào làm những bài trong chuẩn xong rồi
thì mới yêu cầu em đó làm tiếp những bài dành cho học sinh khá - giỏi.VD: em
Nam em Bắc làm thêm cho cô bài 4”.
Và khi sửa bài và nhận xét giáo viên cần thực hiện cả yêu cầu trong chuẩn và yêu
cầu ngoài chuẩn. VD: Cô nhận thấy cả lớp đều làm tốt bài tập 3 phần a, b. Riêng
bạn Nam, bạn Bắc đã hoàn thành được cả phần c.
Đối với bài toán khó dành cho học sinh khá giỏi (HS có trình độ nhận thức trung
bình, dưới trung bình khó nắm bắt được) nằm ngoài chuẩn của lớp giáo viên
không nên hướng dẫn chung cho cả lớp mà nên dạy theo nhóm đối tượng tức là
dạy theo trình độ học sinh. Cách dạy này thường thực hiện ở phần luyện tập thực
hành trong môn toán.Trong cách dạy này giáo viên cần chia lớp theo từng nhóm
đối tượng có trình độ như nhau. VD: nhóm HS giỏi toán, nhóm HS yếu toán có
lời giải, nhóm HS khá - giỏi, nhóm học sinh trung bình và dưới trung bình, nhóm
HS giỏi toán hình… tùy theo bài dạy mà GV có cách chia nhóm khác nhau. Khi
dạy GV sẽ giao lượng việc cho các nhóm khác nhau. VD: nhóm học sinh trung
bình và dưới trung bình thì thực hiện kiến thức trong chuẩn của lớp, nhóm học
sinh khá giỏi thì thực hiện thêm kiến thức ngoài chuẩn. Ví dụ kiến thức ngoài
chuẩn là một bài toán có lời giải thuộc dạng khó hiểu… Thì khi phân nhóm theo
đối tượng giáo viên cần phải chọn những em có khả năng hiểu và giải được toán
có lời giải thành một nhóm và giao cho các em giải thêm bài toán này. Còn
những học sinh khác thì vẫn thực hiện các bài trong chuẩn.
Trong một lớp học theo thời gian thì các đối tượng học sinh trong lớp sẽ có sự
thay đổi. Như sẽ có những em học sinh trung bình học tiến bộ trở thành học sinh
khá giỏi. Hoặc những em học sinh khá giỏi vì một lí do nào đó học tập sa sút trở
thành học sinh trung bình. Do vậy việc xác định nhóm đối tượng theo trình độ của
lớp GV cần chú ý quan sát và thay đổi thường xuyên. Việc phân nhóm đối tượng
theo trình độ của HS không phải cố định bất di bất dịch mà luôn thay đổi tùy theo
năng lực của học sinh, kiến thức của bài học…
Khi giao việc cho học sinh theo trình độ thì GV cần chú ý : Nếu công việc đó học

sinh làm việc cá nhân thì giáo viên không nên yêu cầu học sinh đổi chỗ. Việc đổi
chỗ để cho các học sinh khá giỏi ngồi thành một nhóm chỉ thực hiện khi công
việc mà GV viên giao cho học sinh cần có sự sự hợp tác, có sự bàn bạc, thảo luận
chung của cả nhóm. VD: Tìm cách giải của một bài toán tính nhanh, tìm cách
giải của một bài toán có lời giải khó hiểu…
Khi giao thêm việc (bài tập ngoài chuẩn của lớp) cho nhóm học sinh có khả năng
GV cần giao một cách kín đáo, nhẹ nhàng tránh làm ảnh hưởng đến các nhóm
khác. GV có thể làm việc riêng đối với từng cá nhân HS, hay với nhóm HS khá
giỏi mà không để cho các cá nhân, cũng như nhóm khác biết….
Khi có sự đổi chỗ để hình thành các nhóm theo trình độ GV tránh dùng từ ngữ
gây ảnh hưởng đến HS. Như các từ “yếu kém, khá giỏi” và tốt nhất là tránh cho
HS biết các em đang được xếp nhóm theo trình độ. Và để làm được điều này GV
không nên lúc nào cũng xếp nhóm theo trình độ mà thêm vào những kiểu xếp
nhóm khác nhau (có thể ở các tiết học khác): như nhóm theo tên, nhóm theo sở
thích, nhóm gần nhà nhau vv…
- Nội dung lí thuyết ban giám hiệu cần phải duyệt qua trước khi phổ biến cho giáo
viên ./.
b) Báo cáo lí thuyết :
Lí thuyết viết xong thì cần phổ biến cho giáo viên trước khi giáo viên dự tiết dạy
minh họa. Có như vậy thì khi dự tiết minh họa giáo viên mới có thể so sánh đối
chiếu và nắm bắt được nội dụng trọng tâm của chuyên đề qua phần dạy minh họa.
Có thể phổ biến phần lý thuyết bằng những cách sau tùy theo nội dung chuyên đề
và tình hình của nhà trường :
- Tổ chức một buổi thảo luận phần lí thuyết để thu thập ý kiến của tất cả giáo
viên (nếu chuyên đề bàn về nội dung mới, hay nội dung lớn).
- In phần lí thuyết và phát về cho các tổ để các tổ tham khảo và cho ý kiến trước
khi dự tiết minh họa.
- Phổ biến lí thuyết ngay trước khi giáo viên dự tiết minh họa.
2.5Xây dựng tiết dạy minh họa.
- Sau khi viết phần lí thuyết, định hướng được nội dung của chuyên đề. Thì bắt

đầu xây dựng tiết dạy minh họa.(khi xây dựng kế hoạch chuyên đề đã dự kiến
người và lớp dạy minh họa). Người dạy minh họa phải được nắm rõ nội dung
chuyên đề, những vấn đề đã viết trong phần lí thuyết.Để cùng với tổ chuyên đề
chọn môn, bài dạy cho hợp lí để chuyên đề có tính hiệu quả cao hơn. Bài dạy
minh hoạ chuyên đề cần lựa chọn tiêu biểu, phù hợp. Khi soạn dạy minh hoạ giáo
viên cần mạnh dạn đổi mới phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức dạy học và
giờ dạy cần đảm bảo tính thống nhất cao với phần lý thuyết đã trình bày.
- Tổ chuyên đề định hướng cho giáo viên dạy minh họa các phương pháp, biện
pháp mà nội dung chuyên đề hướng tới.
- Người dạy minh họa nghiên cứu phần lí thuyết ý kiến của tổ chuyên đề và soạn
giáo án, dự kiến tiết dạy.
- Dạy thử cho tổ chuyên đề dự giờ và góp ý. (Có thể không cần dạy trước nếu
giáo viên là giáo viên có kinh nghiệm nắm bắt tốt vấn đề mà chuyên môn đã định
hướng.)
- Điều chỉnh lại tiết dạy minh họa và chuẩn bị trang thiết bị cho tiết dạy minh
họa (phòng, đồ dùng giảng dạy )
2.6Dạy minh họa – Thảo luận.
-Trước khi dạy minh họa và thảo luận cần phân công thư kí ghi biên bả tiết dạy
cũng như biên bải thảo luận tiết dạy. Thư kí cần ghi đầy đủ diễn biến tiết dạy
cũng như buổi thảo luận. Định hướng của chuyên đề
a) Dạy minh họa :
- Đây là hoạt động thực tế nhằm làm sáng tỏ và minh chứng cho những vấn đề đã
được trình bày trong phần lí thuyết và nhằm giải quyết những vấn đề thực tế trong
giảng dạy.
- Trước khi dạy minh họa thì tổ chuyên đề cần thông báo cho giáo viên dự chuyên
đề nắm bắt được thời gian, địa điểm tổ chức chuyên đề. Thông báo cho giáo viên
biết lớp, tên giáo viên, môn, bài dạy minh họa để giáo viên xem và chuẩn bị
trước. (Nhiều trường tổ chức chuyên đề không thông báo những nội dung trên
hoặc giáo viên không xem trước bài nên khi dự xong giáo viên không nắm bắt
được ý tưởng của chuyên đề để đóng góp ý kiến.)

- Cần chuẩn bị nơi dạy tiết minh họa chu đáo, có đủ chổ ngồi cho giáo viên dự và
lớp học. Tránh tình trạng giáo viên ngồi chen nhau, ngồi bên ngoài lớp học.
- Việc tổ chức tiết dạy minh họa cần thực hiện như một tiết dạy thực tế trên lớp.
Tránh tình trạng gà bài quá kĩ mà tiết minh họa trở thành một tiết trình diễn, điều
đó làm cho người dự cảm thấy không thực tế.
a) Thảo luận :
Đây là phần quan trong nhất trong chuyên đề. Khi nhận xét, rút kinh nghiệm giờ
dạy minh họa, lưu ý giáo viên, cần cân nhắc kỹ càng, nhận xét, rút kinh nghiệm
chỉ ra những ưu điểm của chuyên đề cần phát huy và tìm ra những hạn chế để
khắc phục, cách khắc phục như thế nào? Tránh lối nhận xét, qua loa đại khái hoặc
nhận xét khắt khe, thành kiến đối với bài dạy của giáo viên và khả năng học tập
của học sinh.
- Trước khi bước vào thảo luận, người tổ chức buổi thảo luận sẽ bày tỏ ý kiến của
mình qua việc triển khai chuyên đề. Nội dung trọng tâm chuyên đề hôm nay là
bàn vấn đề gì? Hướng mọi người tập trung vào thảo luận nội dung trọng tâm của
chuyên đề. Tránh việc phát biểu không ăn nhập với nội dung chuyên đề, gây mất
thời gian.
VD: “Hôm nay chũng ta thực hiện chuyên đề : (Ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy môn Luyện từ lớp 3 – bài “So sánh- Dấu chấm”). Mong các đồng chí tập
trung đóng góp cho tiết dạy về phương pháp, hình thức nêu ở phần lí thuyết giáo
viên ứng dụng vào bài dạy hợp lí chưa? Hiệu quả trong việc đưa thêm hình ảnh
đoạn clip để giải nghĩa từ. làm rõ nội dung, một số hình ảnh trong bài (Như để
thấy được âm thanh tiếng đàn bầu, tiếng suối Côn Lôn, Tiếng mưa rơi trên lá
cọ…).? Qua những hình ảnh, fiel âm thanh, những đoạn clip có giúp cho học sinh
dễ hiểu và hiểu kĩ hơn một số từ ngữ mà giáo viên đưa ra không? Những điểm
dạy học nào đã thực hiện tốt ? Nội dung dạy học nào chưa đạt theo yêu cầu ? Vì
sao ?
- Người tổ chức buổi thảo luận cần hướng dẫn mọi người thảo luận hai vấn đề về
lý thuyết cũng như tiết dạy minh họa các ý kiến tập trung làm sáng tỏ :
+Về lý thuyết: Lý luận và thực trạng của vấn đề đưa ra đã thực sự thuyết phục

người nghe chưa ? Những biện pháp nhằm tháo gỡ điểm khó, vướng mắc đã hợp
lý chưa ? Còn phân vân hoặc chưa sáng tỏ ở nội dung nào ? Cần điều chỉnh nội
dung nào ?
+Về tiết minh hoạ : Tập trung nhận xét về nội dung, phương pháp, hình thức dạy
học, tính hiệu quả của các phương pháp, hình thức đưa ra trong tiết dạy ? Giờ dạy
đã thể hiện được mục đích của chuyên đề hay chưa ? Những biện pháp đưa ra
trong phần lý thuyết đã thể hiện trong tiết dạy minh họa như thế nào, hiệu quả ra
sao ? Chuyên đề có thể áp dụng được hay không ?
- Ngoài ra trước khi thảo luận cũng cho người dạy minh họa nói rõ ý tưởng của
mình khi thực hiện những phương pháp và hình thức đã thể hiện trong tiết dạy
minh họa để giáo viên tham dự hiểu rõ hơn về tiết minh họa. Vì nhiều giáo viên
khi dự giờ không xem trước bài hoặc xem qua loa nên khi dự giờ không cảm nhận
được những phương pháp, hình thức mà tiết dạy đã thể hiện nên có những pháp
biểu đi lệch nội dung chuyên đề, không đúng gây mất thời gian cho buổi thảo
luận.
VD : Giáo viên dạy minh họa : “Trong bài dạy này tôi đã sử dụng hai đoạn clip
có âm thanh kèm theo để miêu tả tiếng mưa trong rừng cọ và miêu tả tiếng thác

×