Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.45 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
A: Lời mở đầu.
B: Nội dung.
1: Yêu cầu về chất lượng và tính khả thi của văn bản pháp luật.
2: Thực trạng về tính khả thi của văn bản pháp luật hiện nay.
2.1: Ưu điểm.
2.2:Những hạn chế.
2.3: Những nguyên nhân dẫn đến ban hành văn bản pháp luật thiếu tính khả thi.
3: Các biện pháp bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.
3.1: Biện pháp để nội dung của văn bản phù hợp với thực tiễn.
3.2: Biện pháp đảm bảo cho văn bản pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc.
C: Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
1
A: LỜI MỞ ĐẦU
Văn bản pháp luật là một công cụ rất quan trọng trong quản lí nhà nước và
đảm bảo trật tự xã hội. Các văn bản pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Tuy nhiên
để văn bản pháp luật có thể giải quyết được các vấn đề xã hội một cách hiệu quả và
được mọi người tin tưởng vào hệ thống pháp luật của nước ta thì cần phải bảo đảm
được tính khả thi của các văn bản pháp luật. Việc đưa ra các biện pháp nhằm bảo
đảm tính khả thi của các văn bản này là vô cùng cần thiết trong thực tiễn các văn
bản pháp luật được ban hành còn rất nhiều bất cập như hiện nay. Vì thế em xin
chọn đề tài: “Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật.” là nội
dung bài tập lớn học kì bộ môn xây dựng văn bản.
B: NỘI DUNG
1: Yêu cầu về chất lượng và tính khả thi của văn bản pháp luật.
Tính khả thi của một văn bản pháp luật là khi một văn bản pháp luật ra đời
điều chỉnh vấn đề nó quy định một cách có hiệu quả, hợp lí,được nhân dân ủng hộ
và tự giác chấp hành.Những văn bản đó cũng cấn phải hợp hiến, hợp pháp thống
nhất với các văn bản luật có hiệu lực cao hơn. Muốn vậy văn bản pháp luật cần


phải có đủ chất lượng.
Chất lượng của VBPL là cơ sở để bảo đảm cho việc thực hiện và áp dụng
pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời cho phép dự báo được
khả năng hiện thực hoá các quy định pháp luật trong đời sống xã hội. Chất lượng
của VBQPPL cần được xem xét cả về hình thức và nội dung của VBPL.
_Về hình thức thể hiện, chất lượng của VBPL được thể hiện trước hết ở sự phù hợp
giữa nội dung với hình thức của văn bản. VBPL phải đầy đủ, chặt chẽ giữa các quy
trình ban hành văn bản như: thẩm quyền ban hành, quá trình soạn thảo, thông qua;
kết cấu của văn bản; tính chặt chẽ, lôgíc, tính chính xác của các thuật ngữ pháp lý
được sử dụng, sự trong sáng của lời văn, mức độ phù hợp với khả năng nhận thức,
ý thức pháp luật hiện có của đa số quần chúng nhân dân.
_Về hình thức cấu trúc, VBPL phải được cấu trúc chặt chẽ, logic, khoa học, có
chương, phần, điều, khoản phù hợp tạo thành hệ thống thống nhất. Trong văn bản,
mỗi quy định, chương, phần… cũng có cấu trúc thích hợp. Giữa các bộ phận, các
quy định của văn bản luôn có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất nội tại với nhau.
2
Đây là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích và tính triệt để
trong việc thực hiện pháp luật.
VBPL được ban hành phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ
không chồng chéo, mâu thuẫn, luôn bảo đảm sự thống nhất, phải có tính toàn diện
tính phù hợp (phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, với các
công cụ điều chỉnh khác, với pháp luật quốc tế, với cơ chế thực thi pháp luật hiện
hành…) và trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Nội dung của VBPL phải bảo đảm sự
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội của đất nước. Nó
phải phản ánh đúng các quy luật kinh tế, những điều kiện kinh tế đặc thù của
phương thức sản xuất tồn tại trong đất nước; phản ánh sâu sắc định hướng chính trị
xã hội của đất nước, thể chế hoá chính xác, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng
và thể hiện ở mức độ cao nhất, đầy đủ nhất ý chí của nhân dân; bảo đảm tính hợp
lý trong việc phản ánh và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau như lợi
ích của toàn xã hội, của giai cấp, của các nhóm xã hội và lợi ích của mỗi cá nhân...

trên phạm vi cả nước, từng địa phương và mỗi cộng đồng; phù hợp với đạo đức,
văn hóa dân tộc, thuần phong mỹ tục của đất nước; phù hợp với các quy định của
pháp luật quốc tế (các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia); đưa ra được phương án tốt nhất với những phương pháp điều
chỉnh pháp luật phù hợp để thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn
trong những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại của đất nước; đề ra được những mục
đích phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Cần đảm bảo được những nội
dung trên thì văn bản mới có tính khả thi cao.
2: Thực trạng về tính khả thi của văn bản pháp luật hiện nay.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để nhằm mục đích quản lý, điều hành
mọi hoạt động của đất nước. Việc ban hành văn bản pháp luật phải theo những quy
định của pháp luật.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, các văn bản quy
phạm pháp luật trước khi được ban hành cần được thẩm định nghiêm túc và khách
quan. Một trong những nội dung quan trọng phải được thẩm định quy định tại
khoản 3, điều 36, Luật Ban hành văn bản pháp luật là “Tính khả thi của dự thảo
văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực
tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện”. Quy định trên
rất hợp lý và cần thiết để những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, thiết nghĩ
3
nếu một văn bản pháp luật ban hành xa rời thực tế, hay tạo ra những tác động tiêu
cực hay khó thi hành sẽ gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian và
tiền bạc.
2.1: Ưu điểm.
Nhìn chung các văn bản pháp luật được ban hành dựa trên những vấn đề
phát sinh từ thực tế cuộc sống và đã giải quyết được những quan hệ phát sinh trong
đời sống xã hội. Phát huy được vai trò không thể thiếu của mình trong việc quản lí
nhà nước và trật tự xã hội.
Các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật đẫ và đang nỗ lực cố
gắng xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn các văn bản pháp luật, hợp hiến và hợp

pháp đảm bảo được tính khả tính khả thi cao.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại rất nhiều những bất cập và hạn chế.
2.2:Những hạn chế.
Quy định của pháp luật và ý nghĩa của việc đảm bảo tính khả thi của văn bản
là đã rõ và về mặt lý thuyết không có ai phản đối. Tiếc thay, hiện nay đã và đang
xuất hiện khá nhiều văn bản không có tính khả thi hoặc tính khả thi rất thấp.
Trước hết phải kể đến một số nghị định của Chính phủ, bao gồm cả những
văn bản đã được ban hành và những văn bản đang là dự thảo. Xuất hiện nhiều quy
định xa rời thực tế hơn cả là Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 2-4-2010 của
Chính phủ (NĐ 34) “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ”.
Trong nghị định này, ít nhất cũng có ba điều xa thực tế, đó là: quy định xử
phạt vi phạm Luật Giao thông đối với người đi bộ; quy định xử phạt những người
hành nghề xe ôm không đeo biển hiệu và không có trang phục do cấp tỉnh quy định
để phân biệt với những người tham gia giao thông khác; quy định xử phạt với
những lái xe vận chuyển container không có bằng FC.
Việc xử phạt vi phạm Luật Giao thông đối với những người đi bộ, đặc biệt là
những người không mang theo giấy tờ tùy thân, tiền thì biết phạt bằng cách nào.
Mà dù có mang theo giấy tờ hoặc tiền mà họ không tự giác nộp phạt thì CSGT
cũng khó thực hiện, không thể khám người hoặc tạm giữ người vi phạm. Chính vì
lý do này mà dường như từ ngày NĐ 34 có hiệu lực đến nay, chưa có người đi bộ
nào bị phạt vi phạm Luật Giao thông.
4
Ngoài ra, Nghị định số 107/2009/NĐ-CP về kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng
(LPG) cũng xa rời thực tế đến mức nghiêm trọng với quy định thương nhân phân
phối LPG cấp I phải có 800 mét khối dung tích bồn chứa và 300.000 chai LPG.
Khi ban hanh văn bản này người dự thảo không tính đến việc để đáp ứng được
những điều kiện đó, mỗi thương nhân phân phối LPG cấp I phải có ngay một số
vốn khoảng 200 tỉ đồng, chưa tính tiền thuê đất. Hơn nữa, nếu xét về quy mô kinh
doanh, những điều kiện đó là không cần thiết, gây lãng phí lớn đối với các doanh

nghiệp. Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14-5-2010 “Quy định về hóa đơn bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ” cũng bao gồm không ít nội dung chưa rõ ràng. Vì
vậy, Bộ Tài chính cũng đang rất vướng khi phải ban hành ngay một thông tư
hướng dẫn. Quan trọng hơn, NĐ 51 đã chuyển từ cực này sang cực kia trong việc
quản lý tạo lập và sử dụng hóa đơn. Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, sử dụng ít
hóa đơn sẽ gặp khó khăn khi không được cơ quan thuế bán hóa đơn cho mà phải
đặt in hóa đơn.
Trên đây là một số bất cập của các văn bản pháp luật ban hành ra mà không
có tính khả thi. Vậy vì sao lại có những hiện tượng trên? Sau đây là một số nguyên
nhân dẫn đến việc thiếu tính khả thi của những văn bản pháp luật.
2.3: Những nguyên nhân dẫn đến ban hành văn bản pháp luật thiếu tính khả thi.
Việc các văn bản pháp luật thiếu tính khả thi trong cuộc sống là do các
nguyên nhân sau đây:
_ Thứ nhất, các nhà làm luật khi ban hành các văn bản pháp luật đã không chú ý,
dự đoán những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình áp dụng văn bản
pháp luật vào thực tế cuộc sống. Do đó văn bản vừa ban hành, thậm chí là chưa có
hiệu lực, đã phát sinh những điều bất hợp lý.
_ Thứ hai, quy định của Luật Ban hành văn bản pháp luật về việc trưng cầu ý kiến
đối với văn bản luật chưa được thực hiện nghiêm túc. Điều 35 Luật ban hành văn
bản pháp luật quy định về việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết; điều 62 quy định về việc lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định. Hiện
nay, việc lấy ý kiến, đặc biệt là ý kiến của đối tượng chịu tác động trực tiếp của
văn bản, đã không được chú trọng bị bỏ qua hay đôi khi chỉ thực hiện về hình thức.
_ Thứ ba, đội ngũ cán bộ công chức chưa làm tốt chức trách của mình, luôn đặt
mình vào vị trí áp đặt ý chí cho nên không quan tâm lắng nghe ý kiến của nhân
dân, nhiêu khi có kiến nghị của người bị văn bản pháp luật tác động nhưng các cán
5

×