Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

đánh giá các nguồn thải và nguồn tiếp nhận nước thải trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.32 KB, 72 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được nhiều sự giúp đỡ của các tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Tài nguyên và
Môi trường và các thầy cô Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành quá trình thực tập tốt nghiệp.
Đặc biệt tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Ngô Thế Ân và thầy Cao
Trường Sơn là hai người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Ngiên Cứu KHKT Bảo Hộ Lao Động đã
giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Cuối cùng tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè, những
người đã khích lệ tôi trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp.
Tôi xin cam đoan những kết quả trong báo cáo này là sự thật.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2012
Sv. Nguyễn Thị Thuý Hà
i
MỤC LỤC
4.1.2Xã hội 30
a) Nhà ở 30
b)Y tế 31
c)Giáo dục 32
4.1.4 Kinh tế 32
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Lượng nước chảy trên sông của thế giới Error: Reference source not
found
Bảng 2 :Tổng lượng nước thải và thải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải từ
các khu công nghiệp năm 2009 của Hà Nội Error: Reference source not found
Bảng 3 : Diện tích các Khu Công nghiệp chính của Thành Phố Hà Nội Error:


Reference source not found
Bảng 4 : Các cơ sở, khu (cụm) công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng trên địa bàn thành phố Hà Nội được Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm
tra năm 2007-2008 Error: Reference source not found
Bảng 5 : Ước tính tải lượng ô nhiễm nước thải thành phố Hà Nội theo WHO
Error: Reference source not found
Bảng 6. Thành phần nước thải sinh hoạt khu dân cư Error: Reference source not
found
Bảng 7 : Đặc trưng thành phần nước thải bệnh viện Error: Reference source not
found
Bảng 8: Ước tính khối lượng nước thải y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội 2008-2010
Error: Reference source not found
Bảng 9 : Đặc trưng ô nhiễm từ sản xuất của một số loại hình làng nghề Error:
Reference source not found
Bảng 10: Thải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải 1 số làng nghề chế biến
lương thực thực phẩm Error: Reference source not found
Bảng 11: Hàm lượng Coliform trong nước mặt một số làng nghề chế biến lương
thực,thực phẩm,chăn nuôi và giết mổ ở Hà Nội Error: Reference source not
found
Bảng 12: Định mức tải lượng ô nhiễm chăn nuôi theo WHO và thống kê số
lượng vật nuôi Error: Reference source not found
iii
Bảng 13 :Ước tính thải lượng nước thải vật nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội 2010
Error: Reference source not found
Bảng 14 : Các thông số đặc trưng của nước thải chăn nuôi và giới hạn các chất
ô nhiễm theo QCVN24:2009/BTNMT Error: Reference source not found
Bảng15 : Kết quả phân tích chất lượng nước hồ Tây năm 2011. .Error: Reference
source not found
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình2.1:Bờ biển Barrow, Alaska trở thành một nơi chứa rác Error: Reference
source not found
Hình 2.2: Sông Tô Lịch, một trong những dòng sông "đen" giữa Hà Nội Error:
Reference source not found
Hình 4.1:Ảnh chụp vệ tinh khu vực Hà Nội Error: Reference source not found
Hình 4.2: Thông số BOD các điểm quan trắc chất lượng nước sông Nhuệ 2011 Error:
Reference source not found
Hình 4.3: Thông số COD các điểm quan trắc chất lượng nước sông Nhuệ 2011 Error:
Reference source not found
Hình 4.4: Thông số BOD các điểm quan trắc chất lượng nước sông Đáy 2011 Error:
Reference source not found
Hình4.5: Thông số COD các điểm quan trắc chất lượng nước sông Đáy 2011 Error:
Reference source not found
Hình4.6:Nước tại khu vực sông Đáy đang bị ô nhiễm nặng Error: Reference
source not found
Hình 4.7: Thông số BOD các điểm quan trắc chất lượng nước 3 sông năm 2011 Error:
Reference source not found
Hình 4.8 : Các thông số đánh giá chất lượng nước sông Cầu đi qua TP Hà Nội năm 2011
Error: Reference source not found
Hình 4.9: Hàm lượng BOD
5
, COD trong các mẫu phân tích nước hồ Tây Error:
Reference source not found
Hình 4.10: Hàm lượng dinh dưỡng trong các mẫu phân tích nước hồ Tây Error:
Reference source not found
v
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Thủ đô Hà Nội là thành phố nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng

bằmg Bắc bộ, là đầu não chính trị, trung tâm hành chính của quốc gia; trung tâm
kinh tế , văn hoá, khoa học và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố hiện đang có xu
thế gia tăng và ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhất là đối với chất thải rắn,
nước thải và không khí ô nhiễm, gây nên bức xúc, ảnh hưởng tới đời sống sinh
hoạt của nhân dân tại nhiều khu vực. Thành phố đã nhìn thấy vấn đề môi
trường, đã đánh giá đúng thực trạng đó và đã xây dựng chương trình, kế hoạch,
đề án và những giải pháp vừa có tính trước mắt và tính lâu dài nhằm kiềm chế,
ngăn chặn tình trạng gia tăng ô nhiễm môi trường và cải thiện một bước cảnh
quan môi trường, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác bảo vệ môi trường
trên địa bàn thành phố Hà Nội để có được Thủ đô xanh, sạch đẹp thiết thực kỷ
niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Hiện nay nước mặt, nước thải của thành phố đều đang bị ô nhiễm ở mức
độ khác nhau. Hà Nội được mệnh danh là thành phố của các sông hồ, có nhiều
dòng sông chẩy qua. Trên địa bàn Hà Nội có tổng số 156 hồ. các hồ nội thành có
độ sâu trung bình 2-3m, có khả năng tự làm sạch khá lớn. Tuy nhiên có một số
hồ bị ô nhiễm nặng vì phải trực tiếp nhận nước thải xả vào.Môi trường nước
sông cũng đang chịu tác động mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế xã hội . Nước
thải ô nhiễm của các hoạt động đó hầu như chưa được xử lý và đổ thẳng ra sông,
hồ đã làm chất lượng môi trường nuớc sông biến đổi theo chiều hướng tiêu cực
và xu thế bị ô nhiễm mỗi ngày một tăng cao. Bởi tính cấp thiết của các vấn đề
trên mà tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá các nguồn nước thải và
nguồn tiếp nhận nước thải trên địa bàn thành phố Hà Nội” nhằm chỉ rõ được
hiện trạng và nguyên nhân ô nhiễm môi trường nước trên địa bàn thành phố.
1
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Đánh giá các nguồn nước thải và nguồn tiếp nhận trên địa bàn thành phố
Hà Nội
1.2.2. Yêu cầu

- Các nội dung nghiên cứu đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Các số liệu, kết quả nghiên cứu trung thực, chính xác và khoa học.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Nước và vai trò tài nguyên nước.
Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên
trái đất. Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít nước cho
hoạt động công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm
99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ
thể con người. Để sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn
nước và 1 tấn chất bột cần 1.000 tấn nước.Ngoài chức năng tham gia vào chu
trình sống trên, nước còn là chất mang năng lượng (hải triều, thuỷ năng), chất
mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu, thực hiện các chu trình tuần hoàn
vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con người và mọi sinh vật trên
trái đất phụ thuộc vào nước.
Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km
3
, tập
trung trong thuỷ quyển 97,2% (1,35 tỷ km
3
), còn lại trong khí quyển và thạch
quyển. 94% lượng nước là nước mặn, 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở
hai cực, 0,6% là nước ngầm, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí
quyển khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007%
tổng lượng nước trên trái đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ
nước mưa (lượng mưa trên trái đất 105.000km
3
/năm. Lượng nước con người sử
dụng trong một năm khoảng 35.000 km

3
, trong đó 8% cho sinh hoạt, 23% cho
công nghiệp và 63% cho hoạt động nông nghiệp)[23]
a.Vai trò của nước với sức khỏe con người
Nước rất cần thiết cho hoạt động sống của con người cũng như các sinh
vật. Nước cần thiết cho sự tăng trưởng và duy trì cơ thể bởi nó liên quan đến
nhiều quá trình sinh hoạt quan trọng. Muốn tiêu hóa, hấp thu sử dụng tốt lương
thực, thực phẩm đều cần có nước.Nếu thiếu nước sẽ làm giảm sút tinh thần,
3
khả năng tập trung kém và đôi khi mất trí nhớ, sự chuyển hóa prôtêin và
enzymer để đưa chất dinh dưỡng đến các bộ phận khác của cơ thể sẽ gặp khó
khăn. Ngoài ra, nước còn có nhiệm vụ thanh lọc và giải phóng những độc tố
xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa và hô hấp một cách hiệu quả. Uống đủ
nước làm cho hệ thống bài tiết được hoạt động thường xuyên, bài thải những
độc tố trong cơ thể, có thể ngăn ngừa sự tồn đọng lâu dài của những độc tố gây
bệnh ung thư: uống nước nhiều hằng ngày giúp làm loãng và gia tăng lượng
nước tiểu bài tiết cũng như góp phần thúc đẩy sự lưu thông toàn cơ thể, từ đó
ngăn ngừa hình thành của các loại sỏi: đường tiết niệu, bàng quang, niệu quản
b.Vai trò của nước đối với con người trong nền kinh tế quốc dân
Cũng như không khí và ánh sáng, nước không thể thiếu được trong đời
sống con người. Trong quá trình hình thành sự sống trên Trái đất thì nước và
môi trường nước đóng vai trò quan trọng. Nước tham gia vào vai trò tái sinh thế
giới hữu cơ ( tham gia quá trình quang hợp). Trong quá trình trao đổi chất nước
đóng vai trò trung tâm. Những phản ứng lý hóa học diễn ra với sự tham gia bắt
buộc của nước. Nước là dung môi của nhiều chất và đóng vai trò dẫn đường cho
các muối đi vào cơ thể. Trong khu dân cư, nước phục vụ cho mục đích sinh
hoạt, nâng cao đời sống tinh thần cho dân . Nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong sản xuất công nghiệp. Đối với cây trồng nước là nhu cầu thiết yếu, đồng
thời còn có vai trò điều tiết các chế độ nhiệt, ánh sáng, chất dinh dưỡng, vi sinh
vật, độ thoáng khí trong đất…

Nước có vai trò cực kỳ quan trọng, do đó bảo vệ nguồn nước là rất cần
thiết cho cuộc sống con người hôm nay và mai sau.
2.2 Ô nhiễm môi trường nước
Hiến chương châu Âu về nước, định nghĩa: “Ô nhiễm nước là sự biến đổi
nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây
nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi,
4
giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã”. Hay Ô nhiễm nước là sự thay
đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự
xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con
người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người
dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt
động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan
quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước
chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm
gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con
người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và
bảo vệ môi trường nước còn thiếu .Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ
quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định
trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo
vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định
hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây
nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước
2.2.1 Ô nhiễm do hoạt động tự nhiên
Là sự ô nhiễm do mưa, tuyết tan, gió, bão, lũ lụt. Ô nhiễm này còn được
gọi là ô nhiễm không xác định nguồn gốc.
Nguyên nhân nguồn nước nhiễm bẩn là do thảm thực vật phục hồi sau khi

rừng tự nhiên bị chặt phá chưa đủ để giảm thiểu tác động của dòng chảy do nước
mưa, dẫn đến đất bị xói mòn, rửa trôi làm tăng độ đục của sông chảy qua địa bàn
dân cư ảnh hưởng đến công trình nước tự chảy cung cấp cho người dân.
5
2.2.2 Ô nhiễm do hoạt động nhân tạo
Là sự thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng. Chủ yếu do xả nước
thải từ các vùng dân cư, khu công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, thuốc
trừ sâu, diệt cỏ, phân bón trong nông nghiệp
a) Ô nhiễm nước do hoạt động của các khu công nghiệp
Nguyên nhân gây ô nhiễm là do các nhà máy thải các chất cặn bã ra sông
làm ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và các vùng cửa sông, bờ biển. Nhiều chất
thải công nghiệp có chứa các chất có màu, hầu hết là màu hữu cơ, làm giảm giá
trị sử dụng của nước về mặt y tế cũng như thẩm mỹ. Ngoài ra các chất thải công
nghiệp còn chứa nhiều hợp chất hoá học như muối sắt, mangan, clo tự do, hydro
sulfur, phenol làm cho nước có vị không bình thường. Các chất amoniac,
sulfur, cyanua, dầu làm nước có mùi lạ. Thanh tảo làm nước có mùi bùn, một số
sinh vật đơn bào làm nước có mùi tanh của cá.
VD: - Nhà máy chế biến thực phẩm, sản xuất đồ hộp, thuộc da, lò
mổ, đều có nước thải chứa protein. Khi được thải ra dòng chảy, protein nhanh
chóng bị phân hủy cho ra acid amin, acid béo, acid thơm, H2S, nhiều chất chứa
S và P, có tính độc và mùi khó chịu. Mùi hôi của phân và nước cống chủ yếu là
do indol và dẫn xuất chứa methyl của nó là skatol.
- Nhà máy giấy thải ra nước có chứa nhiều glucid dễ dậy men, gây mùi
khó chịu.
b) Ô nhiễm nước do nước thải từ các khu dân cư
Ngày nay, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, nhu cầu
xả rác cũng không ngừng tăng, trong khi đó, ý thức vệ sinh công cộng của
bộ phận dân chưa thực sự tốt, cơ sở hạ tầng yếu kém, dịch vụ môi trường chưa
phát triển nên ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư đang là vấn đề đáng báo
động hiện nay.

Theo số liệu thống kê tại Hà Nội, tổng lượng nước thải ngày đêm lên tới
(350 – 45) ngàn m3, trong đó lượng nước thải công nghiệp là (85 – 90) ngàn m3.
6
Tổng khối lượng chất thải sinh hoạt từ (1.800 – 2.000) m3/ngày đêm, trong khi
đó lượng thu gom chỉ được 850 m3/ngày, phần còn lại được xả vào các khu đất
ven các hồ, kênh mương trong nội thành, nói chung các chất thải đều không qua
xử lý nên gây ô nhiễm; chỉ số oxy sinh hoá (BOD); oxy hoà tan; các chất NH4;
NO2; NO3; vượt quá quy định nhiều lần, nước ở các sông nội thành như Tô
Lịch, sông Sét, sông Lừ, sông Kim Ngưu có màu đen và hôi thối.
c) Ô nhiêm nước do các hoạt động nông nghiệp
Sự ô nhiễm nước do nitrat và phosphat từ phân bón hóa học cũng đáng lo
ngại. Khi phân bón được sử dụng một cách hợp lý thì làm tăng năng suất cây
trồng và chất lượng của sản phẩm cũng được cải thiện rõ rệt. Nhưng các cây
trồng chỉ sử dụng được khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng dư thừa sẽ vào
các dòng nước mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây hiện tượng phì nhiêu hoá sông hồ,
gây yếm khí ở các lớp nước ở dưới.
Sử dụng nông dược để trừ dịch hại, nhất là phun thuốc bằng máy bay
làm ô nhiễm những vùng rộng lớn. Các chất này thường tồn tại lâu dài trongmôi
trường, gây hại cho nhiều sinh vật có ích, đến sức khỏe con người. Một số dịch
hại có hiện tượng quen thuốc, phải dùng nhiều hơn và đa dạng hơn các thuốc trừ
sâu.
Ngoài ra các hợp chất hữu cơ khác cũng có nhiều tính độc hại. Nhiều chất
thải độc hại có chứa các hợp chất hữu cơ như phenol, thải vào nước làm chết vi
khuẩn, cá và các động vật khác, làm giảm O2 tăng hoạt động vi khuẩn yếm khí,
tạo ra sản phẩm độc và có mùi khó chịu như CH4, NH3, H2S
d) Ô nhiễm do khai thác khoáng sản
Trong những năm gần đây, hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản
phát triển một cách ồ ạt, gây những tác động tiêu cực tới môi trường, đặc biệt
gây ô nhiễm và suy thoái nguồn nước sản xuất nông nghiệp.
Trong hoạt động khoáng sản, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho

hầu hết công đoạn sản xuất. Quá trình sản xuất, tháo khô mỏ, đổ thải, v.v , đã
7
gây những tác động tiêu cực tới nguồn nước sản xuất nông nghiệp ở khu vực
xung quanh khai trường. Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến
hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các quá trình hoà tan, rửa lũa các thành
phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào
nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia
vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên,
là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hoá học
của nguồn nước xung quanh các khu mỏ.
e) Ô nhiễm nước do các hoạt động giao thông vận tải
Hiện tượng khai thác mỏ dầu, vận chuyển ở biển và các chất thải bị nhiễm
xăng dầu là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước, ước tính
khoảng 1 tỷ tấn dầu được chở bằng giao thông đường biển mỗi năm. Một phần
của khối lượng này, khoảng 0,1 - 0,3% được ném ra biển một cách tương đối
hợp pháp: đó là sự rửa các tàu dầu bằng nước biển. Các tai nạn đắm tàu chở dầu
là tương đối thường xuyên. Ðã có 129 tai nạn tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô
nhiễm biển bởi 340.000 tấn dầu (Ramade, 1989). Ước tính có khoảng 3.6 triệu
tấn dầu thô thải ra biển hàng năm (Baker,1983). Một tấn dầu loang rộng 12 km2
trên mặt biển, do đó biển luôn luôn có một lớp mỏng dầu trên mặt
(Furon,1962).Sự thải dầu nhớt xe tàu, hoặc là do vô ý làm rơi vãi xăng dầu. Tốc
độ thấm của xăng dầu lớn gấp 7 lần của nước, sẽ làm các lớp nước ngầm bị
nhiễm. Khoảng 1,6 triệu tấn hydrocarbon do các con sông của các quốc gia kỹ
nghệ hóa thải ra vùng bờ biển
Qua đó, chúng ta thấy được ý thức của con người vẫn là nguyên nhân
chính dẫn đến sự ô nhiễm môi trường nước. Tài nguyên không phải là vô tận,
với sự khai thác một cánh bừa bãi, tràn lan, chạy theo lợi ích kinh tế thị trường
không có những biện pháp xử lý thích hợp như hiên nay thì việc nguồn nước bị
ô nhiễm ngày một trầm trọng là điều tất yếu xảy ra. . Nếu con người không nhận
8

thức được tầm quan trọng của nguồn nước đối với cuộc sống thì trong một
tương lai không xa nguồn tài nguyên này sẽ cạn kiệt
2.3 Phân loại ô nhiễm nước
Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô
nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô
nhiễm bởi các tác nhân vật lý.
a. . Ô nhiễm nước sinh học: do các nguồn thải đô thị hay kỹ nghệ có các
chất thải sinh hoạt, phân, nước rữa của các nhà máy đường, giấy
Sự ô nhiễm sinh học thể hiện bằng sự nhiễm bẩn do vi khuẩn rất nặng, đặt
thành vấn đề lớn cho vệ sinh công cộng chủ yếu các nước đang phát triển. Các
bệnh cầu trùng, viêm gan do siêu vi khuẩn tăng lên liên tục ở nhiều quốc gia
chưa kể đến các trận dịch tả. Các sự nhiễm bệnh được tăng cường do ô nhiễm
sinh học nguồn nước.
Các nhà máy chế biến thực phẩm, sản xuất đồ hộp, thuộc da, lò mổ, đều
có nước thải chứa protein. Khi được thải ra dòng chảy, protein nhanh chóng bị
phân hủy cho ra acid amin, acid béo, acid thơm, H2S, nhiều chất chứa S và P, có
tính độc và mùi khó chịu
b.Ô nhiễm hóa học do chất vô cơ
Do thải vào nước các chất nitrat, phosphat dùng trong nông nghiệp và các
chất thải do luyện kim và các công nghệ khác như Zn, Cr, Ni, Cd, Mn, Cu, Hg là
những chất độc cho thủy sinh vật. Sự ô nhiễm do các chất khoáng là do sự thải
vào nước các chất như nitrat, phosphat và các chất khác dùng trong nông nghiệp
và các chất thải từ các ngành công nghiệp. Nhiễm độc chì (Saturnisne) : Ðó là
chì được sử dụng làm chất phụ gia trong xăng và các chất kim loại khác như
đồng, kẽm, chrom, nickel, cadnium rất độc đối với sinh vật thủy sinh. Thủy ngân
dưới dạng hợp chất rất độc đối với sinh vật và người. Tai nạn ở vịnh Minamata
ở Nhật Bản là một thí dụ đáng buồn, đã gây tử vong cho hàng trăm người và gây
9
nhiễm độc nặng hàng ngàn người khác. Nguyên nhân ở đây là người dân ăn cá
và các động vật biển khác đã bị nhiễm thuỷ ngân do nhà máy ở đó thải ra.

Sự ô nhiễm nước do nitrat và phosphat từ phân bón hóa học cũng đáng lo
ngại. Khi phân bón được sử dụng một cách hợp lý thì làm tăng năng suất cây
trồng và chất lượng của sản phẩm cũng được cải thiện rõ rệt. Nhưng các cây
trồng chỉ sử dụng được khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng dư thừa sẽ vào
các dòng nước mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây hiện tượng phì nhiêu hoá sông hồ,
gây yếm khí ở các lớp nước ở dưới.
c.Ô nhiễm do chất hữu cơ tổng hợp
Ô nhiễm này chủ yếu do hydrocarbon, nông dược, chất tẩy rửa
•Hydrocarbons (CxHy)
Sự ô nhiễm bởi các hydrocarbon là do các hiện tượng khai thác mỏ dầu,
vận chuyển ở biển và các chất thải bị nhiễm xăng dầu. Ước tính khoảng 1 tỷ tấn
dầu được chở bằng đường biển mỗi năm. Một phần của khối lượng này, khoảng
0,1 - 0,3% được ném ra biển một cách tương đối hợp pháp: đó là sự rửa các tàu
dầu bằng nước biển. Các tai nạn đắm tàu chở dầu là tương đối thường xuyên. Ðã
có 129 tai nạn tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô nhiễm biển bởi 340.000 tấn dầu
(Ramade, 1989). Các vực nước ở đất liền cũng bị nhiễm bẩn bởi hydrocarbon.
Sự thải của các nhà máy lọc dầu, hay sự thải dầu nhớt xe tàu, hoặc là do vô ý
làm rơi vãi xăng dầu. Tốc độ thấm của xăng dầu lớn gấp 7 lần của nước, sẽ làm
các lớp nước ngầm bị nhiễm.
•Nông dược (Pesticides)
Các nông dược hiện đại đa số là các chất hữu cơ tổng hợp,bao gồm:
thuốc sát trùng (insecticides), thuốc diệt nấm (fongicides), thuốc diệt cỏ
(herbicides), thuốc diệt chuột (diệt gậm nhấm = rodenticides), thuốc diệt tuyến
trùng (nematocides). Chúng tạo thành một nguồn ô nhiễm quan trọng cho các
vực nước. Nguyên nhân gây ô nhiễm là do các nhà máy thải các chất cặn bã ra
10
sông hoặc sử dụng các nông dược trong nông nghiệp, làm ô nhiễm nước mặt,
nước ngầm và các vùng cửa sông, bờ biển.
Sử dụng nông dược mang lại nhiều hiệu quả trong nông nghiệp, nhưng
hậu quả cho môi trường và sinh vật cũng rất đáng kể.

• Chất tẩy rữa: bột giặt tổng hợp và xà bông
Bột giặt tổng hợp phổ biến từ năm 1950. Chúng là các chất hữu cơ có cực
(polar) và không có cực (non-polar). Có 3 loại bột giặt: anionic, cationic và non-
ionic. Bột giặt anionic được sử dụng nhiều nhất, nó có chứa TBS (tetrazopylène
benzen sulfonate), không bị phân hủy sinh học.
Xà bông là tên gọi chung của muối kim loại với acid béo. Ngoài các xà
bông Natri và Kali tan được trong nước, thường dùng trong sinh hoạt, còn các
xà bông không tan thì chứa calci, sắt, nhôm sử dụng trong kỹ thuật (các chất
bôi trơn, sơn, verni).
d. Ô nhiễm vật lý
Các chất rắn không tan khi được thải vào nước làm tăng lượng chất lơ
lững, tức làm tăng độ đục của nước. Các chất này có thể là gốc vô cơ hay hữu
cơ, có thể được vi khuẩn ăn. Sự phát triển của vi khuẩn và các vi sinh vật khác
lại càng làm tăng độ đục của nước và làm giảm độ xuyên thấu của ánh sáng.
Nhiều chất thải công nghiệp có chứa các chất có màu, hầu hết là màu hữu
cơ, làm giảm giá trị sử dụng của nước về mặt y tế cũng như thẩm mỹ.
Ngoài ra các chất thải công nghiệp còn chứa nhiều hợp chất hoá học như
muối sắt, mangan, clor tự do, hydro sulfur, phènol làm cho nước có vị không
bình thường. Các chất amoniac, sulfur, cyanur, dầu làm nước có mùi lạ. Thanh
tảo làm nước có mùi bùn, một số sinh vật đơn bào làm nước có mùi tanh của cá.
2.4 Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới và Việt Nam
2.4.1 Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới
Theo Korzun và các cộng sự (1978), lượng nước toàn cầu là khoảng 1386
triệu km
3
, trong đó nước biển và đại dương chiếm tới 96,5%. Chỉ còn lại khoảng
11
3,5% lượng nước trong đất liền và trong khí quyển. Lượng nước ngọt mà con
người có thể sử dụng được khoảng 35 triệu km
3

, chiếm 2,53% lượng nước toàn
cầu. Tuy nhiên trong tổng số lượng nước ngọt đó, băng và tuyết chiếm tới 24
triệu km
3
và nước ngầm nằm ở độ sâu tới 600m so với mực nước biển chiếm
10,53 triệu km
3
. Lượng nước ngọt trong các hồ chứa là 91.000 km
3
và trong các
sông suối là 2120 km
3
.
Lượng mưa trung bình hàng năm trên bề mặt trái đất khoảng 800 mm
Tuy nhiên sự phân bố mưa là không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới, tạo
nên những vùng mưa nhiều, dư thừa nước và những vùng mưa ít, thiếu nước
Theo Shiklomanov (1990), lưu lượng nước trên các dòng sông, thông qua chu
trình nước toàn cầu, thể hiện sự biến động nhiều hơn lượng nước chứa trong các
hồ, lượng nước ngầm và các khối băng.
Bảng 1: Lượng nước chảy trên sông của thế giới[7]
Khu vực
Dòng chảy hàng năm
(km
3
)
% so với toàn
cầu
Diện tích (1000
km
2

)
Châu Âu 321 7 10.500
Châu Á 14.410 31 43.475
Châu Phi 4.570 10 30.120
Bắc và Trung Mỹ 8.200 17 24.200
Nam Mỹ 11.765 25 17.800
Úc 348 1 7.683
Châu Đại Dương 2.040 4 1.267
Châu Nam Cực 2.230 5 13.977
Tổng số 46.768 100 149.022
So với nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm có trữ lượng lớn hơn rất nhiều
so với nước của các con sông và hồ chứa. Đây là nguồn nước ngọt rất dồi dào
của nhân loại. Nếu chúng ta biết bảo vệ và khai thác hợp lý thu nước ngầm sẽ
cho chúng ta nguồn nước ngọt rất bền vững.
12
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) vừa công bố một báo
cáo nhân Ngày Nước Thế giới (22/3). Bản báo cáo – mang tên “Sick Water –
khẳng định mỗi ngày thế giới tạo ra khoảng hai tỷ tấn nước thải. Lượng nước
thải đó giúp dịch bệnh lây lan và hủy hoại các hệ sinh thái.Báo cáo cho hay các
bệnh liên quan tới nước bẩn gây nên 3,7% tổng số trường hợp tử vong trên thế
giới, tương đương với hàng triệu tính mạng. Hơn một nửa bệnh nhân trong các
bệnh viện mắc bệnh liên quan tới nước bẩn.
“Nếu chúng ta không có khả năng quản lý chất thải, sẽ có thêm nhiều
người nữa chết vì các bệnh do tình trạng ô nhiễm nước gây nên”, Achim Steiner,
giám đốc UNEP, cảnh báo.Theo báo cáo của UNEP, người ta cần tới ba lít nước
để sản xuất một lít nước đóng chai và lượng nước đóng chai tại Mỹ đã tiêu tốn
khoảng 17 triệu thùng dầu mỗi năm. Nỗ lực nâng cao khả năng quản lý nước
thải tại châu Âu đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực về môi trường tại châu lục này,
UNEP nhận định. Tuy nhiên, các “vùng nước chết” trên những đại dương vẫn
tiếp tục bành trướng khắp thế giới. “Vùng nước chết” là những nơi mà oxy hầu

như không tồn tại bởi tình trạng ô nhiễm.
Từ các đại dương lớn trên thế giới, nơi chứa đựng hầu hết lượng nước trên
trái đất, nước luôn được lưu thông thường xuyên và sự ô nhiễm nếu xảy ra cũng
rất chỉ mang tính chất nhỏ bé nhưng nay cũng đang hứng chịu sự ô nhiễm nặng
nề, tùy từng đại dương mà mức độ ô nhiễm lại khác nhau. Nhiều vùng biển trên
thế giới đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa đến sự sống của các loài động vật
biển mà chủ yếu là nguồn ô nhiễm từ đất liền và giao thông vận tải biển gây nên.
13
Hình2.1:Bờ biển Barrow, Alaska trở thành một nơi chứa rác
Anh Quốc chẳng hạn: Ðầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Đến giữa thế
kỷ 20 nó trở thành ống cống lộ thiên. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự
trước khi người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt
Ở Hoa Kỳ tình trạng thảm thương do ô nhiễm nước cũng xảy ra ở bờ phía
đông, cũng như nhiều vùng khác. Vùng Ðại Hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ
Erie, Ontario ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng. Hàng năm ngành nông nghiệp đã
sử dụng khoảng 400 nghìn kg thủy ngân trong các loại thuốc bảo vệ thực vật.
Ở ngay tại Trung Quốc, hàng năm lượng chất thải và nước thải công
nghiệp thải ra ở các thành phố và thị trấn của Trung Quốc tăng từ 23,9 tỷ m
3
trong năm 1980 lên 73,1 tỷ m
3
trong năm 2006. Một lượng lớn nước thải chưa
qua xử lí vẫn được thải vào các sông. Hậu quả là, hầu hết nước ở các sông, hồ
ngày càng trở nên ô nhiễm. Dựa trên việc đánh giá 140.000 km sông dọc đất
nước Trung Quốc trong năm 2006, chất lượng nước của 41,7% chiều dài sông
xếp ở loại 4 hoặc thậm chí thấp hơn và 21,8% dưới loại 5.
Năm 2000, vụ tai nạn hầm mỏ xảy ra tai công ty Aurul ( Rumani) đã thải
ra 50-100 tấn xianu và kim loại nặng (như đồng) vào dòng sông gần Baia Mare (
14
thuộc vùng Đông- Bắc). Sự nhiễm độc này đã khiến các loài thuỷ sản ở đây chết

hàng loạt, tổn hại đến hệ thực vật và làm bẩn nguồn nước sạch, ảnh hưởng đến
cuộc sống của 2,5 triệu người.
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều bị ô nhiễm nước ở các
mức độ khác nhau, đường thủy và sông ngòi nói chung ở châu Âu đều nhiễm
độc, nhất là từ các hợp chất hữu cơ chứa clo. Nguyên nhân là dọc hai bên bờ
sông có nhiều nhà máy, xí nghiệp hóa chất, như ở sông Ranh chẳng hạn. Ở Hà
Lan người ta đã phát hiện ra loại nông dược độc hại và những chất vi ô nhiễm
(Micropolluant) trong nước uống bắt nguồn từ sông Ranh. [21]
Ô nhiễm nước uống do nitrat (NO
3
-
) từ nông nghiệp là một vấn đề nghiêm
trọng. Nông nghiệp hiên đại ngày nay sử dụng quá nhiều phân hóa học (nhất là
phân đạm). Khoảng chừng 20 năm qua, lượng NO
3
-
đã khuyếch tán trong đất và
gây ô nhiễm nước, ngày càng nhiều nguồn nước có lượng NO
3
-
quá mức quy
định. Song điều nguy hiểm hơn nữa là ở vùng nông thôn thường có dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật quá cao.
Tại các nguồn nước ở các khu công nghiệp thì nồng độ các chất có hại
vượt quá liều lượng cho phép bao gồm các chất hữu cơ, vô cơ khó bị phân giải
trong tự nhiên. Chúng có thể nổi trên mặt nước, lơ lửng hoặc lắng sâu dưới đáy
và tan trong nước. Ví dụ chỉ một giọt dầu cũng tạo diện tích váng 0,25 m
2
trên
mặt nước, tương tự một tấn dầu sẽ tạo váng 500 ha, dù lớp màng váng rất mỏng

song vẫn gây hại với sinh vật thủy sinh.
Ở các đô thị của các nước đang phát triển thì 95% cống rãnh không được
xử lý nước thải và đã xả ra các cánh đồng lân cận.Thụy Sỹ là nước du lịch và vô
cùng sạch sẽ. Song các con sông suối ngoài biên giới Thụy Sỹ thì lại là nguồn
nước bị ô nhiễm hoàn toàn.Sông “Danuyp xanh” không còn là một hình ảnh thơ
mộng, hiện nay với chiều dài 100 km từ Cremxo đến biên giới Slovakia, thực
chất đã trở thành vùng nước chết về phương diện sinh học.Theo thống kê của
Viện Nước quốc tế (SIWI) được công bố tại Tuần lễ Nước thế giới (World Water
15
Week) khai mạc tại Stockholm, thủ đô Thụy Điển ngày 5/9/2011 thì trung bình
mỗi ngày trên trái đất có khoảng 2 triệu tấn chất thải sinh hoạt đổ ra sông hồ và
biển cả, 70% lượng chất thải công nghiệp không qua xử lý bị trực tiếp đổ vào
các nguồn nước tại các quốc gia đang phát triển.
Thực tế trên khiến nguồn nước dùng trong sinh hoạt của con người bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Một nửa số bệnh nhân nằm viện ở các nước đang phát triển
là do không được tiếp cận những điều kiện vệ sinh phù hợp (vì thiếu nước) và
các bệnh liên quan đến nước. Thiếu vệ sinh và thiếu nước sạch là nguyên nhân
gây tử vong cho hơn 1,6 triệu trẻ em mỗi năm. Tổ chức Lương Nông LHQ
(FAO) cảnh báo trong 15 năm tới sẽ có gần 2 tỷ người phải sống tại các khu vực
khan hiếm nguồn nước và 2/3 cư dân trên hành tinh có thể bị thiếu nước.
2.4.2 Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam
Nước ta hiện có nền công nghiệp chưa thực sự phát triển, mặc dù chịu ảnh
hưởng bởi xu thế đô thị hóa mạnh mẽ nhưng các khu công nghiệp và các đô thị
vẫn chưa nhiều, tuy vậy tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở rất nhiều nơi, trên
biển, ở các sông suối, trong cả tầng nước ngầm và với các mức độ nghiêm trọng
khác nhau [5]
Trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, con người vô tình làm ô nhiễm
nguồn nước bằng các hóa chất, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp. Các đơn vị
cá nhân sử dụng nước ngầm dưới hình thức khoan giếng, sau khi ngưng không
sử dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn chảy lẫn vào làm ô

nhiễm nguồn nước ngầm. Các nhà máy xí nghiệp xả khói bụi công nghiệp vào
không khí làm ô nhiễm không khí, khi trời mưa, các chất ô nhiễm này sẽ lẫn vào
trong nước mưa cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước.Mặc dù các cấp, các
ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo
vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước vẫn đang là vấn đề đáng lo ngại
ở Việt Nam hiện nay.
16
Đầu tiên là về ô nhiễm biển. Do có đường bờ biển thuộc loại dài nên khi ô
nhiễm biển xảy ra thì sẽ cực kỳ phức tạp. Do sự gia tăng của các hoạt động kinh
tế nói chung nên hầu hết vùng thềm lục địa đã bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm còn bắt
đầu lan ra cả ngoài khơi. Điển hình như ở cảng Hải Phòng, bình quân hằng năm
có tới hơn 1.500 lượt tàu vận tải biển cập cảng Hải Phòng. Lượng dầu cặn qua
sử dụng trong hành trình vận tải của mỗi tàu khi đến cảng từ 5 m
3
đến 10 m
3
.
[24] Như vậy, hàng nghìn m
3
dầu cặn qua sử dụng cùng với rác thải sinh hoạt
của người dân vạn chài và khách du lịch đã xả tự nhiên theo nhiều cách xuống
biển.
Tình hình ô nhiễm nước ngọt còn trầm trọng hơn rất nhiều. Công nghiệp
là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nước ngọt, trong đó mỗi ngành có một loại
nước thải khác nhau. KCN Việt Trì xả mỗi ngày hàng trăm ngàn mét khối nước
thải của nhà máy hóa chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt khoảng 168.000 m
3
/ngày
đêm xuống hạ lưu cùng một lượng nước thải công nghiệp và sinh hoạt không
nhỏ từ thượng nguồn Trung Quốc đã làm chất lượng nước sông Hồng ngày càng

xấu đi theo cả không gian và thời gian. Ở Hà Nội các sông như Tô Lịch, sông
Sét, sông Lừ có màu đen và hôi thối. Đặc biệt, KCN Biên Hòa- Đồng Nai và TP
HCM tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm nhiễm bẩn tất
cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận. Gần đây, với sự kiện Nhà máy
VEDAN và sự ô nhiễm sông Thị Vải, nhà nước mới thực sự vào cuộc.
17
Hình 2.2: Sông Tô Lịch, một trong những dòng sông "đen" giữa Hà Nội.
Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất trong cơ cấu kinh tế của
đất nước. Nước được sử dụng để tưới cho lúa và hoa màu, tập trung ở đồng bằng
sông Hồng và sông Cửu Long. Việc sử dụng nông dược và phân bón hóa học
không đúng cách càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nông thôn.
Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do dân số và
các đô thị. Nước cống từ nước thải từ sinh hoạt cộng với nước thải của các cơ sở
tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở
nước ta.Ðiều đáng nói là các loại nước thải đều được trực tiếp thải ra môi
trường, chưa qua xử lý gì cả, vì nước ta chưa có hệ thống xử lý nước thải nào
đúng nghĩa như tên gọi của nó.
Nước ngầm cũng bị ô nhiễm cùng với sự ô nhiễm nước sông hồ. Việc
khai thác tràn lan nước ngầm làm cho hiện tượng nhiễm mặn và nhiễm phèn xảy
ra ở những vùng ven biển sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long, ven biển
miền Trung [5] Nguyên nhân ô nhiễm nước ngầm theo các chuyên gia quốc tế
trong nghiên cứu mới đây tại miền Bắc chủ yếu là do thói quen sử dụng giếng
lâu nay của người dân đã khiến chất asen ngấm sâu xuống đất. Trong bài viết
18
đăng trên tạp chí ‘Proceedings of the National Academy of Sciences’ tháng
1/2011 [14], các nhà khoa học cho hay 44% giếng nước tại vùng Châu thổ sông
Hồng có chứa hàm lượng kim loại Mangan vượt quá mức quy định của Tổ chức
Y tế thế giới WHO. Trong một số mẫu xét nghiệm, 65% giếng nước trong vùng
Châu thổ miền Bắc Việt Nam có chứa một số chất độc hại với hàm lượng vượt
mức tiêu chuẩn an toàn của tổ chức WHO. ¼ số giếng nước trong vùng có chứa

hàm lượng chất độc hại cao gấp 5 lần so với tiêu chuẩn an toàn của WHO. Ông
Michael Berg, người đứng đầu nhóm nghiên cứu đồng thời là nhà khoa học cao
cấp tại Viện Khoa học và Kỹ thuật Thủy sinh (SFIAST) Thụy Sĩ, cho hay điều
rất đáng quan ngại là nguồn nước ngầm bị nhiễm độc lại chính là nguồn cung
cấp nước sinh hoạt chính cho người dân Việt Nam sống trong khu vực. Vùng
Châu thổ sông Hồng bao gồm thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và tám
tỉnh ở miền Bắc. Trong số 16,6 triệu cư dân cư ngụ trong vùng, có tới 11 triệu
người không tiếp cận được với nguồn cung cấp nước công cộng mà phải phụ
thuộc vào những nguồn nước khác từ giếng đào hay nước sông, suối. Từ lâu các
chuyên gia đã biết rằng nước ngầm tại nhiều khu vực trong vùng Đông Nam Á
chứa nhiều hợp chất asen màu trắng cực độc, tuy nhiên người ta không biết rõ
khu vực nào. Trên thế giới, Việt Nam không phải là nơi duy nhất có nguồn nước
ngầm bị nhiễm chất asen. Nhiều nước khác cũng bị nhiễm chất này như
Argentina, Úc, Bangladesh, Chi Lê, Trung Quốc, Hungary, Ấn Độ, Mexico,
Peru, Thái Lan và Hoa Kỳ.
a) Ở khu vực thành thị
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số
gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi
trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm
bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản
xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và
thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví
19
dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước
thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD),
nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng
chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến
84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên
đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.

Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung là rất lớn.
- Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn
nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt.
- Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở
sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng
lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng
sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH
4

4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
- Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt
nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua
xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. [24]
- Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Môi trường&Cộng
đồng (CECR)[14] năm 2010 Hà Nội có 120 hồ, ao, đầm, thủy vực lớn nhỏ
trong sáu quận nội thành Hà Nội. Tuy nhiên phần lớn các hồ bị ô nhiễm chất
hữu cơ. 71% hồ có yếu tố sinh hóa vượt quá tiêu chuẩn cho phép, trong đó 14%
hồ ô nhiễm chất hữu cơ nặng, 25% hồ ô nhiễm nặng và 32% có dấu hiệu ô
nhiễm.
Nói ngay Hồ Tây - có diện tích 500, là hồ lớn nhất Đồng bằng Bắc Bộ -
được xếp vào danh sách các hồ được bão tồn trên thế giới cũng bị ô nhiễm nước
như nhiều hồ khác ở Hà Nội, chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ - theo GS.TS Mai Đình
Yên, Phó Chủ tịch Hội Sinh thái Học Việt Nam.
20

×