Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Các biện pháp xử lý vấn đề sức khỏe môi trường sau thảm họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.77 KB, 4 trang )

Các biện pháp xử lý vấn đề sức khỏe môi trường sau thảm họa
ThS. Trần Quỳnh Anh, PGS.TS. Ngô Văn Toàn
Bộ môn Sức khỏe Môi trường - ĐHYHN
MỤC TIÊU
1. Trình bày được các vấn đề SKMT sau thảm họa
2. Trình bày được những biện pháp xử lý nước ăn uống, vệ sinh môi
trường sau thảm họa.
3. Trình bày được các nguyên tắc và các biện pháp kiểm soát các vectơ
truyền bệnh sau thảm họa.
NỘI DUNG
1. Các vấn đề SKMT sau thảm họa: sử dụng ma trận Haddon.
2. Các biện pháp xử lý nước ăn uống, vệ sinh môi trường sau thảm họa.
Giai đoạn sau khi thảm họa xẩy ra là các hoạt động khắc phục hậu quả và
tái thiết các dịch vụ cấp nước và vệ sinh môi trường. Các hoạt động này là rất quan
trọng giúp cộng đồng từng bước trở lại cuộc sống bình thường, sẵn sàng ứng phó
với các thảm họa khác trong tương lai và giảm tính dễ bị tổn thương. Thông
thường, sau khi thảm họa xẩy ra (ví dụ sau bão, lũ, lụt, động đất, sóng thần v.v.)
các nguồn nước và môi trường bị ô nhiễm và ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng
của người dân. Do đó, ngay sau khi thảm họa xẩy ra, các ban ngành liên quan cần
chỉ đạo thực hiện công tác xử lý nước và vệ sinh môi trường để tránh nguy cơ ảnh
hưởng sức khỏe cho cộng đồng.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, y tế, tài nguyên
môi trường và người dân trong công tác dọn vệ sinh môi trường và xử lý nguồn
nước ăn uống. Các công ty cấp nước cần nhanh chóng khôi phục hệ thống, trở lại
hoạt động để cung cấp nước sạch cho người dân. Công ty môi trường đô thị cũng
cần bố trí công nhân và phương tiện vận chuyển để tăng cường công tác thu gom,
vận chuyển rác thải tới nơi xử lý. Trung tâm Y tế dự phòng và trạm y tế xã cần
hướng dẫn người dân thực hiện các hoạt động cải thiện tình trạng nước sạch và vệ
sinh môi trường sau thảm họa như thau rửa giếng nước, làm trong và khử trùng
giếng nước trước khi sử dụng, làm vệ sinh nhà cửa, đường làng ngõ xóm, tu sửa
hoặc xây mới các nhà vệ sinh bị hư hỏng, xử lý xác súc vật chết v.v. Mục tiêu của


các hoạt động ở giai đoạn sau thảm họa là giúp cộng đồng tiếp cận với các dịch vụ
nước sạch và vệ sinh môi trường với chất lượng tương đương với các dịch vụ mà
họ sử dụng trước khi thảm họa xẩy ra. Ngoài ra, giai đoạn tái thiết sau thảm họa
cũng là cơ hội rất thuận lợi cho công tác đánh giá tính dễ bị tổn thương của hệ
thống cấp nước và vệ sinh môi trường để từ đó đưa ra các giải pháp chuẩn bị sẵn
sàng ứng phó để giảm thiểu tác động lên hệ thống khi xẩy ra các thảm họa khác
trong tương lai.
Vấn đề chôn cất thi thể nạn nhân và xác gia súc gia cầm sau thảm họa
Thảm họa xẩy ra có thể để lại hậu quả nặng nề về tính mạng người dân
cũng như làm một lượng lớn gia súc gia cầm bị chết. Thông thường, nếu không
phải chết vì dịch bệnh mà tử vong do chấn thương trong thảm họa thì thi thể nạn
nhân không phải là yếu tố nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng và nếu số người tử vong
không nhiều thi gia đình nạn nhân có thể tự tổ chức việc chôn cất theo phong tục
của từng địa phương. Tuy nhiên, công tác chôn cất thi thể nạn nhân cần được triển
khai khẩn trương vì nếu thi thể để lâu không được chôn cất có thể gây ảnh hưởng
đến tâm lý của người thân và cộng đồng cũng như bản thân thi thể bị phân hủy sẽ
tạo ra mùi gây ô nhiễm môi trường. Không nên để cộng đồng tiếp xúc với thi thể
nạn nhân trừ người thân, gia đình và các cán bộ liên quan với mục đích nhận dạng
nạn nhân. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế (2004), nếu trong trường hợp bão lụt, lũ
quét có nhiều người bị tử vong (ví dụ do đuối nước, điện giật, chấn thương giao
thông v.v.) thì thi thể nạn nhân cần phải được đem đến chôn cất ở nơi đất cao do
địa phương xác định và cần có đánh dấu để người thân có thể tìm lại mộ khi nước
rút. Nếu tử thi đã bị phân hủy, thối rửa thì phải xử lý bằng hóa chất sát trùng, bao
gói kín và đem đến nơi cao ráo để chôn cất. Ở các thành phố có dịch vụ hỏa táng
thì nên chở tử thi đến nơi hỏa táng càng sớm càng tốt.
3. Các nguyên tắc và các biện pháp kiểm soát các vectơ truyền bệnh sau thảm
họa.
Thông thường, một số thảm họa xẩy ra đã tạo môi trường thuận lợi làm gia
tăng quần thể véc tơ truyền bệnh mà chủ yếu là các loài côn trùng và gặm nhấm.
Ví dụ, lũ lụt đã tạo ra nhiều vũng nước tù đọng để muỗi truyền bệnh đẻ trứng.

Thực tế theo số liệu thứ cấp của một số trung tâm y tế dự phòng quận ở Hà Nội
cho thấy sau trận lụt lịch sử cuối tháng 10, đầu tháng 11 năm 2008 tại một số quận
bị ngập, số ca mắc bệnh sốt xuất huyết tăng lên rõ rệt so với trước thời điểm trước
lụt cũng như so với cùng kỳ các năm trước và tỉ lệ mắc cao hơn những quận không
bị ngập. Trong các thảm họa khi các dịch vụ vệ sinh môi trường bị gián đoạn,
phân và rác thải không được thu gom xử lý sẽ tạo điều kiện lý tưởng cho quần thể
ruồi và chuột phát triển. Khi mật độ cá thể của các quần thể véc tơ tăng lên thì
nguy cơ lây lan các bệnh do véc tơ truyền cũng tăng lên. Ngoài ra, khi xẩy ra thảm
họa, điều kiện sống của người dân thường không được đảm bảo và các biện pháp
dự phòng có thể không được áp dụng ví dụ người dân không ngủ màn, phải tiếp
xúc với nước ô nhiễm hay tại các nơi sơ tán với mật độ dân cư đông đúc, người
dân từ nhiều nơi khác nhau tập trung về, thiếu nước sạch để vệ sinh cá nhân v.v.
tạo điều kiện thuận lợi để làm lây lan các bệnh truyền qua véc tơ như tả, lị, thương
hàn, tiêu chảy, sốt xuất huyết, sốt rét, viêm não Nhật Bản,v.v .
Thời gian đầu trong giai đoạn đáp ứng với thảm họa và trong bước lập kế
hoạch cho các nơi sơ tán tạm thời cần đánh giá các nguy cơ lây lan bệnh truyền
qua véc tơ cũng như phạm vi và giải pháp kiểm soát các nguy cơ này. Vì nguy cơ
của bệnh truyền qua véc tơ được quyết định bởi mật độ véc tơ truyền bệnh, sự tồn
tại của tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng) và tính dễ bị cảm nhiễm
của quần thể, do đó 3 yếu tố này cần phải được đánh giá để làm căn cứ đưa ra các
hoạt động kiểm soát phù hợp. Khi thảm họa xảy ra, các hoạt động sau đây cần
được thực hiện theo thứ tự ưu tiên giảm dần: (1) Điều tra phát hiện ổ dịch, khám
và điều trị cho bệnh nhân; (2) Kiểm soát véc tơ; (3) Vệ sinh môi trường; (4) Bảo
vệ cá nhân (Wisner and Adams 2002).
Để kiểm soát véc tơ thành công cần giảm mật độ cũng như thời gian sống
(tuổi thọ) của véc tơ. Các giải pháp giảm mật độ của véc tơ thường tập trung vào
loại bỏ các nơi sinh sản của chúng ví dụ thông qua quản lý môi trường (thoát
nước, lấp các hố nước tù đọng, thu gom xử lý rác thải v.v.) hoặc sử dụng thuốc
diệt côn trùng (ví dụ thuốc diệt ấu trùng, nhưng cần chú ý sử dụng những loại
không ảnh hưởng tới các loài khác và không gây ô nhiễm nguồn nước hay độc hại

tới sức khỏe con người). Để giảm “tuổi thọ” của véc tơ, người ta thường dùng các
loại thuốc diệt côn trùng trưởng thành.
Mặc dù các giải pháp thông qua quản lý môi trường để giảm mật độ véc tơ
thường được sử dụng và đem lại nhiều lợi ích, nhưng trong các tình huống khẩn
cấp hay thảm họa thì việc sử dụng các biện pháp làm giảm “tuổi thọ” của véc tơ
được ưu tiên hơn, vì cách tiếp cận này hiệu quả hơn về mặt kinh tế và giúp đáp
ứng nhanh với nguy cơ. Bên cạnh hoạt động kiểm soát véc tơ thì các giải pháp vệ
sinh môi trường và bảo vệ cá nhân cũng góp phần quan trọng trong việc kiểm soát
bệnh truyền qua véc tơ khi có thảm họa và tình huống khẩn cấp xảy ra.

×