Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu Luận Hàn Quốc trong giai đoạn phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.6 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Từ những thế kỷ đầu công nguyên, Hàn Quốc bước sang giai đoạn phong
kiến. Tuy vậy, những tiền đề cho sự hình thành và tồn tại của phương thức sản
xuất phong kiến, chế độ phong kiến đã xuất hiện trước thời gian đó ít lâu,
khoảng 1,2 thế kỷ trước công nguyên.
Sự hình thành và phát triển của các quan hệ sản xuất phong kiến ở Hàn
Quốc diễn ra một cách chậm chạp và không đồng đều giữa các miền khác nhau
của đất nước. Sự hình thành của các quan hệ sản xuất phong kiến ở Hàn Quốc đi
liền với những cuộc đấu tranh khốc liệt, dai dẳng nhằm thôn tính nhau giữa các
phe cánh, giữa các thế lực, giữa các vùng. Kết cục, trên đất Hàn Quốc từ nửa sau
của thế kỷ I đã hình thành nên những vương quốc lớn là Koguryo, Paekche và
Shilla. Mỗi vương quốc này có quá trình hình thành và phát triển riêng, tuy vậy,
có những nét chung tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình thống nhất các vương quốc
phân cát này trong một quốc gia thống nhất vào giữa thế kỷ VII.
PHẦN NỘI DUNG
I. VƯƠNG QUỐC GOGURYO
Các quan hệ phong kiến nảy sinh ở vương quốc Koguryo - mọt vương
quốc ở khu vực miền Bắc Hàn Quốc, sớm hơn so với ở một số các vương quốc
khác.
Một số tài liệu gốc của Trung Quốc có chỉ rõ rằng, ở Koguryo vừa là
người đứng đầu nhàn ước, là người có quyền uy rất lớn về chính trị, kinh tế, tư
pháp, tôn giáo. Vua là người sở hữu toàn bộ ruộng đất cả nước. Vua lấy đất đai
trong nước cấp, thưởng công và làm bổng lộc cho các quan lại trong bộ máy nhà
nước. Từ khi được nhận đất của vua, những quan lại này trở thành người sở hữu
những khoảnh đất lớn. Họ khai thác đất đai được cấp bằng cách chia nhỏ thành
từng mảnh, phân cho từng gia đình nông dân, bắt họ canh tác rồi nộp tô cho chủ
đất. Các chủ đất còn bắt nông dân làm các công việc lao dịch, lực dịch như đào
đắp, sửa chữa các công trình công cộng, chủ yếu là các công trình thủy lợi, các
lâu dầi và thành trì, xây dựng các công trình thuỷ lợi, công trình kiến trúc mới
của nhà nước.
Nông dân cũng là đối tượng được nhà nước chia cho ruộng đất. Thân


nhân của những gia đình đại quý tộc cũng được chia đất theo chế độ ban đất nhà
vua.
Tất cả những điều đó, chủ yếu là từ mối quan hệ giữa chủ sở hữu về ruộng
đất với người lĩnh canh ruộng đất để sản xuất nông nghiệp, từng bước tạo cơ sở
cho sự hình thành của quan hệ sản xuất phong kiến ở Koguryo.
Theo truyền thuyết, Koguryo được thành lập từ năm 37 trước công
nguyên ở trung tâm của vùng lòng chảo sông Tung-chia và Yalu. Tuy nhiên, vào
khoảng thế kỷ IV trước công nguyên, tại đây, một quý tộc tên là Yemaek đã đặt
những cơ sở tồn tại đầu tiên cho vương quốc Koguryo. Ở thế kỷ II trước công
nguyên, tầng lớp thống trị ở Koguryo đã nắm được một vùng rộng lớn ở miền
Bắc Hàn Quốc và đã quản lý số lượng cư dân hơn 300.000 người. Vương quốc
Koguryo hình thành và phát triển thế lực trong bối cảnh luôn bị các thế lực và
2
các triều đại phong kiến láng giềng ở Trung Quốc đe doạ. Các cuộc xung đột
giữa phong kiến Trung Quốc và Koguryo luôn luôn diễn ra. Vì vậy, Koguryo rất
cần có lực lượng quân sự mạnh. Lực lượng quân sự của Koguryo nằm dưới
quyền của quý tộc, có vai trò quan trọng để Koguryo phát triển thế lực của mình
rộng ra ở khu vực miền Bắc Hàn Quốc, vừa là lực lượng chủ yếu chống lại xâm
nhập vào lãnh thổ Koguryo, vào bán đảo Hàn Quốc của phong kiến Trung Quốc.
Trải qua các lần xung đột, đội quân vũ trang của Koguryo tham gia vào tất cả
các hoạt động sản xuất, vẫn dành thời gian để luyện tập quân sự. Điều đó làm
cho lực lượng vũ trang của Koguryo có thểt đảm nhiệm được những yêu cầu đặt
ra của chính quyền nhà nước Koguryo.
Đầu thế kỷ I trước công nguyên, Koguryo tìm cách mở rộng đờng biên
giới của nó ra các hướng: vùng lòng chảo sống Liao (Liêu) phía Tây Nam, vùng
sông Taedong ở phía Nam, vùng lòng chảo sông sungari ở phía Tây Bắc và các
cùng đồng bằng dọc theo bờ biển Đông Bắc của bán đảo Hàn Quốc. Những
vùng mà Koguryo khuyếch trương ảnh hưởng đều nằm dưới sự cai trị của Trung
Quốc, hoặc chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, do đó việc nổ ra chiến tranh giữa
Koguryo với Trung Quốc là điều không tránh khỏi. Những trận giao tranh ác liệt

nhất giữa Koguryo và Trung Quốc nổ ra vào những năm của thế kỷ đầu công
nguyên, trong thời kỳ Trung Quốc dưới triều Tân của Vương Mãng.
Đội quân của Vương Mãng chịu thất bại (năm 12) tới năm 53, Koguryo
đã kiểm soát được toàn bộ vùng châu thổ sông Tung-chia, mở các cuộc tấn công
các quận Liao - tung ở phía Tây và quận Lo-lang ở phía Nam.
Dưới thời vua taejo (53 - 146?) thế lực của Koguryo ngày càng được mở
rộng. Ở triều đại vua Kogukch’ ou (179 - 196) Koguryo là một quốc gia mạnh.
Quyền lực của nhà vua, sức mạnh của bộ máy nhà nước được tăng cường. Trước
hết, 5 vùng đất của các bộ lạc còn tồn tại từ thời kỳ đầu được tổ chức lại thành 5
“pu” (tỉnh) với các tên gọi đặt theo các hướng Đông Nam. Tây Bắc và Trung
Tâm - Sau nữa, quyền thừa kế ngai vàng không còn truyền từ anh đến em mà là
từ cha cho con. Đã thành thông lệ, hoàng hậu chỉ chọn từ gia đình đại quý tộc
Myonguin thuộc dòng họ Youna. Tất cả những việc đó và những mối quan hệ
3
đặc biệt được thiết lập giữa hoàng gia và một dòng họ nhằm mục đích là ngăn
cản những trung tâm quyền lực khác có thể phát sinh và chống lại sự tăng cường
quyền lực quân chủ. Những thay đổi này đã tạo cơ sở cho Koguryo mở rộng
lãnh thổ về vùng lòng chảo sông Liao ở phía Tây và vùng sông Taedong ở phía
Nam. Đến khi Packche xuất hiện năm 244. Koguryo đã kiểm soát được khu vực
từ châu thổ sông Tung - Chia về phía Nam tới tân thượng lưu sông Hàn.
Đầu thế kỷ IV, những cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tiền Yên
(Trung Quốc) và cuộc xung đột với packche trong thời kỳ vua Koguwon đã tạm
thời làm chậm bước tiến của Koguryo. Để giải quyết những khó khăn đặt ra, vua
Koguryo là Sosurim (371 - 384) đã tiến hành một cuộc thay đổi quan trọng. Là
người chấp nhận đạo Phật, năm 372, ông lại còn cho lập ra Viện khổng học quốc
gia, đồng thời ngay trong năm sau, ban hành một bộ luật hành chính. Nếu như
đạo Phật tạo ra sự thống nhất về tôn giáo thì việc chấp nhận khổng học lại tạo ra
một tầng lớp quan liêu mới làm chỗ dựa cho cơ cấu bộ máy nhà nước. Kết quả là
Koguryo đã hoàn thành việc tổ chức cơ cấu bộ máy nhà nước trong đó tầng lớp
quý tộc quan liêu là trung tâm.

Công cuộc cải tổ bên trong đó đã đặt nền tảng cho quá trình mở rộng ảnh
hưởng ra bên ngoài. Dưới thời vủa Kwanggaeto (391 - 413), những chiến dịch
quân sự lớn đã được tiến hành, Kwanggaeto được mang tên “Người mở rộng
lãnh thổ vĩ”, và trên một bia đã đặt trên mộ ông ở kinh đô Koguryo có ghi:
Trong thời gian hơn 20 năm trị vì, vu Kwanggaeto đã thu phục 64 khu vực và
1.400 làng.
Vua ChangSu (“Người sống lau”, 313-491) nối ngôi vua Kwanggaeto,
trong suốt 79 năm trị vì vẫn tiếp tục sự nghiệp của vua cha và đưa Koguryo lên
đến đỉnh cao cảu sự hưng thịnh. Bằng một chính sách ngoại giao khôn khéo, ông
kìm giữ Trung Quốc khi đặt quan hệ cả với hai triều đại phía Bắc và Nam. Năm
427, ChangSu dời đo về Pyongyang (Bình Nhữơng). Việc dời đô từ một vùng
núi nhỏ hẹp tới một khu vực đồng bằng ven sông rộng lớn tạo cho kinh đô, khi
chỉ là một căn cứ quân sự mà còn phải là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn
4
hoá, xã hội. Và trên thực tế, từ đo Pyongyang thực sự là trung tâm chính, với sự
hoàn thiện về thể chế chính trị, kinh tế của Koguryo.
Tuy vậy, việc dời đô về phía Nam, tới Pyongyang của Koguryo đã đe doạ
sự tồn tại của PaeKche và Shilla. Hai vương quốc này đã liên minh với nhau
(năm 433). Sự thẳng thắn Paekche còn sang vương quốc Wei phía Bắc Trung
Quốc để cầu cứu lực lượng chống Koguryo (năm 472). Nhưng vô hiệu, năm 473
Koguryo tấn công, chiếm được Kinh đô của PaeKche ở HanSong (Kwangju.
Phía Nam Xơ-un hiện nay). PaeKche phải dời đô về phia Nam, tới Ungju
(Kongju hiện nay).
Năm 551, lợi dụng Koguryo bị chia rẽ nội bộ, PaeKche và Shilla tấn công
Koguryo. Shilla tấn công vùng thượng lưu sông Hàn, còn PaeKche tấn tông vào
vùng hạ lưu sông này. Nhưng, sau đó Shilla đã phản bội đồng minh của mình,
quay lại chiếm vùng hạ lưu sông Hàn. Liên minh PaeKche và Shilla tan vỡ.
PaeKche quay ra liên minh với Koguryo đẩy Shilla đơn độc chống lại
cuộc tấn công từ hai phía: của Koguryo từ phía Bắc và PaeKche từ phía Nam và
phía Tây.

Sang cuối thế kỷ Vi, nhà Tuỳ thống nhất Trung Quốc năm 589, Tuỳ văn
đế đem 30 vạn quân sang xâm lược Hàn Quốc. Nhằm chống lại PaeKche và
Koguryo, Shilla đã liên minh với nhà Tuỳ. Các năm 612, 613, 614, nhà Tuỳ liên
tiếp đem quân sang xâm lược Hàn Quốc, nhưng không thành công, trong đó phải
kể đến công lao của Koguryo.
Năm 618, ở Trung Quốc, triều tuỳ bị lật đổ, triều Đường lên thay. Nhân
khi nhà Đường còn lo ổn định xã hội, Koguryo cho đắp các dãy trường thành
phòng vệ, và liên minh với PaeKche để tấn công Shilla.
Năm 645, nhân khi Shilla đến cầu viện, nhà Đường đem 20 vạn quân với
500 chiến thuyền tấn công Koguryo, nhưng bị đại bại. Năm 660, nhà Đường
mang 10 vạn quân phối hợp với quân Shilla cùng tấn công PaeKche. PaeKche bị
diệt vong. Koguryo bị cô lập. Năm 666, nội bộ Koguryo lại xảy ra xung đột vũ
trang làm thế nước suy yếu. Lợi dụng tình hình ấy, năm 667, nhà đường lại phối
hợp với Shilla tấn công V, Năm 668, Koguryo bị chinh phục.
5
II. VƯƠNG QUỐC PAEKCHE
Vương quốc PaeKche phát sinh vào thế kỷ III, chiến cứ miền tây nam bán
đảo Hàn Quốc. Một điều đáng chú ý là PaeKche đã phát triển, và vượt lên so với
các vương quốc nhỏ khác (cũng gọi là PaeKche) nằm ở trong vùng Manhan (Mã
Hàn), do “vua Chin” cai trị. Hiện chưa biết chắc chắn thời điểm xuất hiện của
PaeKche với tư cách là một vương quốc liên minh bằng cách sát nhập các quốc
gia độc lập khác trong vùng lòng chảo sông Hàn. Nhưng, ở thời điểm năm 246,
theo các tài liệu lịch sử để lại, đã có nhiều cuộc tấn công lớn vào khu vực sông
Hàn, nhằm mục đích phá vỡ và cản trở quá trình củng cố của thế lực mới này
của các chiến binh Lo-lang và Tai-Fang (những vùng mà sau này nằm sưới sự
cai trị của Wei- một trong số những quốc gia của Trung Quốc ở miền Bắc).
Trong một cuộc chiến tranh, thủ lĩnh của Tai - Fang là Kung TSun bị giết và
điều đó cho thấy sức mạnh của thế lực mới nổi lên này.
Người có công lớn đối với quá trình hình thành của quốc gia PaeKche là
vua Koi (234 - 286). Ông được coi là một trong những nhân vật lịch sử thành lập

nên vương quốc. Vào năm thứ 20 của triều đại Koi, năm 260, vua tiến hành một
cuộc sắp xếp lại bộ máy nhà nước. Sau vua, bộ máy quan lại gồm 6 quan đầu
triều được chỉ định để điều hành quốc gia theo chức năng riêng. Tiếp đó là 16
chức vụ quan lại cũng tuỳ theo thứ bậc. Năm 262, Vua Koi ra lệnh trừng phạt
những viên quan ăn hối lộ hay tham nhũng bằng cách phát gấp 3 và đổi khỏi cửa
quan suốt đời.
Ở triều đại vua Kun Chogo (346-375), việc kết cấu Paekche thành một
quốc gia quý tộc, trung ương hoá hoàn thành. Trong thời gian trị vì, Kun Chogo
đã cho quân tàn phá vùng Mã hàn, chiếm toàn vùng Iksan, Năm 371, ông cho
quân tiến lên phía Bắc vào sâu trong lãnh thổ Koguryo, tới tân Pyongyang, giết
chết vua V là Kogugwon Nhờ đó, PaeKche đã nắm quyền thống trị một vùng
rộng lớn của bán đảo Hàn Quốc. Hơn thế, vua Kun Chogo còn củng cố vị trí của
mình bằng cách liên hệ với người Trung Quốc ở miền Đông Bắc và cả với người
Wa ở Nhật.
6
Sau Kun Chogo, người ké vị ngai vàng của PaeKche là Kun Kusu (375 -
384). Một điều đáng chú ý là, ngay sau khi Kun Kusu chết, Chimnyu lên thay,
đã chấp nhận đạo Phật (384).
Ở thế kỷ V, PaeKche phải đối đầu với nhiều mối đe doạ nguy hiểm. Năm
473 PaeKche phải dời đô về phía Nam, tới Ungju (Kongju hiện nay). Dưới thời
trị vì của vua Muryong (501 - 523) PaeKche lại được hồi sinh. Thời này, ngoài
kinh đố, quốc gia Packche có tới 22 tammo (huyện). Đến thời vua Song (523 -
554). Kinh đô PaeKche chuyển về Sabi, nằm trên vùng đồng bằng lớn Puyo. Sau
khi xây dựng lại vương quốc đồng thời đã củng cố được quyền lực trong tay,
vua Song cho mở các cuộc chiến tranh để lấy lại các lãnh thổ trước đây của
PaeKche ở vùng lòng chảo sông Hàn.
Để thực hiện mục đích này, vua Song đã ký kết một hiệp ước với vủa
Chinhung của Shilla và lợi dụng sự bất hoà trong nội bộ Koguryo để tiến về phía
Nam. Với việc chiếm được vùng hạ lưu sông Hàn, vua Song đã đạt được mục
đích. Nhưng đến khi Shilla phản bội lại đồng minh, chiếm lấy thành quả của

PaeKche thì PacKche xem Shilla như một kẻ thù truyền kiếp, cũng như Koguryo
và liên minh với Koguryo, liên tục mở những cuộc tấn công chống lại Shilla.
III. VƯƠNG QUỐC SHILLA
Shilla là một vương quốc phát triển lên từ Saro một trong 12 quốc gia độc
lập ở vùng Chinhan (Thìn Hàn) vùng Đông Nam bán đảo Hàn Quốc. Dưới triều
vua Naemul (356 - 402), SHilla trở thành một vương quốc liên minh lớn ở phía
đông sông Naktong.
Dưới triều đại vua Naemul, nhà họ Kim là họ nắm quyền với ngôi vua ở
Shilla, và tới triều vua Nulchi (417 - 458) thì mô hình cha truyền con nối đã hình
thành. Việc đó đánh dấu sự ra đời của một nhà nước quân chủ quý tộc ở Shilla.
Tiếp đó, 6 cộng đồng thị tộc được tổ chức lại thành 6 pu (huyện) hành chính. Để
chống lại sức ép của Koguryo trên vùng biên giới của mình, Shilla liên minh với
PaeKche năm 433. Dưới thời vua Chabi (458 - 479), quan hệ của Shilla với
PaeKche được củng cố đã hạn chế được sự xâm nhập của Koguryo. Hơn nữa,
khi PaeKche dời đô về Ungjin năm 475, địa vị của Shilla khá vững.
7
Dưới triều đại vủa Pophung (514 - 540), Shilla đã hoàn thành việc cơ cấu
một quốc gia, quý tộc hoá. Một sự kiện quan trọng là ở thời kỳ này, vua
Pophung đã ban hành một bộ luật hành chính năm 520. Mặc dù các điều khoản
của bộ luật không được biết một cách chắc chắn, nhưng qua những tài liệu để
lại, có thể thấy nó bao gồm những quy định cơ bản về cơ cấu 16 cấp bậc trong
triểu, những quy định về trang phục riêng cho chế độ quan liêu hành chính. Việc
công nhận đạo Phật là quốc giáo vào khoảng thời gian từ 527 - 535, cũng là một
sự kiện đáng ghi nhớ dưới triều vua Pophung. Điều đó đã tạo ra một nền tảng tư
tưởng và tổ chức của nhà nước Shilla.
Khi đã củng cố được địa vị, Shilla tiến hành mở rộng lãnh thổ bằng việc
tấn công vào những nước láng giềng. qúa trình này diễn ra trong một thời gian
khá dài. Vua Chijung đã chinh phục Ucan (một đảo phía Đông Ullung) năm 513,
và sau đó vua Pophung đã xâm lược Pon Kaya năm 532, tạo bàn đạp tiến về
hướng tây Bắc và vùng lòng chảo sông Naktong. Thời vua Chinhung (540 - 576)

là thời Shilla mở rộng lãnh thổ quan trọng của Shilla. Năm 551, Shilla tấn công
Koguryo ở vùng lòng chảo sông Hàn, phối hợp với vua Song. Mười “hai” ở
vùng thượng lưu sông Hàn đã rơi vào tay Shilla. Tiếp đó, Shilla lại đẩy lực
lượng của PaeKche ra khỏi vùng hạ lưu sông Hàn, nắm toàn bộ vùng lòng chảo
của con sông này.
Năm 562, vủa Chinhung tàn phá Tae Kaya và Shilla chiếm được vùng
lòng chảo sông Naktong màu mỡ, ở hướng Đông Bắc, Chinhung đẩy biên giới
Shilla vào sâu vùng đồng bằng Hamhung. Bốn cột bia đã dựng lên ở Chang
Nyong, Pukhan. Hwang cho và Maun nhằm đánh dấu chuyến đi thị sát vùng
biên cương mới của nhà vua là một bằng chứng về thành quả mở rộng lãnh thổ
của vua Chinhung. Liên minh Shilla - PaeKche tồn tại trong 120 năm đã tạo điều
kiện cho việc củng cố địa vị của Shilla.
Tuy vậy, khi Shilla quay lại phản bội đồng minh và nhất là khi PaeKche
quay sang liên minh với Koguryo thì thế lực của Shilla suy yếu dần.
Khi Koguryo liên minh với PaeKche để tấn công Shilla, Shilla phải cầu
cứu nhà Đường ở Trung Quốc. Mục đích của Shilla là dùng thế lực của phong
8
kiến nhà Đường đánh bại Koguryo và PaeKche, thu hồi lại đất đai và khôi phục
lại địa vị của Shilla. Nhưng khi diệt xong 2 nước trên, nhà Đường lại đặt ách
thống trị lên toàn bộ bán đảo Hàn Quốc, làm cho quần chúng nhân dân luôn nổi
dậy phản kháng, Shilla nhân tình hình ấy đem quân phối hợp với các nhóm
nghĩa binh cùng đánh đuổi kẻ xâm lược, giải phóng đất nước vào năm 675.
IV. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ XÃ HỘI THỜI TAM
QUỐC
1. Kinh tế
Ở thời Tam Quốc, cơ sở kinh tế của các nước là nông nghiệp. Trong nông
nghiệp, cây trồng chủ yếu là lúa, ngoài ra còn có kê, lúa mì, lúa mạch. Ngoài cây
lương thực, cư dân còn trồng các loại rau củ, cây ăn quả, cây lấy hạt khác.
Phần lớn đất đai trong các nước thời Tma quốc thuộc quyền sở hữu của
giới quý tộc. Một phần nhỏ đất đai của nhà nước được giao cho những gia đình

nông dân canh tác. Đại bộ phận nông dân phải nhận ruộng phát canh của giới
quý tộc để cày cấy, sau đó nộp thuế má cho bọn quý tộc. Ngoài khoản thuế thóc
mà nông dân phải nộp cho giới quý tộc, người lao động còn phải nộp nhiều thứ
thuế khác như thuế vải, các mặt hàng mà người dân sản xuất ra dưới dạng các
cống vật. Bởi lẽ, ngoài lao động nông nghiệp, người dân còn phải sản xuất phụ
thêm nhiều thứ khác để chi dùng cho đời sống như sản xuất thủ công nghiệp,
chăn nuôi gia súc Nông dân còn phải làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước, cho
bọn quý tộc. Lao dịch cho quý tộc và nhà nước thường thể hiện dưới hình thức
xâu dịch, và thời gian ít hay nhiều phụ thuộc vào nhu cầu và ý muốn của giai
cấp thống trị.
Thuế má và các khoản chi phí của nhà nước trong đó phần lớn phục vụ
cho cuộc sống xa xỉ của giai cấp quý tốc và các chuộc chiến tranh, xung đột
giành quyền lực và lãnh thổ đều đổ lên đầu người nông dân.
Bên canh nông nghiệp, thời Tam Quốc, thương nghiệp bước đầu có nhiều
thay đổi, ở kinh đô, chợ xuất hiện làm nơi trao đổi các sản phẩm địa phương.
Chợ còn được lập ra ở các pu (huyện) cũng nhằm mục đích này. Trong buôn
bán, phương thức chủ yếu là vật đổi vật, ngoài ra còn có một số loại “tiền” dưới
9
dạng vỏ sò, và đôi lúc là các đồng tiền đúc của Trung Quốc. Việc buôn bán với
nước ngoài đã được tiến hành, chủ yếu là mua hàng của Trung Quốc. Trong các
nước Tam Quốc PaeKche cũng bôn bán với nước Wa Nhật Bản nhưng ở mức độ
rất hạn chế.
Trên lĩnh vực kinh tế, sự ảnh hưởng của nước ngoài chủ yếu là của Trung
Quốc với các nước Tam Quốc khá rõ rệt. Do sự gần gũi về địa lý với bắc Trung
Quốc - nơi mà các quan hệ phong kiến đã hình thành từ lâu, kinh tế có nhiều tiến
bộ, nên từ sớm, tại Hàn Quốc nhiều người di cư đến từ các tỉnh miền bắc Trung
Quốc đã mang theo kỹ thuật nông nghiệp và thủ công nghiệp. Giữa PaeKche và
nam Trung Quốc có mối liên hệ từ sớm, nên các nghề thủ công ở PaeKche chịu
ảnh hưởng củatq. Thợ đồ gốm, thợ dệt, thợ rèn vũ khí, thợ mộc, thợ đóng tàu,
thợ thêu ở PaeKche không chỉ nổi tiếng trên phạm vi bán đảo, mà còn ảnh

hưởng đến tận Nhật Bản. Trong thời Tam quốc, Nhật Bản luôn đặt mua sản
phẩm thủ công của PaeKche.
Trong ba nước thời Tam quốc, Shilla là nước mà các quan hệ phong kiến
tiến triển chậm. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do Shilla nằm ở
phần đông nam của bán đảo tình hình chính trị không ổn định, do địa thế ở xa
Trung Quốc là nước phong kiến tiên tiến vào thời kỳ ở Đông Á. Gần với Shilla
hơn cả là Nhật Bản. Nhưng Nhật Bản thời này đang ở vào mức tác phẩm xã hội
thấp hơn Trung Quốc và thấp hơn cả các quốc gia Hàn Quốc nữa.
2. Cộng đồng làng xã và cư dân
Các quốc gia thời Tam Quốc là các quốc gia lấy nông nghiệp làm hoạt
động kinh tế chủ yếu. Đơn vị cơ bản để tiến hành công việc canh tác là cộng
đồng các làng xã. Phần lớn cư dân nông nghiệp trong những cộng đồng làng xã
là những người tự do, hay bình dân, địa vị của họ khác nhau, nhưng nhìn chung
là thấp, và theo cách gọi của người Trung Quốc, họ thuộc giới “những kẻ hèn
mọn”. Trong cộng đồng làng xã, đứng trên những lớp người nông dân là Trưởgn
làng (homin). Trong cộng đồng làng xã, lớp người có địa vị thấp nhất là nô lệ.
Sống trong cộng đồng làng xã, người nông dân phải dựa vào nhau, liên kết với
nhau, nên tính chất cộng đồng khá cao.
10
Các quốcgia thời Tam quốc đều được hình thành và phát triển trên cơ sở
của sự liên kết các cộng đồng làng xã. Nhà nước sử dụng các làng xã làm đơn vị
thu thuế, bắt xâu dịch đối với người lao động. Do vậy, ở Hàn Quốc tồn tại một
tình trạng cũng có những nét tương tự với nhiều nước khác ở phương Đông, là
mặc cho sự thay đổi triều đại, hay thậm chí cả sự thống trị của ngoại tộc nữa, cơ
cấu cộng đồng làng xã và cư dân sống trong đó, có phần ít bị xáo trộn.
3. Cấu trúc chính trị và quốc gia độc lập
Giai cấp thống trị trong các quốc gia độc lập ở Hàn Quốc thời Tam Quốc
là giai cấp quý tộc phong kiến. Các quốc gia Tam Quốc đều phát triển lên từ các
vương quốc nhỏ, và trong quá trình phát triển thu nhận thêm các vùng đất mới.
Do vậy, một điều dễ thấy là cấu trúc của một quốc gia độc lập thời Tam Quốc là

cấu trúc của một quốc gia liên mình. Trong quốc gia liên minh chính quyền các
địa phương có một số quyền tự trị, nhưng phải phục tùng chính quyền trung
ương.
Trong thời kỳ đầu của Koguryo, các quốc gia nhỏ vị chinh phục hoặc bị
ép vào liên minh. Các nước Piryu và Kalsa, đầu hàng Koguryo là các ví dụ về
việc gia nhập vào cấu trúc của quốc gia liên minh. Những thực thể độc lập nhỏ,
chấp nhận sự đầu hàng liên minh vương quốc đã bị biến thành một cái gì đó
giống như các đơn vị hành chính trực thuộc.
Quyền lực trong cơ cấu chính trị của các quốc gia tập trung vào tay nhà
vua. Dưới vua, là một hệ thống quan chức gồm 12 chức vụ ở Koguryo, 16 chức
vụ ở PaeKche, và 17 chức vụ ở Shilla. Các chức vụ quan lại được phân biệt bởi
màu sắc của y phục. Ví dụ ở PaeKche, chức vụ được phân biệt bởi 3 loại: loại
cao nhất màu đỏ tía, loại trung bình màu đỏ tươi, loại cao nhất màu xanh
Trong hệ thống quan chức hành chính, ở bộ máy chính quyền trung ương
có các quan lại nắm các bộ phận. Ở quốc gia PaeKche, có 6 Chwap ynong phụ
trách về tài chính, điều khiển các nghi lễ và lễ hội, chịu trách nhiệm về an ninh
và trật tự ở kinh đô, các vấn đề về thưởng phạt và chỉ huy lực lượng quân sự.
Khi PaeKche chuyển đô về Sabi, cơ cấu bộ máy nhà nước phức tạp hơn, bao
gồm tới 22 bộ phận, 12 trong cung điện và 10 phụ trách các vấn đề của riêng nhà
11
nưcớ. Tại Shilla, một số bộ được thiết lập và chịu trách nhiệm về quân sự, giám
sát các hoạt động của quan lại, phụ trách các việc của Hoàng gia, phụ trách tài
chính
Các quan thượng thư trong bộ máy nhà nước giữa một vai trò quá trình,
có quyền lực cao, chỉ dưới vua, vì thế phải được chọn lựa kỹ càng. ở Koguryo,
quan thượng thư phải được một hội đồng quý tộc cao cấp bầu ra. Ở các quốc gia
Tam Quốc. Hội đồng quý tộc có chức năng lớn như quyết định những vấn đề
quan trọng của nhà nưcớ như việc nối ngôi, tuyên chiến và đình chiến Việc
chính thức chấp nhận đạo phật do Hội đồng Ywabae (Hội đồng quý tộc của
Shilla) quyết định là một ví dụ.

Quyền lực của chính quyền trung ương còn vươn tới các địa phương. Các
pháo đài được xây dựng ở những khu vực nơi các cộng đồng bộ lạc trước đây
sinh sống được sử dụng làm các trung tâm hành chính địa phương. Các đơn vị
hành chính địa phương được gọi là “Kun” hay huyện, và ở Koguryo, người
đứng đầu một huyện như vậy được gọi là Chongyo, người đứng đầu một huyện
như vậy được gọi là Chongyogunji (hay tosa). Một số huyện lại được gom lại để
thành lập những đơn vị hành chính lớn hơn, như ở Koguryo gọi là pu (Koguryo
có tất cả 5 pu). (Bắc, Nam, Đông, Tây, và ở giữa), ở PaeKche gọi là Pauj
(PaeKche có 5 Pauj), ở Shilla gọi là Chu (như cao, thấp, cũ, mới). Những người
đứng đầu các đơn vị hành chính này gọi là YoKsát (ở Koguryo), Pangnyong (ở
PaeKche) và Kungju (ở Shilla).
Tổ chức quân sự song song với tổ chức hành chính. Cùng với sự phát
triển của quốc gia là tổ chức quân sự. Tổ chức quân sự, cũng như thể chế chính
trị được đặt dưới quyền lực của nhà vua. Nhà vua đồng thời là tổng tư lệnh các
lực lượng quân sự của cả nước, và trên thực tế, các ông vua thường trực tiếp dẫn
đầu quân và chiến đấu bên cạnh họ trong các trận đánh. Có rất ít thông tin về tổ
chức của các đơn vị vũ trang trong cấu trúc tổ chức quân sự, nhưng người ta biết
rằng, ở Shilla, quân đội được tổ chức thành 6 “chong” (đơn vị), được chỉ huy
bằng các tướng lĩnh “truc - bone” (dòng dõi cao quý).
12
Ngoài các đơn vị thườngtrực, nguồn bổ sung cho lực lượng vũ trang thời
Tam Quốc là những thanh niên ở các địa phương. Mỗi vương quốc đều tổ chức
lực lượng quân sự của mình ở các huyện hay ở các cấp địa phương, và trên thực
tế, các đơn vị của cơ quan hành chính địa phương phục vụ đồng thời như những
đơn vị cơ bản trong tổ chức quân sự địa phương. Tại mỗi pháo đài, được coi là
trung tâm của cơ quan hành chính huyện, các đơn vị quân sự được củng cố thêm
sức mạnh dưới sự dẫn dắt của những người đứng đầu huyện
Tổ chức quân sự và thể chế chính trị của các quốc gia thời Tam Quốc có
sự liên kết chặt chẽ với nhau tạo nên bức tranh xã hội dựa trên quyền lực. Các
quốc gia Tam Quốc đã phát triển trên một cơ cấu xã hội như vậy suốt nhiều thế

kỷ.
V. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI THỜI TAM QUỐC
Trong các mối quan hệ của các quốc gia thời Tam Quốc với các nước láng
giềng ở vùng Đông bắc Á, thì mối quan hệ với Trung Quốc là chủ yếu. Có thể
khái quát chính sách mà các nước Hàn Quốc thời Tam Quốc sử dụng đối với
Trung Quốc như sau: Trước hết, do luôn luôn theo đuổi chính sách xâm lược mở
rộng lãnh thổ nên các nước thời Tam Quốc đã liều lĩnh mở những cuộc tấn công
quân sự vào đất Trung Quốc, và tất nhiên là họ cũng phải thường xuyên chịu
đựng những cuộc tấn công của Trung Quốc. Trường hợp này rất đúng với
Koguryo, một nước có chung đường biên với Trung Quốc ở vùng đông bắc. Thứ
hai, trong quá trình đấu tranh thôn tính nhằm mục đích thống nhất bán đảo, cả 3
vương quốc đều lợi dụng cuộc xung đột giữa hai triều đại ở Trung Quốc (giữa
Bắc Triều và Nam Triều), các nước Tam Quốc còn tìm cách sử dụng những
người di cư vùng miền Bắc Trung Quốc và người Wa ở Nhật Bản để phục vụ
chính sách đối ngoại.
Koguryo ngay trong thời gian đầu đã đáp lại những cuộc tấn công của
Trung Quốc ở vùng lòng chảo sông Liao và Taedong. Dưới triều vủa Tongch’on
(227-248) Koguryo tấn công cửa ải Yalu và tìm cách cắt rời mảnh đất nối liền
Trung Quốc với thuộc địa Lo-lang của nó. Nước Wei - một quốc gia ở khu vực
miền Bắc Trung Quốc, trả đũa bằng cách tấn công và chiếm được Kinh đô của
13
Koguryo là Hwando - Song năm 244. Khi Wei tấn công xâm lược Koguryo lần
thứ hai vào năm sau (245) vua Tongch’on của Koguryo chỉ còn kịp cứu mình
bằng cách chạy sang vùng bờ biển đông bắc. Sang đầu thế kỷ IV, nhân khi nội
tình Trung Quốc rối ren, Koguryo lại mở các cuộc tấn công kết quả là đã kiểm
soát được toàn bộ, vùng lãnh thổ trước đây của vương quốc Choson cổ ở thung
lũng sông Taedong.
Vào năm 342, Koguryo rơi vào tình trạng thảm hoạ khi bị một đội quân
xâm lược, trực tiếp dưới sự lãnh đạo của vua nhà Triều Yên bên Trung Quốc là
Mu-Jung - Huang. Cuộc xâm nhập này đã đốt trụi cung điện của Koguryo, bắt

giữ hoàng thái hậu và 15.000 người Koguryo.
Năm 371, quân đội PaeKche của vua Kun Ch’ogo lại giáng cho Koguryo
một đòn nặng, vủa Koguryo chết trong một trận đánh. Để vượt qua cuộc khủng
hoảng sâu sắc và khôi phục lại đất nước qua những cơn binh lửa khốc liệt,
Koguryo đã tiến hành một cuộc thay đổi thể chế, tiến hành một cuộc canh tân
dưới thời vua SoSurim (371 - 384). Sự thay đổi là canh tân này đã đặt cơ sở cho
sự lớn mạnh của Koguryo ở thời trị vì của vua Kwanggaeto (391 - 413). Đến
thời vủa Kwanggaeto, Koguryo đã chinh phục toàn bộ vùng Kiao-tung, chinh
phục vùng rừng núi Su-Shen ở vùng đông bắc Koguryo, đưa Koguryo trở thành
một vương quốc lớn rộng bao chiếm hơn 2/3 bán đảo h1 và một phần Manchuria
(Mãn châu).
Từ đó, Koguryo hoạch định chính sách đối ngoại của mình theo nguyên
tắc tương tự như các quốc gia phong kiến Trung Quốc tiến hành là “cân công,
viễn nhu”. Đối với các nước gần, có chung biên giới lãnh thổ, Koguryo mở các
cuộc chiến tranh thôn tính, còn với các nước ở xa Koguryo đặt quan hệ thân
thiết để tranh giành ảnh hưởng và địa vị. Do vậy, tình trạng chiến tranh giữa
Koguryo với các nước Trung Quốc ở gần, có chung đường biên vẫn tiếp tục.
Trong khi đó, Koguryo tranh thủ thời gian và cơ hội, tìm kiếm mối quan hệ bang
giao với các vương triều phía Nam Trung Quốc, dù phải vượt biển và có rất
nhiều khó khăn, Koguryo cũng thiết lập các mối quan hệ với những người du cư
ở biên giới phía Bắc Trung Quốc nhằm kìm hãm thế lực Trung Quốc.
14
Về phía mình, PaeKche - một quốc gia lớn thời Tam Quốc, lại cố gắng
ngăn cản Koguryo bằng cách xúc tiến thiết lập những mối quan hệ không chỉ với
các vương triều phía Nam mà cả với những vương triều phía Bắc của Trung
Quốc. Hơn nữa, PaeKche còn kêu gọi lực lượng của người Wa ở Kyushu Nhật
Bản. Chống lại Shilla. Sự đe doạ của PaeKche khiến Shilla phải cầu cứu
Koguryo và kết quả là một đội quân của Koguryo do vua Kwanggaeto được gửi
tới và đẩy được người Wa ra khỏi biên giới Shilla. Về sau, do sức ép từ chính
phía Koguryo, Shilla lại phải kiếm tìm sự bảo trợ của PaeKche trong mối liên

minh Shilla - PaeKche từ năm 434. Liêm minh Shilla - PaeKche tồn tại suốt
trong thời gian 120 năm để chống lại Koguryo là một trong những sự kiện quan
trọng trong quan hệ đối ngoại thời Tam Quốc. Và sự tan vỡ của liên minh này là
một bằng chứng về điều khó có thể có mối quan hệ liên minh khi quyền lợi của
hai bên khác nhau, thậm chí là đối địch nhau.
Tuy tình trạng xung đột giữa các nước Tam Quốc với Trung Quốc luôn
diễn ra, và bản thân các triểu đại phong kiến Trung Quốc luôn tìm kiếm cơ hội
để can thiệp nhằm mục đích xâm lược và thôn tính bán đảo Hàn Quốc, ảnh
hưởng của Trung Quốc đến các quốc gia Tam Quốc không vì thế mà giảm sút.
Trên nhiều mặt, cả về kinh tế lẫn chính trị, nhất là văn hoá, các nước Tam Quốc
tiếp thu nhiều thành tựu của Trung Quốc. Có thể kể với những bằng chứng là sự
tiếp thu ảnh hưởng về việc xây dựng thể chế chính trị, chính ảnh hưởng Trung
Quốc đã góp phần thúc đẩy mạnh các quan hệ phong kiến ở Hàn Quốc, lập
pháp, sự tiếp thu các giáo lý của đạo Phật, tiếp thu thành tựu chữ viết Trung
Quốc, đặc biệt là sự chấp nhận đạo Khổng.
Trong nửa cuối của thế kỷ VI, một sự thay đổi lớn đã diễn ra trong cán
cân quyền lực ảnh hưởng đến chính sách và quan hệ đối ngoại của các quốc gia
Tam Quốc.
Với vuộc xâm lược vùng lòng chảo sông Hàn. Shilla đã tiến sâu vào khu
vực trung tâm của bán đảo. Cuộc chiến tranh xâm lược này đã đẩy Koguryo và
cả Paekche vào thế đối địch với Shilla. Khối liên minh mới, liên minh Koguryo -
PaeKche được thiết lập và ngay lập tức tấn công Shilla.
15
Ở nửa cuối thế kỷ VI, những căng thẳng mới trong quan hệ đối ngoại diễn
ra trên một bình diện rộng, trên cả phạm vi bán đảo. Lúc này, ở Trung Quốc,
triều Tuỳ đã đánh bại các thế lực cát cứ, thống nhất đất nước dưới một vương
triều (589). Tại vùng thảo nguyên Bắc Trung Á, thế lực người Tuyếc’ là một
mối đe doạ thường trực với triều Tuỳ. Bằng việc mở rộng lãnh thổ vương quốc
của mình trên nửa phần phía bắc của bán đảo Hàn Quốc và vào sâu miền Mãn
Châu, Koguryo đã thiết lập được mối quan hệ với người tuyếc’ để chống lại

Tuỳ. Trong cùng thời gian đó, Koguryo và PaeKche cũng đang đặt quan hệ với
Nhật Bản. Do vậy, để chống lại liên minh Bắc - Nam của Tuyếc’ - Koguryo,
PaeKche và Nhật Bản. Tuỳ và Shilla đã bắt tay với nhau và thành lập trục Đông
- Tây. Sự đụng độ giữa hai khối quyền lực này đã báo trước một cơn bão lớn mà
ngay sau đó sẽ bùng nổ ở vùng Đông Bắc Á và đây cũng là sự đụng độ giữa
Koguryo và Tây biểu thị cuộc sung đột để phân chia quyến lực đầu tiên.
Koguryo là nước đầu tiên khai chiến bằng một cuộc tấn công vượt qua
sông Liao vào Liao - Shi năm 598. Đáp lại, Tuỳ mở cuộc tấn công vào lãnh thổ
Koguryo, nhưng bị thất bại phải bỏ dở cuộc chiến tranh. Sau đó, năm 612, vua
Tuỳ là Yang Ti (Dượng Đế) đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược lớn
chưa từng thấy. Lực lượng quân Tuỳ tham gia cuộc tiến công lên tới trên một
triệu người. Quân Tuỳ bị thất bại trong lần tấn công hạ thành Liao - Tung một
địa điểm trọng yếu của Koguryo Yang-Ti liền lấy gần 1/3 lực lượng (khoảng
300.000 người), dời khỏi Kiao - Tung tấn công vào kinh đô của Koguryo là
P’vongyang. Tại đây, quân Tuỳ bị rơi vào bẫy phục kích của tướng Ulchi
Mundok - một người chỉ huy tài giỏi của v, và bị thất bại thảm hại ở Salsu. Chỉ
có khoảng 2.700 trong số 300.000 lính Tuỳ sống sót rút chạy về yalu. Vua Tuỳ
đành phải chấm dứt cuộc bao vây thành Kiao - Tung rút quân về Trung Quốc.
Năm sau, Yang - Ti lại tiếp tục đưa quân sang xâm lược Koguryo một lần nữa,
nhưng không thành công. Vương quốc Tuỳ bị sa lầy vào cuộc chiến tranh xâm
lược với các nước ở bán đảo Hàn Quốc, lại phải thường xuyên lo chống đỡ cuộc
nổi dậy của những cuộc chiến tranh nông dân ở trong nước, nên suy yếu dần rồi
sụp đổ.
16
Vương triều Đường lên thay triều Tuỳ. Đã thấy trước khả năng của những
cuộc chương trình xâm lược từ phía Trung Quốc, Koguryo tăng cường phòng
thủ bằng cách xây dựng một bức dài chắn biên giới Tây - Bắc. Nhưng, chính
giữa lúc này, sự chia rẽ trong giới quý tộc Koguryo đã lên đến đỉnh điểm. Sau
một cuộc tàn sát hàng loạt hoàng gia và những người chống đối, Yon Kaesomun
nổi lên với địa vị của một người chỉ huy quân sự và thực sự nắm quyền lực

chính trị (642). Yon Kaesomun định thiết lập mối quan hệ với bên ngoài trên thế
mạnh nên đã đưa Koguryo vào một thời kỳ đụng độ cả với Đường và Shilla. Bác
bỏ đề nghị của sứ thần Shilla là Kim Chun Chu về việc hợp tác đẩy lùi cuộc tấn
công của PaeKche, thay vào đó, Yon Kaesomun đòi Shilla phải dời khỏi thung
lũng sông Hàn. Yon Kaesomun còn đuổi cả sứ thần nhà Đường. Thái độ đó của
Koguryo đã làm ngòi nổ cho cuộc chiến tranh mà triều Đường tiến hành đối với
Koguryo vào năm 645. Vượt sông Liao, quân Đường hạ thành Liao - tung.
Nhưng tại thành An - Shih, quân Đường thất bại buộc phải quay lại. Mặc dù chỉ
là một mối nhỏ trong chuỗi xích phòng thủ của Koguryo, nhưng thành An - Shih
đã đứng vững sau một cuộc bao vây hơn 60 ngày của quân Đường. Trong suốt
thời gian đó, quân Đường dồn hết sức lực mỗi ngày mở tới 6, 7 cuộc tấn công
vào thành nhưng không thành công…
Nhưng chiên thắng của Koguryo đối với các cuộc chương trình xâm lược
của Trung Quốc dưới triều đại nhà Tuỳ, và sau đó là nhà Đường, chiếm một vị
trí đặc biệt trong lịch sử kháng chiến của nhân dân Hàn Quốc trong cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc - thắng lợi đó, không những đánh bại âm mưu thôn tính
Koguryo của phong kiến Trung Quốc, mà còn cứu cả PaeKche và Shilla khỏi
cuộc chiến tranh xâm lược không tránh khỏi của phía Trung Quốc. Nhân dân
Hàn Quốc đã được cứu thoát khỏi hiểm hoạ khôn lường của nạn ngoại xâm.
Chính vì thế, những chiến thắng của Koguryo chiếm một vị trí quan trọng đặc
biệt trong những trang sử của bán đảo này.
VI. VĂN HOÁ THỜI KỲ TAM QUỐC
Thời Tam Quốc là thời kỳ nên văn hoá Hàn Quốc đạt nhiều thành tựu trên
cả hai lĩnh vực văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Điều quan trọng hơn là,
17
những thành tựu đó dần làm hình thành những nét riêng cho truyền thống của
một nền văn hoá trong tiến trình văn hoá khu vực.
Cũng như một số quốc gia khác ở Đông Á, Đông Nam Á, người Hàn
Quốc chịu ảnh hưởng khá sớm và sâu đậm văn hoá Trung Quốc, ở thời gian
trước, và cả ở thời Tam Quốc, người Hàn Quốc tiếp thu hệ thống chữ viết của

Trung Quốc (việc tiếp thu này sớm hơn rất nhiều so với việc tiếp thu ảnh hưởng
của nền văn hoá đồ sắt Trung Quốc). Chữ viết Trung Quốc được sử dụng rộng
rãi trong thời kỳ Tam Quốc! ở giai đoạn sau, tiếng Triều Tiên được mở rộng
thành một hệ thống chữ viết, bên cạnh chữ Trung Quốc.
Cùng thành tựu và trên cơ sở của sự sáng tạo chữ viết, cách viết, thời Tam
quốc xuất hiện nhiều tác phẩm, chủ yếu là các cuốn sử, có dung lượng lớn và có
giá trị về mặt nội dung. Ở vương quốc Koguryo có tác phẩm Yugi (các ghi chép
qui mô) gồm 100 tập, sau được gộp lại thành 5 tập “Sinjip” (Tài liệu mới) do
công của Yi Mun - Jin vào năm 600. Ở PaeKche có cuốn sử mang tên Sogi
(những ghi chép đơn thuần về mặt tài liệu) của Kohung soạn vào thời vua Kun
Chogo (346 - 375). Ở Shilla có cuốn Kuksa (Lịch sử dân tộc) của Kochilbu soạn
năm 545. Các cuốn sử này đã bị thất lạc, nhưng người ta cho rằng, những nội
dung trong các cuốn sách đó đã được Kim Pu Sik kết hợp với nhau trong cuốn
Samguk Sagi viết vào thế kỷ XII của ông.
Việc biên soạn các cuốn sử dân tộc trên có thể xem như những kỷ vật
trong thời kỳ hình thành các quốc gia tập trung hoá ở Koguryo, PaeKche và
Shilla.
Đạo Khổgn cũng ảnh hưởng vào Hàn Quốc từ khá sớm, ở cả 3 vương
quốc, đạo Khổgn được coi như một phương tiện nhằm duy trì trật tự xã hội của
giai cấp quí tộc.
Năm 372, Koguryo thành lập Viện Khổng học quốc gia (Tâchk) và học
thuyết của đạo Khổng được dùng làm tài liệu giảng dạy tại đây. Nhiều tác phẩm
kinh điển của Đạo Khổng như Ngũ Kinh, các cuốn sử và các tuyển tập văn học
của các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng được truyền bá sang Koguryo.
18
Ở PaeKche, từ “bác học” (Paksa) được dùng để chỉ những người giảng
dạy các cuốn Kinh điển của đạo Khổgn ở Trung Quốc. Do vậy, người ta cho
rằng tại PaeKche, các Viện nghiên cứu đạo Khổng chắc chắn đã tồn tại.
Đạo Khổng tới Shilla muộn hơn một chút. Tuy vậy, ở đây các giá trị đạo
đức của Khổng giáo cũng được truyền bá một cách rộng rãi trong nhân dân.

Lòng trung thành (rút từ thuyết trung với vua của đạo Khổng), có một giá trị đặc
biệt trong việc cố kết xã hội ở Shilla, và tạo cho Shilla một sức mạnh quan trọng
để thống nhất bán đảo ở thời kỳ sau.
Người Hàn Quốc còn chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Những tài liệu cổ cho
biết, vào năm 372, nhà sự Sundo đã tới Koguryo giảng kinh Phật, 12 năm sau,
sư Malananda đưa đạo Phật tới PaeKche, ở Shilla, đạo Phật được truyền bá
muộn hơn, và gặp nhiều trắc trở. ở Shilla đạo Phật được nhà sư Wonpyo từ Nam
Trung Quốc đưa tới. Lúc đầu, đạo Phật bị chính người đứng đầu hoàng gia
Shilla là Pophung (514 - 540) ngăn cản, và do sự chống đối của quý tộc. Nhưng
tới cuối triều vua Pophung, khoảng năm 535, đạo Phật được công nhận chính
thức ở Shilla.
Như vậy, ở cả 3 vương quốc, đạo Phật đều được chấp nhận, và ở mộit
mức độ nhất định nó được xem như một hệ thống đặc biệt thích ứng với các nhu
cầu của một quốc gia quý tộc tập trung do vua đứng đầu. Đạo Phật còn là
phương tiện tỏng việc tìm hạnh phúc cá nhân, cho sự bình yên, ở cả 3 vương
quốc, có sự liên hệ chặt chẽ giữa nhà nước và tôn giáo. Các học thuyết của đạo
Phật, ngoài việc là những “giáo luật” hay các luật lệ của đời sống tu hành, còn
mang một ý nghĩa chính trị, trong đó sự thống nhất lòng tin và kỷ luật có thể
phục vụ cho mục đích quốc gia. Nhà nước Shilla phong các chức tổng giám mục
cho các tu viện trường ở các huyện, tỉnh, và ở qui mô quốc gia, những người này
có trách nhiệm điều hành công việc tôn giáo và tầng lớp sư sãi ở trong nước.
Do đạo Phật được nhà nước ủng hộ tích cực như vạy, nên trong thời kỳ
Tam quốc các sư sãi còn có vai trò như những cố vấn chính trị. Các sư sãi của
đạo Phật còn đóng vai trò trong việc đưa các yếu tố văn hoá Trung Quốc tới Hàn
Quốc.
19
Thơ ca về âm nhạc thời Trung Quốc cũng thường mang nội dung và ý
nghĩa tôn giáo. Tác phẩm “Hyangga” (Những gài hát địa phương) do các sư sãi
đạo Phật viết và nhằm cầu xin sự can thiệp của thần thành vào các vấn đề của
đời sống con người, là tác phẩm có giá trị ở Shilla. Tác phẩm “ Bài ca sao chổi”

của nhà sư Yngchôn nhằm làm cho sao chổi biến mất và làm cho quân xâm lược
Nhật Bản phải rút lui, là một trong những bài Hyangga rất hiếm còn lại từ thời
kỳ Tam quốc.
Cùng với thơ ca, các bài hát là âm nhạc. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng
âm nhạc đã rất hưng thịnh trong cả 3 vương quốc! Thời tam quốc có từ 30 đến
40 loại nhạc cụ, bao gồm nhạc khí thổi, đàn Nây, bô gô. Một loại nhạc cụ đặc
biệt nổi tiếng là “hyonhaKKum” (Tam thập lục cần đen) do Wang San-ak của
Koguryo tạo ra bằng cách cải tiến loại đàn 7 dây của Trung Quốc! Wang San-ak
còn sáng tác được hơn 100 giai điệu cho loại nhạc cụ này. PaeKche và Shilla
cũng nổi tiếng về âm nhạc với loại đàn Tam thập lục vùng Kaya là “Kayagum”
với 185 giai điệu
Nghệ thuật thời Tam quốc được đặc trưng bởi tính đơn giản, trực tiếp của
nó. Thời Tam Quốc cùng với sự hưng thịnh của đạo Phật, việc chế tác đồ mỹ
nghệ ở Hàn Quốc đạt được những bước tiến bộ rõ rệt mang tính hiện thực và
những nét đẹp khoẻ khoắn.
Kiến trúc là lĩnh vực mà thành tựu được giữ lại rõ hơn cả. Ở Koguryo
thông qua những ngôi mộ cổ còn lại rất nhiều tỏng vùng lân cận của Pyongyang.
Những ngôi mộ này gồm hai loại, một loại được xây cất bằng đá, một loại được
đắp bằng đất. Loại bằng đá xây theo hình kim tự tháp bằng cách đặt những phiến
đá lên nhau. Ngôi mộ Changgun Chong cho ta cảm giác rằng, nhân vật được
chôn trong đó có một sức mạnh lớn lao. Những ngôi mộ đất gồm các ụ đất đắp
lên trên mộ, được xây bằng đá. Ngôi mộ hai cột Sang Chong là một trong những
ngôi mộ rất đáng chú ý, hai cệt hình bát giác ở lối vào ngôi mộ, cùng các hình
trang trí ở trên cột, trên đầu các cột ở 4 góc mộ, các giàn Xà nóc được sơn phủ ở
trên trần. Không còn lại một công trình kiến trúc nào của Koguryo liên quan đến
20
đạo Phật còn tồn tại, chứng tỏ cả chùa và đền trong vương quốc này được làm
bằng gỗ.
Ở PaeKche còn rất nhiều dấu vết của những lâu đài lớn. Đáng chú ý nhất
là những ngôi chùa bằng đá ở Puyo và IKsan.

Ở Sjo;;a. cĩmg cps rất mjoềi đềm chùa, song ngày nay ta chỉ có thể thấy
được vị trí của chúng. Ngôi chùa thiêng xây bằng gạch của đền Punhwang - Sa
và những đường lượn mềm mại của tháp canh Chomsongdae bằng đá ở Koguryo
có thể cho biết ít nhiều về kiến trúc ở Shilla cổ.
Điêu khắc thời Tam Quốc nhìn chung là gắn liền với ảnh hưởng của đạo
Phật. Ở vương quốc Koguryo có bức tượng đồng mạ vàng tượng Phật, làm
khoảng giữa thế kỷ VI. Bức tượng đồng mạ vàng đức Phật tương lại trong tư thế
nửa đứng nửa ngồi, với nụ cười nhẹ nhàng trên môi. Cả ở PaeKche và Shilla đều
có nhiều tượng Phật
Những bức tranh nổi tiếng nhất thời Tam Quốc để lại là những bức tranh
tường trong ngôi mộ cổ ở Koguryo. đó là các bức vẽ trên 3 bức tường của các
ngôi mộ đất, trên các vòm cuốn của các ngôi mộ đá theo nhiều chủ đề, cung cấp
nhiều tư liệu cho việc nghiên cứu lối sống và cách nghĩ của ngời dân Koguryo.
Bức tranh nổi tiếng nhất của Koguryo là bức tranh tường tìm thấy ở “Uhyon-ni,
phía Nam Pyongau trong ngôi mộ 4 vị thần - con rồng màu xanh da trời của
phương Đông, con hổ trắng của phương Tây, con phượng hoàng sơn son của
phương Nam, rùa và rắn của phương Bắc
21
KẾT LUẬN
Trên đây tôi đã tổng kết hq thời kỳ ba vương quốc là: Vương quốc
Koguryo, vương quốc PaeKche, và vương quốc Shilla. Cùng với tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội thời Tam Quốc. Quan hệ đối ngoại thời Tam Quốc và văn
hoá thời kỳ ba vương quốc. Do phạm vi nghiên cứu đề tài tương đối rộng, tài
liệu không có nhiều nên bài tiểu luận của tôi còn nhiều thiếut sót. Rất mong sự
góp ý của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
22

×