Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN Phương pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.23 KB, 19 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA
LÝ 6”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ .
Địa lý là một môn khoa học có phạm trù rộng lớn và có tính thực nghiệm. Nó
không chỉ dừng lại ở việc mô tả các sự việc và hiện tượng địa lý xẩy ra trên bề mặt Trái
Đất mà còn tìm cách giải thích, phân tích, so sánh, tổng hợp các yếu tố địa lý, cũng như
thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mặt khác nó còn góp phần phát hiện, khai
thác, sử dụng, bảo vệ và cải tạo tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lý nhằm
góp phần tích cực vào việc xây dựng kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh nước nhà.
Để phù hợp với đặc trưng bộ môn, đồng thời thực hiện tốt quá trình đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt động của học sinh, việc dạy học môn Địa
lý ở các trường phổ thông muốn đạt được chất lượng cao thì đi đôi với lý thuyết, việc sử
dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là kênh hình là một yếu tố bắt buộc và có tác dụng lớn
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập, tăng cường kỹ năng
địa lý (nhận xét, phân tích, giải thích, đánh giá, so sánh, tổng hợp các bản đồ, biểu đồ,
tranh ảnh, số liệu thống kê ). Qua đó, học sinh sẽ tự mình phát hiện kiến thức và khắc
sâu hơn nội dung bài học. Mặt khác, nó còn giúp giáo viên tổ chức việc dạy học theo đặc
trưng bộ môn có hiệu quả trong giảng dạy Địa lý ở trường trung học cơ sở nói chung và
đặc biệt ở lớp 6 nói riêng. Để giúp cho các em nắm và hiểu bài, người giáo viên phải biết
sử dụng tốt kênh hình. Đây là một trong những yếu tố gây hứng thú, lôi cuốn học sinh,
giúp các em hiểu bài dễ dàng, ghi nhớ lôgic, không máy móc, làm cho tư duy trong các
em sau này tự phân tích, giải thích khi không có giáo viên bên cạnh và trong thực tế.
Qua thực tế giảng dạy môn địa lý lớp 6 ở trường THCS An Sinh, tôi nhận thấy rằng
nhiều em còn quan niệm rằng Địa lý là một môn học thuộc lòng. Thực tế không phải là
như vậy. Chính vì thế trong những năm qua khi tiến hành cải cách giáo dục chúng ta đã
có những cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tăng cường tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, bằng cách phải chú ý rèn luyện cho học sinh kỹ
năng sử dụng kênh hình như: Bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, bảng thống kê Bởi vì tất cả
các kiến thức Địa lý lớp 6 không được trình bày, phân tích mô tả một cách đầy đủ, mà


còn tiềm ẩn trong các kênh hình có trong bài học, trong khi tư duy của trẻ ở lứa tuổi này
còn thiên về tính cụ thể. Vì thế trong quá trình dạy Địa lý lớp 6, giáo viên cần rèn luyện
cho học sinh kỹ năng sử dụng kênh hình để giảm tính trừu tượng cho học sinh.
Năm học 2012-2013 tôi được nhà trường phân công giảng dạy bộ môn Địa lí 6 gồm
3 lớp 6A, 6B, 6C với tổng số học sinh là 113 em. Ở bậc tiểu học các em cũng đã được
làm quen với môn địa lí song chưa được đào tạo, khám phá sâu. Vì vậy tôi đã chọn tiến
hành thể nghiệm đề tài này và đề ra kế hoạch và thời gian cụ thể như sau:
Học kì I từ 15/9/2012 đến 31/12/2012 Trong đó bao gồm :
+) Khảo sát chất lượng bộ môn.
+) Lên kế hoạch giảng dạy bộ môn .
+) Nghiên cứu soạn bài, nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị đồ dùng và truyền thụ kiến
thức cho học sinh.
+) Nhận xét đánh giá học sinh về việc vận dụng kĩ năng phương pháp sử dụng
kênh hình trong bài học.
Vì những lí do trên, năm học 2012-2013 bản thân tôi trên cơ sở kinh nghiệm giảng
dạy của mình cũng như một số đồng nghiệp, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Phương
pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý 6”
I.1. Cơ sở lý luận:
Đất nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ từ một nền kinh tế nông nghiệp nay
chuyển sang nền kinh tế công nghiệp. Trước sự phát triển đó đòi hỏi ngành Giáo dục-
Đào tạo phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm mục đích đào tạo con người mới, năng
động sáng tạo, những chủ nhân khoa học tương lai của đất nước, phù hợp xu thế phát
triển đi lên của đất nước .
Mục tiêu của Giáo dục Việt Nam là “Hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực
của công dân Việt Nam, tự chủ, năng động, sáng tạo có kiến thức văn hóa, khoa học
công nghệ, có kĩ năng nghề nghiệp, có sức khỏe, có niềm tin và lòng tự hào dân tộc, có ý
chí vươn lên, có khả năng tự học, tự rèn, biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn cuộc sống
đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ”.
Để đạt được mục tiêu đó, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường học sinh phải
luyện khả năng suy nghĩ, hoạt động một cách tự chủ, năng động và sáng tạo. Giáo viên

cần từng bước áp dụng phương tiện dạy học tiên tiến hiện đại vào quá trình dạy học, đảm
bảo thời gian tự học và tự nghiên cứu cho học sinh để các em biết ứng dụng những điều
đã học vào thực tế.
I.2. Cơ sở thực tiễn:
I.2.1. Về phía giáo viên:
Từ trước đến nay, trong dạy học Địa lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp
dạy học như phương pháp dùng lời, ảnh. Có thể nói một số không ít giáo viên có tâm
huyết với nghề nghiệp, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn đó sử dụng các phương pháp này
khá tốt, khêu gợi được suy nghĩ, tìm tòi, tự lực của học sinh. Tuy nhiên, cũng không ít
giáo viên còn ít quan tâm tới việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh khi sử dụng
các phương pháp dạy học nói trên.
Trong những năm qua, cùng với việc triển khai cải cách giáo dục, phương pháp
dạy học Địa lí tuy đó có một số cải tiến, chú ý tới việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong quá trình tiếp thu kiến thức bằng cách tăng cường hệ thống câu hỏi có yêu cầu phát
triển tư duy. Nhưng đó chỉ là những câu hỏi do giáo viên nêu ra và giáo viên dẫn dắt đến
đâu thì giải quyết đến đó. Về mặt hình thức, các giờ học đó có vẻ sinh động vì học sinh
tích cực hoạt động. Song nếu theo quan niệm về học tập tích cực thì những giờ học như
vậy chưa thể nói rằng học sinh đã học tập một cách tích cực, bởi hoạt động của học sinh ở
đây mới chỉ là việc trả lời thụ động các câu hỏi của giáo viên chứ bản thân học sinh chưa
có nhu cầu nhận thức, chưa chủ động tìm tòi, suy nghĩ và giải quyết những vấn đề đặt ra
trong bài học.
Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là chưa có sự thống nhất về quan điểm: Thế
nào là đổi mới phương pháp dạy học Địa lí? Chưa có sự triển khai đồng bộ trong các
khâu: Bồi dưỡng giáo viên; đổi mới cách viết sách giáo khoa, sách giáo viên, cơ sở vật
chất kỹ thuật, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá; trong đó chế độ thi cử còn chia ra các
môn “chính phụ” là những trở ngại lớn. Nhiều giáo viên chưa tâm huyết với nghề nghiệp,
chưa đầu tư nhiều vào chuyên môn vì quan niệm môn Địa lí là môn phụ.
Nhìn chung việc sử dụng dụng cụ trực quan đã được đưa vào thực hiện ở hầu hết ở
các trường, đặc biệt từ khi đổi mới sách giáo khoa đến nay, hầu hết các trường đã có
phòng thí nghiệm và rất nhiều đồ dùng dạy học phục vụ cho các bộ môn. Sách giáo khoa

có số lượng kênh hình phong phú màu sắc phù hợp giáo viên có điều kiện phát huy tính
tích cực, sáng tạo, học sinh có hứng thú học tập. Tuy nhiên không phải trường nào cũng
làm được như vậy và việc sử dụng đã thực sự có chất lượng.
Chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề: Hầu hết các giáo viên có mượn dụng cụ trực
quan, trông đó có kênh hình, nhưng chưa thường xuyên, sử dụng còn qua loa, nên vai trò
và chức năng của chúng bị hạn chế rất nhiều mà chương trình lớp 6, chúng là yếu tố
quyết định trong dạy học Địa lý. Đồ dùng trực quan nói chung và kênh hình nói riêng
chất lượng chưa thực sự tốt, hư hỏng nhiều.
Đối với trường THCS An Sinh những năm trước do tình hình chung nên dụng cụ
trực quan còn thiếu quá nhiều, giáo viên đôi khi chuẩn bị không kịp nên chỉ chuẩn bị
được những dụng cụ đơn giản, dụng cụ qua nhiều năm sử dụng hỏng hóc, không còn
chính xác .Vì vậy kết quả dạy và học còn chưa cao. Từ tháng 9/2002 đến nay đã được đổi
mới phương pháp, các dụng cụ trực quan cũng được cung cấp nhiều hơn. Sách giáo khoa
đổi mới có lượng kênh hinh phong phú, nên việc dạy và học cũng có những thuận lợi
đáng kể. Nhiều dụng cụ trực quan nói chung và kênh hình nói riêng rất phong phú, sinh
động gây hứng thú cho học sinh, đặc biệt ở môn Địa lí 6.
I.2.2 Về phía học sinh:
Tổng số học sinh khối 6 là: 113 em 100% học sinh có SGK, vở ghi đầy đủ. Do
quan niệm đây là bộ môn phụ nên học sinh chưa đầu tư thời gian thích đáng cho việc học
tập bộ môn. Phần vì kiến thức Địa lý khá trừu tượng, nhiều mối quan hệ tự nhiên - xã hôị
rất phức tạp, bản chất là một ôn học rất khô khan nên học sinh ít thích học.
Hầu hết các em học mang tính chất đối phó, học Địa lý nhưng chưa hiểu để làm
gì, ứng dụng vào lĩnh vực nào của cuộc sống. Nói như vậy có nghĩa là học sinh chưa hiểu
được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của bộ môn
phần vì giáo viên có lẽ chưa tạo được tình cảm yêu mến bộ môn cho các em, phần vì
nhiều phụ huynh cũng có cùng quan niệm với các em.
Kết quả khảo sát đầu năm:
Lớp Sĩ
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém

sl tl
(%)
sl tl
(%)
sl tl (%) sl tl
(%)
sl tl
(%)
6A 41 2 4,8 10 24,4 20 48,8 9 22,0
6B 32 7 21,9 9 28,1 13 40,6 3 9,4
6C 39 7 18 13 33,3 14 35,9 5 12,8
Tổn
g
112 2 1,8 24 21,4 42 37,5 36 32,2 8 7,1
Vì những lý do trên nên có thể khẳng định kết quả học tập môn Địa lý ở trường
THCS nhìn chung còn chưa cao.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
II.1. Khái quát chung
Phương pháp dạy học trực quanvà sử dung kênh hình là phương pháp sử dụng các
phương pháp trực quan trước, trong và sau khi lĩnh hội kiến thức,tài liệu học tập mới. Sử
dụng các phương tiện trực quan và kênh hình nhằm gợi mở và hướng dẫn học sinh khai
thác các nguồn tri thức và phát triển các năng lực tư duy, sáng tạo cho học sinh.
Phương pháp dạy học sử dụng kênh hình có vai trò rất quan trọng đối với việc dạy
và học Địa lý, đặc biệt là đối với dạy và học môn Địa lý theo phương pháp đổi mới. Kênh
hình vừa là phương tiện để dạy học vừa chứa đựng nguồn tri thức cụ thể cho học sinh
khai thác. Các kênh hình được thể hiện thông qua phương pháp dạy học trực quan, giúp
học sinh hiểu bài nhanh chóng và nhớ lâu hơn, đặc biệt nó gây hứng thú học tập, kích
thích trí tò mò, khả năng sáng tạo của học sinh, làm cho giờ học thêm sinh động.
Vai trò của phương tiện dạy học trực quan và sử dụng kênh hình đối với chức năng
quan trọng nhất là cơ sở hình thành các biểu tượng địa lý và từ biểu tượng để đi đến khái

niệm. Các thiết bị dạy học là điều kiện, phương tiện dạy học không thể thiếu được trong
quá trình dạy học. Đặc biệt trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, thiết bị dạy học lại càng có vai trò
quan trọng, bởi chúng là cơ sở vật chất để giáo viên hướng dẫn học sinh hoạt động và tạo
môi trường hoạt động cho học sinh nhất là trong quá trình thảo luận.
Các thiết bị dạy học Địa lý vừa là nguồn cung cấp kiến thức, vừa là phương tiện
minh họa cho bài học, là nguồn kiến thức khi nó được sử dụng để khai thác kiến thức Địa
lý, là phương tiện minh họa khi nó được sử dụng để minh họa nội dung đã được thông
báo trước đó.
Tính trực quan trong kênh hình tạo cho học sinh có sự tin tưởng vào tính chân thực
của sự vật được quan sát. Tuy nhiên bất kì sự tri giác thực sự nào cũng không thể diễn ra
ngoài điều kiện tư duy tích cực. Nói một cách khác trong dạy học sử dụng kênh hình thì ở
bất cứ hoạt động tri giác nào cũng thống nhất với tư duy trừu tượng. Việc giảng dạy bằng
kênh hình sẽ dễ dẫn tới khái quát hóa, quy nạp.
Như vậy, kênh hình trong dạy học có một chức năng quan trọng: Đó là làm chỗ dựa
cho hoạt động tư duy, phát triển tư duy, phát triển trí tuệ. Kênh hình là một nguồn kiến
thức quan trọng mà trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người học dưới sự tổ chức,
chỉ đạo của giáo viên khai thác tìm hiểu, từ đó những tri thức cần thiết phục vụ cho việc
nhận thức các mối quan hệ, các khái niệm, các quy luật Địa lý. Sử dụng các phương tiện
dạy học Địa lý, yêu cầu giáo viên phải rèn luyện cho học sinh các kĩ năng khai thác tri
thức từ nguồn tri thức khác nhau như bản đồ, bảng thống kê, các số liệu, lát cắt, sơ đồ
hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa và các phương tiện khác. Chính nhờ vào các kĩ
năng đó, học sinh có thể độc lập làm việc với các nguồn tri thức khác nhau để nhận thức
nội dung học tập.
Như vậy, trong dạy học Địa lý còn chú ý nhiều hơn đến chức năng, nguồn kiến
thức của các thiết bị dạy học, tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ, bảng số liệu trong sgk đồng
thời cũng tạo điều kiện để học sinh làm việc với phương tiện này.
Trong điều kiện kênh hình còn chưa được cung cấp đồng bộ, trước mắt người giáo
viên phải biết linh hoạt vận dụng mọi biện pháp, mọi khả năng có thể để xây dựng kế
hoạch hoạt động cho mình, tự thiết kế những đồ dùng đơn giản. Sưu tầm tranh ảnh minh

họa, đặc biệt sử dụng quả địa cầu dạy được rất nhiều bài, cung cấp được rất nhiều thông
tin cho học sinh hoặc vẽ những sơ đồ, hình vẽ trong sách giáo khoa phóng to để sử dụng
và chuyển chúng sang dạng hình vẽ, sơ đồ, lược đồ câm để kiểm tra kiến thức.
Như vậy việc chuẩn bị của giáo viên ở nhà là rất quan trọng, giáo viên phải nghiên
cứu thật kỹ nội dung bài dạy để sáng tạo cho mình những dụng cụ trực quan phù hợp sinh
động nhất.
Đối với kênh hình đã có sẵn chúng ta cần khai thác trịêt để lượng kiến thức cho phép
trong đó phát huy vai trò của chúng và kênh chữ trong một bài học, chú trọng vào chất
lượng dạy và học, lựa chọn phương pháp phù hợp cần kết hợp giữa khai thác, kiểm tra và
rèn luyện kỹ năng,đặc biệt là các kĩ năng sống cho học sinh
Đối với chương trình Địa lí 6 được biên soạn theo tinh thần cung cấp các tình huống,
thông tin đã được lựa chọn. Vậy giáo viên phải tổ chức học tập, phân tích, tổng hợp và xử
lí thông tin, tạo điều kiện cho học sinh trong quá trình học tập vừa tiếp nhận được kiến
thức vừa rèn luyện các kỹ năng và nắm được phương pháp học tập tạo điều kiện tự khám
phá, tự phát hiện, tự tìm đến với kiến thức mới, phát huy tính tích cực, độc lập của học
sinh.
Những tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa không đơn thuần chỉ là minh họa
cho bài giảng mà chúng còn gắn bó hữu cơ với bài học là một phần không thể thiếu được
trong nội dung bài học, trong đó chứa đựng một dung lượng kiến thức của bài học.
II.2. Một số ví dụ cụ thể.
Bài 1 Vị trí, hình dạng, kích thước của Trái Đất.
Phần 1:Vị trí của Trái đất trong hệ Mặt trời.
Nếu chỉ đơn thuần khai thác kênh chữ thì cả giáo viên và học sinh sẽ vô tình bỏ qua
vị trí của Trái Đất trong hệ Mặt trời. Như vậy phần quan trọng nhất trong mục 1 sẽ bị bỏ
qua. Trong phần này kênh hình đã thể hiện đầy đủ nội dung cơ bản của mục 1. Chỉ bằng
một câu hỏi: Quan sát H1 em hãy kể tên 8 hành tinh trong hệ Mặt Trời và cho biết Trái
Đất nằm ở vị trí thứ mấy trong hệ Mặt trời tính theo thứ tự xa dần Mặt trời ?
Học sinh sẽ quan sát H1 và dễ dàng trả lời được yêu cầu của giáo viên,sau đó giáo
viên có thể tổng kết mục 1 như sau:
+)Trái đất là một trong 8 hành tinh của hệ Mặt trời.

+)Trái đất đứng vị trí thứ 3 tính theo thứ tự xa dần Mặt trời.
Như vậy, kênh hình phải được giáo viên sử dụng tối đa, triệt để, để khai thác kiến
thức.
Từ thực tế trên thì công việc chuẩn bị bài giảng ở nhà của giáo viên là tối quan
trọng, mang tính khoa học cao, hình vẽ, sơ đồ, lược đồ phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ quan sát,
câu hỏi phải gãy gọn, hàm ý rõ ràng, kích thích sự tìm tòi, hứng thú học tập của học sinh.
Giáo viên không chỉ đơn thuần dạy bằng những thiết bị có sẵn, mà còn phải sáng tạo ra
những hình vẽ đơn giản, sưu tầm tranh ảnh, minh họa tổ chức hoạt động có hiệu quả, phù
hợp với đối tượng học sinh. Khi dạy giáo viên cần tận dụng việc khai thác kiến thức kết
hợp kiểm tra kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Bài 8 : Sự chuyển động trái đất quanh Mặt Trời .
Phần 1 : Sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời.
*) Khai thác kiến thức: GV yêu cầu HS quan sát hình và cho biết:
- Hướng chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời ?
- Độ nghiêng và hướng nghiêng của trục Trái Đất ở các vị trí :
Xuân phân, Hạ chí, Thu phân và Đông chí?
*) HS quan sát hình rồi trả lời qua đó rèn các kĩ năng: tìm kiếm thông tin, tự tin, trình bày
1 phút…
*) GV chuẩn xác kiến thức (kết hợp với kênh chữ):
- Trái Đất chuyển động một vòng quanh Mặt Trời là 365 ngày 6 giờ trên một quỹ
đạo hình e-lip gần tròn theo hướng từ Tây sang Đông với sự chuyển động tịnh tiến.

Bài 10 : Cấu tạo bên trong của Trái Đất .
Phần 1 : Cấu tạo bên trong của Trái Đất (hình vẽ )
*)Khai thác kiến thức :
- Dựa vào hình trên hãy trình bày cấu tạo bên trong của Trái Đất ?
- Dựa vào bảng SGK/32 trình bày đặc điểm cụ thể từng lớp?
*)HS quan sát hình vẽ dễ dàng phát hiện các lớp cấu tạo nên Trái Đất. Qua đó GV rèn
luyện cho HS các kĩ năng: Quan sát, đọc, trình bày các đối tượng Địa lý trên hình vẽ ?;
HS quan sát bảng trong SGK/32 sẽ trả lời được câu hỏi thứ 2.

*) Như vậy GV chuẩn xác kiến thức cho các em chỉ cần nhắc lại các ý HS vừa nêu ở
trên
Bài 12: Tác động của nội lực và ngoại lực trong việc hình thành bề mặt Trái Đất;
Bài 13,14: Địa hình bề mặt Trái Đất
Đối với bài này Gv có thể sử dụng hình ảnh in sẵn trong sgk mô tả các loại địa hình:
núi, bình nguyên, đồng bằng, núi lửa, động đất.

Cho học sinh quan sát tranh, sau đó đặt câu hỏi, Hs thảo luận về đặc điểm, hình dạng
các loại địa hình. Giáo viên tổng hợp kết quả thảo luận rút ra kết luận chính xác cuối
cùng rồi rút ra nội dung bài học.
Sau mỗi nội dung bài học GV có thể kiểm tra kiến thức HS bằng nhiều hình thức khác
nhau trên cơ sở dựa trên các kênh hình trong SGK hoặc tự làm hay sưu tầm được.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để có được một giờ học sử dụng phương pháp trực quan và sử dụng kênh hình đạt hiệu
quả ,Hs có hứng thú học tập thì theo tôi trong công tác giảng dạy nên làm theo những
nguyên tắc sau:
1. Chuẩn bị bài giảng chu đáo trước khi lên lớp.
2. Bố trí thời gian phù hợp.
3. Khuyến khích HS học tập sáng tạo, chủ động.
4. Hướng dẫn HS phương pháp sử dụng kênh hình không phụ thuộc nhiều vào kênh
chữ.
5. Hướng dẫn HS tự học ở nhà,kết hựp kiến thức đã học vào thực tế sau mỗi bài
học.
Từ thực tế giảng dạy tôi có một vài phương pháp nhỏ và đã thực hiện đạt hiệu quả.
Qua công tác dự giờ đồng nghiệp và thông qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã tìm ra
phương pháp dạy có hiệu quả cao, các giờ học luôn gây hứng thú cho HS, các em hiểu
bài, học tập chủ động, sáng tạo không nặng nề. Học sinh biết ứng dụng kiến thức đã học
vào giải thích những hiện tượng tự nhiên trong đời sống.
Kết quả thưc nghiệm:
Trải qua quá trình dạy học Địa lí 6 ở trường THCS An Sinh kết quả cho thấy:

Về kiến thức: Thông qua quan sát mô hình, hình vẽ, lược đồ, bản đồ tranh ảnh và vận
dụng các mô hình, hình vẽ trong giờ học, học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn, tiếp
nhận thông tin địa lý nhẹ nhàng hơn , kiến thức nắm được vững vàng hơn và buớc đầu
học sinh yêu thích học tập bộ môn hơn, giờ học sôi nổi hơn .
Cụ thể kết quả đạt được trong học kì I năm học 2012-2013:
Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu
sl tl
(%)
sl tl
(%)
sl tl
(%)
sl tl
(%)
6A 41 8 19,5 31 75,6 2 4,9 0 0
6B 33 3 9,1 14 42,4 13 39,4 3 9,1
6C 39 1 2,6 21 53,8 15 38,5 2 5,1
Tổng 113 12 10,6 66 58,4 30 26,6 5 4,4
Về kĩ năng: Học sinh đã sử dụng tương đối thành thạo các kĩ năng địa lý như: Quan sát,
mô tả, phân tích, nhận xét và trình bày các đối tượng địa lý, biết lập những sơ đồ đơn
giản, biết vận dụng kiến thức đã học để tìm hiểu thiên nhiên môi trường xung quanh, bổ
sung kiến thức địa lý cho mình. Giải thích được các hiện tuợng tự nhiên đơn giản và vận
dụng vào thực tế đời sống sản xuất tại địa phương.
Rèn luyện cho học sinh khả năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin địa lý; rèn các kĩ
năng sống: tìm kiếm và xử lí thông tin, so sánh, phán đoán, tự tin, tự nhận thức, làm chủ
bản thân, phản hồi, lắng nghe tích cực, trình bày 1 phút…
Về thái độ tình cảm : Học sinh yêu thích học tập bộ môn, yêu mến thiên nhiên, từ đó
có ý thức bảo vệ thiên nhiên môi trường; có niềm tin vào khả năng của con người để
chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên để phục vụ cuộc sống.Từ đó các em có ý thức bảo
vệ môi trường xung quanh “Xanh - Sạch - Đẹp” môi trường sống trong lành. Giữ gìn vệ

sinh trường, lớp, có ý thức chăm sóc và bảo vệ cảnh quan trường học.
IV. KẾT LUẬN
Phương pháp dạy học trực quan và sử dụng kênh hình là phương pháp dạy học tích
cực, cơ bản nhất trong dạy học địa lý .
Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tạo hứng thú học tập địa lý, nắm
được phương pháp học tập môn Địa lý. Học sinh có thể tự khai thác, tìm tòi kiến thức để
bổ sung cho nguồn tri thức Địa lý của mình thêm phong phú tránh lối học thuộc lòng, tạo
nên những năng lực cần thiết để sau này học sinh trở thành người lao động sáng tạo, năng
động, hòa nhập với nhịp sống hiện nay .
Việc sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý 6 là một vấn đề quan trọng vì chương
trình Địa lý 6 mang tính cung cấp thông tin, thông qua các hình vẽ, sơ đồ và một số lược
đồ đơn giản.
Kênh hình trong SGK Địa lý 6 khá hoàn chỉnh, mang nhiều lượng kiến thức cơ bản
của bài học, có mối quan hệ hữu cơ với bài học. Như vậy kênh hình sách giáo khoa Địa
lý 6 phải được sử dụng tối đa để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức.
V. ĐỀ NGHỊ
Trong điều kiện đổi mới phương pháp dạy học hiện nay việc sử dụng đồ dùng dạy
học là không thể thiếu. Các thiết bị dạy học cần được cung cấp đầy đủ, đồng bộ và có
chất lượng hơn. Tạo điều kiện cho GV có nhiều thời gian vào việc nghiên cứu các tài liệu
khác phục vụ việc giảng dạy tốt hơn.
Về phía giáo viên cũng cần đề cao vai trò dạy học kênh hình, sử dụng đồ dùng dạy học
thường xuyên, nghiêm túc, triệt để, sáng tạo nhằm đưa chất lượng dạy - học ngày một cao
hơn.
Tóm lại : Phương pháp dạy học trực quan trong địa lý và việc sử dụng kênh hình
trong dạy học Địa lý 6 là phương pháp tối ưu cho giáo viên. Đồi hỏi giáo viên phải vận
dụng sáng tạo vào từng chương, từng bài, từng tiết học sao cho phù hợp nhằm phát huy
ưu thế của phương pháp này và nâng cao tính khoa học trong dạy học Địa Lý .
Trên đây là những ý kiến chủ quan của cá nhân tôi từ thực tiễn giảng dạy.
Chắc còn nhiều thiếu sót, nhiều điểm chưa hợp lý. Rất mong được đồng nghiệp đóng góp
ý kiến, cùng xây dựng một phương pháp dạy học hoàn thiện hơn, phù hợp thực tế địa

phương hơn nữa. Mục đích nhằm nâng cao chất lượng Dạy - Học bộ môn Địa lí 6 trong
nhà trường THCS với yêu cầu phát triển của sự nghiệp Giáo dục và của đất nước .

Xin chân thành cảm ơn !
An Sinh, ngày 0 3 tháng 01 năm 2013.
Người viết


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý luận dạy học địa lý phần đại cương .
2. Lý luận dạy học địa lý phần cụ thể .
3. Sách giáo khoa Địa Lý 6.
4. Sách giáo viên Địa Lý 6.
5. Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng môn Địa lí THCS.
6. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Địa lí ở trường THCS.

×