Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.45 KB, 7 trang )

I/GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ.
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lí xã hội một cách hữu hiệu nhất.
Có nhiều hình thức khác nhau để giai cấp thống trị có thể thể hiện ý chí của mình
thành pháp luật như tập quán pháp, tiền lệ pháp, và văn bản pháp luật.Trong đó văn
bản pháp luật là phương tiện chủ yếu,tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu
lực,hiệu quả quản lí nhà nước. Vấn đề tính khả thi của luật phải được đặt ra và xem
xét kỹ lưỡng khi quyết định đưa dự án luật vào chương trình hàng năm.Vì vậy cần
xây dựng các tiêu chí về tính khả thi để thẩm định dự án luật có đủ điều kiện đưa
vào chương trình hay không.Từ thực tiễn ban hành luật có thể nêu một số điều kiện
để đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp luật.
II/GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Trong văn bản pháp luật, tính khả thi thường được đánh giá ở sự phù hợp
giữa nội dung văn bản với các điều kiện kinh tế xã hội hiện tại.Sự phù hợp này
phản ánh rất rõ mối tương quan giữa trình độ pháp luật với trình độ phát triển kinh
tế xã hội.Nếu văn bản phản ánh chính xác kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực
tiễn,chứa đựng những nội dung phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế xã hội
và yêu cầu của quản lí nhà nước sẽ tạo ra những “đòn bẩy” tăng trưởng kinh tế,xã
hội góp phần thúc đẩy,tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.Trường hợp văn bản
không phù hợp,không phản ánh đầy đủ các hướng vận động của đời sống xã
hội,với những quy định cao hoặc lỗi thời,sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế,xã
hội,là nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả của quản lí nhà nước.Do vậy,yêu cầu đặt
ra là văn bản pháp luật phải vừa phản ánh được những quy luật chung về sự phát
triển của xã hội,vừa phản ánh được những quy luật mang tính đặc thù trong từng
giai đoạn,từng lĩnh vực.
1/Xác định rõ phạm vi điều chỉnh.
1
Khi đạo luật đưa vào chương trình xây dựng pháp luật thì trước hết phải xác
định rõ ràng, dứt khoát phạm vi điều chỉnh của dự án. Không thể vừa làm vừa bổ
sung hay cắt xen phạm vi điều chỉnh. Vì phạm vi điều chỉnh liên có tác động trực
tiếp đến tính khả thi. Có luật lớn phạm vi điều chỉnh rộng. Có luật điều chỉnh mối
quan hệ xã mới hình thành, chưa thực sự ổn định. Có luật sửa đổi bổ sung một số


điều nhằm tới các mối quan hệ xã hội cụ thể. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải
xác định rõ phạm vi điều chỉnh ngay từ khâu soạn thảo. Trong nhiều trường hợp
khi trình ra QH hay UBTVQH cho ý kiến mà phạm vi điều chỉnh chưa xác định rõ
hoặc lại tiếp tục có sự điều chỉnh như Dự án luật Người khuyết tật; Nghị quyết sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 66/2006/QH11 về công trình, dự án
quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư… Sự thay đổi
phạm vi điều chỉnh như vậy có thể sẽ đưa dự án trở về vị trí ban đầu, rất mất thời
gian trách nhiệm của từng chủ thể. Các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật dễ
dàng lợi dụng, né trách các quy định không có lợi cho mình. Đây cũng là một yếu
tố cần phải khắc phục ngay trong soạn thảo.
2.Quy định rõ trách nhiệm
Vấn đề này cũng rất quan trọng quyết định tính khả thi của một đạo luật.
Các lĩnh vực hình sự, dân sự, thuế… là những lĩnh vực được luật điều chỉnh rất cụ
thể từng đối tượng. Trong các đạo luật này xác định rất rõ quyền lợi, trách nhiệm,
nghĩa vụ các bên khi tham gia quan hệ pháp luật và luôn có công cụ cưỡng chế đi
theo trực tiếp. Những đạo luật như vậy không thể nói tính khả thi thấp.
Những dự án mới, những lĩnh vực mới được pháp luật điều chỉnh như quyền
tác giả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, vệ sinh an toàn thực phẩm… vẫn có chỗ
chưa xác định rõ quyền, nghĩa vụ các bên tham gia quan hệ pháp luật và các chế tài
đi kèm nên tính khả thi yếu. Trong triển khai thực hiện sẽ khó khăn, lúng túng.
Các cơ quan liên quan trong phối hợp thực thi luật thường đổ lỗi cho hệ thống pháp
2
luật không đầy đủ, rõ ràng, không quy định trách nhiệm của từng chủ thể. Các đối
tượng chịu sự điều chỉnh của luật dễ dàng lợi dụng, né trách các quy định không có
lợi cho mình. Đây cũng là một yếu tố cần phải khắc phục ngay trong soạnthảo.
3. Xây dựng quy phạm pháp luật cụ thể
Luật càng quy định cụ thể thi tính khả thi càng cao. Quy đinh cụ thể thì
không qua khâu trung gian hướng dẫn thi hành; không phải chờ đợi, phải
đốichiếu,phải cân nhắc hiệu lực pháp lý...
Trong thực thi luật, các đối tượng thi hành phải tìm đến văn bản hướng dẫn

để thực hiện. Trong khi có tranh chấp, xung đột pháp luật, Toà án phải căn cứ vào
văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất để phân xử. Vì vậy, nếu quy định của luật
không cụ thể, chưa có hướng dẫn hoặc hướng dẫn mâu thuẫn thì sẽ rất khó cho
hoạt động áp dụng pháp luật. Dẫn đến xử lý tranh chấp bế tắc hoặc kéo dài tranh
chấp mà không rõ hồi kết. Điều này làm giới hạn tính khả thi của luật.
Trong một số lĩnh vực xây dựng pháp luật, các quan hệ xã hội do đạo luật đó
điều chỉnh thay đổi, phát triển nhanh. Vì vây, quy định cụ thể trong nhiều trường
hợp sẽ khó khăn trong triển khai thực hiện và sớm phải sửa đổi bổ sung. Tuy
nhiên, điều này chỉ đúng với một số trường hợp cụ thể và không thể lạm dụng. Nó
không còn đúng với xu thế lập pháp hiện nay. Nhất là đòi hỏi quyết liệt của
ĐBQH, các cơ quan của QH và từ thực tiễn thi hành luật.
4.Chế tài ràng buộc đủ mạnh
Điều quan trọng để luật thực thi là phải có chế tài răn đe, ràng buộc trách
nhiệm khi vi phạm các quy định của luật. Luật hình sự, dân sự, hành chính và một
số luật về kinh tế thường có chế tài ràng buộc trực tiếp. Các đạo luật khác thường
không có chế tài ràng buộc đi theo mà đưa ra quy định chung, viện dẫn các chế tài
hình sự, hành chính “Tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phát hành
chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự...”.
3
Không có chế tài thì vi phạm luật không bị xử lý hoặc xử lý chung chung,
căn cứ vào các văn bản liên quan. Trong thực tế, nhiều văn bản xử lý liên quan lại
quá lạc hậu với thực tiễn phát triển như vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề bảo
hiểm, lao động... Mặt khác, trong nhiều trường hợp quy định không rõ trách nhiệm,
người thi hành công vụ chưa thực hiện đúng quy định về thời gian, thẩm quyền…
làm thiệt hại đến quyền lợi của công dân, dẫn đến tình trạng nhờn luật, xem thường
pháp luật.
Mới đây QH đã ban Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Đây là một
bước tiến rất lớn trong hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nâng cao trách nhiệm của
cán bộ, công chức và góp phần tăng cường tính khả thi của các đạo luật. Tuy
nhiên, trong mỗi dự án luật cần thiết xác định chế tài ràng buộc cụ thể bảo đảm bất

kể ai vi phạm phải bị xử lý tương xứng.
5. Trách nhiệm liên quan trong quá trình soạn thảo
Theo nội dung của dự án luật, một dự án luật thường do một cơ quan soạn
thảo và thẩm tra. Tuy nhiên, có dự án luật do nhiều cơ quan phối hợp soạn thảo và
thẩm tra vì phạm vi điều chỉnh liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Mỗi
ngành quản lý một khâu, một lĩnh vực. Nếu các bộ ngành liên quan không tập
trung giải quyết thấu đáo trong quá trình soạn thảo, không làm rõ trách nhiệm phối
hợp của các ngành thì quy định khập khiễng, thiên về lợi ích cục bộ, tính khả thi
thấp. Tình trạng này dẫn đến trong triển khai có nhiều vương mắc, đùn đẩy, lung
túng không rõ trách nhiệm chính.
Mới đây, ngay trong phiên họp của UBTVQH cho ý kiến về dự án Luật
Trọng tài thương mại có nhiều vấn đề liên quan đến thẩm quyền hoạt động của Toà
án nhưng lại không có đại diện của Toà án tham dự. Đây là một thiếu sót ngay
trong phối hợp chuẩn bị. Điều này cũng sẽ sớm bộc lộ trọng thực tiễn thi hành luật.
Việc thực thi Pháp lệnh về vệ sinh, an toàn thực phẩm cũng là một ví dụ. Mặc dù
Pháp lệnh quy định trách nhiệm của Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ nông nghiệp và
4
phát triển nông thôn nhưng trong hoạt động còn chồng chéo khiến cho việc thực
hiện không mấy hiệu quả và có sự đùn đẩy trách nhiệm.
Các yếu tố bảo đảm tính khả thi ngay trong quá trình chuẩn bị dự án luật gắn
chặt với quy trình xây dựng ban hành văn bản pháp luật. Các yếu tố này có thể xem
là tiêu chí đánh giá chất lượng dự án. Và QH cần thiết đánh giá chất lượng chuẩn
bị dự án của các cơ quan soạn thảo. Làm rõ trách nhiệm của các cơ quan này trong
mỗi bước của quy trình lập pháp. Đây là một bước đổi mới hoạt động. Đổi mới bắt
đầu ngay từ khâu soan thảo.
III/KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Để có thể đánh giá đúng đắn về chất lượng của văn bản pháp luật và hoạt
động xây dựng văn bản pháp luật cần dựa vào những tiêu chí khoa học mang tính
khách quan và toàn diện.Nội dung của những tiêu chí đó chính là những chuẩn
mực khoa học,đòi hỏi phải được đáp ứng thì văn bản pháp luật và hoạt động xây

dựng mới có tính hiệu quả.Trên đây là những điều kiện cần thiết để đảm bảo tính
khả thi của văn bản pháp luật.
5

×