Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số kinh nghiệm khi giảng dạy bài đội ngũ từng người không có súng (Động tác đi đều, đứng lại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.25 KB, 16 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận.
- Giáo dục Quốc phòng - An ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân, là môn học chính khoá trong chương trình giáo dục của cấp THPT.
- Môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh góp phần vào giáo dục toàn diện cho
học sinh về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng
đối với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch; có kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự
nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
- Nhằm để nâng cao được chất lượng giáo dục trong nhà trường. Theo Quyết
định số 16/2006 QĐ - BGDDT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã
nêu "phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc trưng môn học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh". Chính vì vậy chúng ta không thể nhồi nhét vào đầu
óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều mà chúng ta phải chú trọng
đến phương pháp rèn luyện cho học sinh một kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì
sẽ tạo ra cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
- Trong một lớp học trình độ kiến thức, tư duy của học sinh thường không
đồng đều, vì vậy khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc phải chấp
nhận sự phân hoá về cường độ, mức độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập,
nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi hoạt động độc lập. Áp dụng
phương pháp dạy học tích cực càng cao thì sự phân hoá càng lớn.
- Tuy nhiên trong học tập không phải mọi trí thức, kỹ năng, thái độ đều được
hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao
tiếp thầy- trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập.


- Là giáo viên môn QP-AN là phải dạy cả nội dung lý thuyết lẫn thực hành.
Chính vì vậy điều mà tôi quan tâm nghiên cưu ở đây là làm thế nào để có một
phương pháp dạy học tốt nhất cho bài: Đội ngũ từng người không có súng: tiết
12. động tác đi đều đứng lại.
- Đối với học sinh lớp 10 không chỉ rèn luyện tốt cho các em về kĩ năng quân
sự mà còn giáo dục cho học sinh hiểu về truyền thống đánh giặc giữ nước của
ông cha ta. Để các em có lòng tự hào về truyền thồng dân tộc Việt Nam " Dựng
nước đi đôi với giữ nước". Đặc biệt là xây dựng cho học sinh về ý thức trách
nhiệm của bản thân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời đại
mới. Vì vậy trong mỗi bài dạy tôi phải thường xuyên nghiên cưu áp dụng một
phương pháp cho phù hợp với nội dung bài học để học sinh phát huy hết khả
1
năng của mình để đạt kết quả cao nhất.
2. Cơ sở thực tiễn.
Căn cứ vào mục tiêu của môn học và nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên.
Dựa vào kết quả học tập của những năm trước tôi nhận thấy năng lực và sự đam
mê môn QP-AN không phải chỉ ở mức độ như vậy. Mà ở đây ta chưa vận dụng
một phương pháp phù hợp đối với đối tượng học sinh nên dẫn đến chất lượng
chưa cao.
Đối với nội dung bài : "Đội ngũ từng người không có súng" cụ thể là ở tiết
12 với 08 đơn vị kiến thức trong một tiết học, mà đây là nội dung thực hành,
giáo viên chỉ cần giới thiệu và thị phạm động tác với 08 nội dung trên ít nhất
cũng hết 1/3 thời gian của một tiết học thời gian còn lại tổ chức hướng dẫn học
sinh tập luyện .
Đối với bài này học sinh không chỉ thực hành các động tác mà các em còn
phải thực hiện cả khẩu lệnh sao cho khớp với động tác ở nội dung đi đều, đứng
lại, đổi chân chỉ trong một tiết (45 phút). Thông thường khi ta dạy bài này giáo
viên thị phạm rồi tổ chức cho học sinh tập luyện theo ba bước hoặc là giáo viên
hô khẩu lệnh cho học sinh tập từ 3 đến 5 lần rồi chia nhóm cho học sinh tập
luyện. Cả hai kiểu này đều dẫn đến kết quả không cao thậm chí có những em

không hề thực hiện được động tác chứ không nói đến hô cả khẩu lệnh và thực
hiện động tác.
- Kết quả điều tra của những năm trước
Năm học Kết quả kiểm tra khi chưa áp dụng Ghi chú
Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém %
2008 - 2009 02 % 10 % 45% 35 % 08 %
2009 - 2010 04 % 12 % 50 % 30 % 04 %
2010 - 2011 06 % 22% 54 % 16 % 02 %
- Những sai lầm học sinh thường mắc phải khi học bài này:
+ Về khẩu lệnh: khi hô hẩu lệnh học sinh có thói quen là "Giậm chân tại chổ -
Giậm" như vậy khẩu lệnh ở đây đã bị sai đó là dự lệnh thừa hai từ " tại chổ"
- Về động tác: Khi nghe dứt động lệnh "Giậm" học sinh không nhấc chân trái
lên ngay, mà thường nhấc chân chậm hơn khi có nhịp một thì mới nhấc chân và
đánh tay, như vậy đông tác đã bị sai một nhịp.
Cũng như thông qua những đợt điều tra tại các trường giáo viên đều nhận
định ở bài này số học sinh đạt được từ trung bình trở lên chỉ được 45- 50%.
Đối với bài này một thực tiễn chúng ta nhìn thấy rất rõ qua đợt học chuyên
đề năm 2012 tại Trường Dân tộc nội trú tỉnh. Đó là vẫn còn nhiều giáo viên
chưa thực sự vững về kỹ năng động tác.
Trên cơ sở đó trong những năm gần đây, đặc biệt là trong năm học 2012 -
2013 nội dung Điều lệnh đội ngũ sửa đổi, bổ sung được áp dung vào các nhà
trường. Tôi luôn tập trung nghiên cứu và áp dụng một số phương pháp giảng
dạy trong bài này và cũng đã đạt được những thành quả nhất định trong trường.
Cũng từ những kết quả này trong những năm vừa qua đã tạo ra cho học sinh
2
trong trường một sự đam mê mỗi khi học môn Quôc phòng để các em lại được
hiểu thêm về ý nghĩa truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta, về sức
mạnh của Quân đội nhân dân Viêt Nam.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Để đáp ứng nhu cầu, nhiêm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xuất phát từ
quan điểm " Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "Quần chúng nhân dân là
người sáng tạo nên lịch sử Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ chí Minh, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, Đảng và
nhà nước ta cần phải trú trọng xây dựng công tác giáo dục quốc phòng cho mọi
tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ , học sinh trong các trường phổ thông.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế hệ trẻ Việt Nam là lực lượng có sức khoẻ,
hăng say, sáng tạo và lòng nhiệt tình cách mạng. Họ không chỉ là đội quân xung
kích, là người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân mà
còn là người chủ tương lai của đất nước. Người chỉ rõ: "Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một
phần lớn do các thanh niên". Để hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang
đó. Trước hết thế hệ trẻ phải được học tập rèn luyện, để họ kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng, thành những người vừa "hồng", vừa "chuyên". Muốn làm
được như vậy cần quán triệt những nội dung sau:
Một là: Phương châm giáo dục phải toàn diện, cụ thể, thiết thực và phù hợp
để các thế hệ thanh niên phát triển toàn diện, có đạo đức, có tài năng, đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Xây dựng tinh thần yêu
nước và yêu chủ nghĩa xã hội để thanh niên có một lý tưởng sống cao đẹp, tổ
chức hoạt động thực tiễn và thực sự xung kích trong mọi mặt trận.
Hai là: " Thanh niên phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng" bởi đạo đức
cách mạng là cái gốc, là cái nền tảng của người cách mạng. Bồi dưỡng đạo đức
cách mạng gắn liền với chống các thói hư tật sấu, chống chủ nghĩa cá nhân. Vì
chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác cúa đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã
hội.
Ba là: Trong giáo dục thế hệ trẻ phải có cách thức giáo dục phù hợp, thực
hiện cho được lý luận với thực hành, học tập kết hợp với sản xuất, lao động trí
óc kết hợp với lao động chân tay Thông qua thực tiễn, qua lao động và đấu

tranh cách mạng thì thế hệ trẻ mới không ngừng tiến bộ và trưởng thành.
Bốn là: Nhiệm vụ bồi dưỡng, rèn luyện thanh, thiếu niên là trách nhiệm của
toàn Đảng, của mọi cấp, mọi ngành. Nhưng chủ yếu là các trường phổ thông ,
đây là môi trường văn hoá tích cực, thuận lợi nhất trực tiếp giáo dục hình thành
nhân cách của thanh niên, để thanh niên phát huy vai trò xung kích, sáng tạo
trong mọi nhiệm vụ.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định hàng triệu thanh niên đã và
đang thực hiện xuất sắc vai trò của mình, đi đầu trên mọi mặt trận
3
Đặc biệt trong tình hình đất nước hiện nay, đang có nhiều các đối tượng thù
địch, chúng lợi dụng nhân dân ta bằng nhiều con đường , nhằm chia rẽ sự đoàn
kết của dân tộc cũng như gây mất lòng tin giữa nhà nước với nhân dân.
Chính vì vậy năm 1961 môn huấn luyện quân sự đã được đưa vào nhà trường
phổ thông và đã trở thành một môn học chính khoá.
Năm 1966 chương trình " huấn luyện quân sự" cho các cấp học đã được ban
hành và thực hiện thống nhất trong các nhà trường. Sau một thời gian triển khai
giảng dạy, nó đã trở thành một môn học quan trọng và được gọi là"Huấn luyện
quân sự phổ thông"
Năm 1980, trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng, mục tiêu nội dung
chương trình" huấn luyện quân sự phổ thông" đã được nghiên cứu thay đổi cho
phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Năm 1983 Bộ Quốc phòng đã ban hành một chương trình giáo dục quốc
phòng mới gồm: Huấn luyện phổ thông bậc một áp dụng cho các trường phổ
thông cơ sở và THPT, Huấn luyện quân sự bậc hai áp dụng cho các trường ĐH,
CĐ- THCN- DN.
Năm 1989, thực hiện chủ trương đổi mới đào tạo nói chung và GDQP nói
riêng, chương trình "huấn luyện quân sự phổ thông" được tiếp tục nghiên cứu
cải tiến, vì thế chất lượng dạy và học được nâng lên một bước. Thuật ngữ "Huấn
luyện quân sự phổ thông" được thay bằng Giáo dục quốc phòng, với hàm ý rộng
hơn, phù hợp hơn với nội dung môn học.

Ngày 28/10/1991, Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành một chương trình
Giáo dục quốc phòng mới cho các nhà trường bậc trung học phổ thông đến bậc
đại học.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác giáo dục quốc phòng trong
tình hình mới, theo định hướng tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo, kế thừa
những kinh nghiệm tốt và khắc phục những nhược điểm của chương trình giáo
dục quốc phòng trước đây.
Ngày 09/05/2000 Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành chương trình giáo
dục quốc phòng mới theo quyết định số 12/200QĐ- BGD & ĐT. Đây là chương
trình giáo dục quốc phòng tương đối đồng bộ có tính kế thừa không trung lập,
phù hợp với từng loại hình đào tạo.
Thực hiện chương trình đổi mới phương pháp dạy học, theo quyết định số
16/2006-BGD&ĐT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục đã nêu: phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú và trách nhiệm học tập của học sinh.
Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới của đất nước công tác giáo dục
quốc phòng ở trường phổ thông tiếp tục được đổi mới.
Căn cứ vào quyết định số 79/ 2007 / QĐ- BGD & ĐT môn giáo dục quốc phòng
được đổi tên thành "Giáo dục Quốc phòng - An ninh" cho phù hợp với điều kiện
4
phát triển của đất nước.
Đảng và nhà nước Việt Nam xác định Giáo dục Quốc phòng - An ninh là
một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là môn học chính khoá trong
chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông. Nhằm góp phần giáo dục toàn
diện cho học sinh về lòng yêu nước và giữ nước của dân tộc ta, của lực lượng vũ
trang và nhân dân ta. Trên cơ sở đó, nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức trách

nhiệm của công dân, tích cực hoạt động góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Do xác định rõ vị trí, vai trò của môn học, chương trình Giáo dục quốc
phòng - An ninh luôn được cải thiện, đổi mới đáng kể cho phù hợp với thực tiễn,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và của ngành giáo dục. Năm
1991 chương trình giáo dục quốc phòng được ban hành đã có những thay đổi
lớn về tên gọi, kết cấu nội dung giảm bớt phần thực hành kỹ năng quân sự cho
phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình. Chương trình Giáo dục
quốc phòng năm 2000 tiếp tục được sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên kiến thức về an
ninh chưa được quy định cụ thể.
Để đảm bảo hoà nhập trong quá trình đổi mới giáo dục ở cấp trung học phổ
thông. Ngày 05 tháng 5 năm 2006 Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành
quyết định số 16/2006 QĐ- BGD & ĐT về chương trình phổ thông cầp trung
học phổ thông, trong đó có môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh với thời
gian 35 tiết cho mỗi lớp học, 105 tiết cho cả cấp học, đáp ứng yêu cầu tổ chức
dạy học theo phân phối chương trình.
Thực hiện sự chỉ đạo của chính phủ, tại nghị định 116/2007/NĐ - CP về
Giáo dục Quốc phòng - An ninh ngày 24/12/2007 Bộ giáo dục và đào tạo ra
quyết định ban hành chương trình Giáo dục Quốc phòng - An ninh cấp trung học
phổ thông đã đánh dấu bước hoàn thiện cả về nội dung, hình thức trong quá
trình phát triển của môn học.
Trên cơ sở chương trình toàn cấp, chương trình môn học Giáo dục quốc
phòng - An ninh là một chiến thuật quân sự cũng như những hiểu biết về phòng
không nhân dân, phục vụ trực tiếp cho việc sẵn sàng tham gia các lực lượng vũ
trang bảo vệ tổ quốc, nôi dung chương trình đã được lựa chọn phù hợp với khả
năng tư duy, khả năng hoạt động thực tiễn theo lứa tuổi và điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội của đất nước.
Hệ thống kiến thức trong chương trình môn học được cấu trúc theo hệ
thống hình bậc thang từ thấp đến cao, lớp 12 là lớp cuối cùng trong chương trình
phổ thông. Trong nội dung kiến thức lý thuyết và thực hành đều có tính độc lập

tương tác, song tổng hợp của mỗi lớp sẽ tạo cho học sinh một mảng kiến thức
tương đối cơ bản về Quốc phòng - An ninh, cấu trúc lại nội dung chương trình
môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh lớp 12 theo đúng tính chất bộ môn.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Điều lệnh đội ngũ sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã góp phần chuyển biến
thêm một bước về sự trang nghiêm, hùng mạnh của quân đội nhằm đáp ứng yêu
5
cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Điều đó đã được thể hiện trong Đại lễ kỉ niệm 1000 năm
Thăng Long- Hà Nội. Tuy nhiên trong thời gian qua khi đưa vào giảng dạy nội
dung điều lệnh đội ngũ sửa đổi bổ sung, gặp rất nhiều những khó khăn.
Khi giảng dạy đang còn bị nhầm lẫn giữa động tác điều lệnh cũ và điều lệnh
sửa đổi bổ sung.
2.1. Thuận lợi:
Đối với trường trung học phổ thông Lam Kinh là một ngôi trường có bề
dày về thành tích trong những năm vừa qua, đặc biệt là về chất lượng giáo dục,
được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát. Đối với đội ngũ giáo viên 100% đạt
chuẩn và trên chuẩn, có chuyên môn vững vàng, nhiệt tình với công việc.
Đối với môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh. Nhà trường cùng các cấp
lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Như cử đi bồi dưỡng về
chuyên môn, thực hiện đảm bảo các chế độ đối với giáo viên và học sinh trước
trong các kì thi học sinh giỏi.
Điều kiện sân bãi, dụng cụ luôn được nhà trường quan tâm mua bổ sung
đảm bảo cho môn học.
2.2. Khó khăn
- Đối với giáo viên
+Về chủ quan
Đội ngũ giáo viên Giáo dục quốc phòng - An ninh là những giáo viên được
đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất sang. Tuy đã được đào tạo bồi dưỡng
và tập huấn hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực mới, kiến thức lại khá rộng

nhiều nội dung trái ngược nhau, thời gian bồi dưỡng của giáo viên lại ngắn nên
đã gặp không ít những khó khăn trong khi giảng dạy.
+Về khách quan:
Thiết bị dụng cụ không đảm bảo hỏng nhiều.
Sân bãi không đảm bảo sau khi mưa một hai ngày sân vẫn lầy lội.
Trong khi đang học thực hành gặp phải những buổi trời mưa, thâm chí mưa
kéo dài trong nhiều ngày, nên ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập.
- Đối với học sinh
Do các em sinh ra và lớn lên trong thời bình, do yêu cầu vệ lượng kiến thức
của các môn học nhiều, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của bộ môn.
Do một bộ phận không nhỏ của học sinh và phụ huynh còn ngộ nhận coi
đây là môn học phụ nên dẫn đến ý thức học tập kém.
Dụng cụ trang thiết bị tuy được cấp tương đối đầy đủ nhưng một sồ thiết bị
không đảm bảo chất lượng nên đã bi hỏng như máy bắn TEC 1, súng AK tập
(composite). Vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học
sinh.
Những hạn chế nêu trên có rất nhiều nguyên nhân sâu xa: như giáo viên
chưa thực sự quan tâm đến việc học sinh học tập, chưa nhắc nhở đôn đốc học
sinh học tập, chưa áp dụng phương pháp hợp lý Song nguyên nhân chính vẫn
là do bản thân từng cá nhân học sinh chưa tích cực rèn luyện, trong quá trình học
6
tập còn nô đùa làm việc riêng Để khắc phục những hạn chế này. Nhằm nâng
cao chất lượng về nội dung của bài này cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
2.3 Nôi dung nghiên cứu
1. Một số kinh nghiệm trong giảng dạy bài đội ngũ từng người không có
súng
Tiết 12: Động tác đi đều, đứng lại, đổi chân: động tác dậm chân, đổi chân
khi đang dậm, dậm chân chuyển thành đi đều
a. Đối tương:
Học sinh lớp 10b1, 10b2, 10b3 trường THPT Lam Kinh.

b. Phạm vi:
Động tác đi đều, đứng lại.
III. CÁC GIẢI PHÁP.
1. Phương pháp nghiên cứu .
a. Giáo viên chuẩn bị.
- Nghiên cứu về lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến phương
pháp đổi mới giáo dục, đặc biệt là phương pháp dạy thực hành.
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến môn học
- Nghiên cứu tâm lý lứa tuổi của học sinh.
- Lấy xác suất về vận dụng phương pháp này đối với học sinh.
Căn cứ vào thực trạng của vấn đề để giáo viên nghiên cứu vận dụng
phương pháp cho phù hợp với đối tượng học sinh.
Đây là một nội dung mới sửa đổi bổ sung người giáo viên không những
chỉ thực hành đúng về động tác, mà phải biết hô khẩu lệnh sao cho đúng với
nhịp độ của động tác. Vậy đòi hỏi giáo viên phải thuần thục về kỹ năng khẩu
lệnh và kỹ năng động tác thì mới giảng dạy tốt được cho học sinh.
Giáo viên thị phạm động tác không những chỉ cho học sinh quan sát học
theo, mà người giáo viên phải biết sử dụng linh hoạt trong các tình huống, để
làm nổi bật lên ý nghĩa sâu sắc của điều lệnh đội ngũ, về sức mạnh của quân đội
nhân dân Việt Nam. Từ đó mới khơi dậy được lòng tự hào của mỗi học sinh khi
học môn Quốc phòng - An ninh. Đây củng là cái mốc để học sinh cần phấn đấu
để đạt được trong học tập và rèn luyện ý trí, tinh thần của con người Việt Nam.
2. Giải pháp thực hiện:
2.1. Đối với học sinh.
- Học sinh hiểu được mục đích và ý nghĩa của động tác đi đều, đứng lại.
- Học sinh hiểu rõ về nguyên lý kỷ thuật động tác.
- Học sinh hiểu được ý nghĩa của khẩu lệnh đối với động tác khi đi đều.
Nhìn về tổng quát của nội dung này chúng ta thấy không có gì là khó khăn
đối với người học, nhưng trong thực tế khi giảng dạy chúng ta mới thấy nảy sinh

ra nhiều vấn đề đối với người học. Như khẩu lệnh không khớp với động tác,
động tác đánh tay sai Chính vì vậy giáo viên phải đưa ra được những phương
pháp hợp lý để học sinh có thể nhanh chóng tiếp thu được kiến thức cũng như
không bị nhàm chán trong khi học tập.
7
Giáo viên phải nêu rõ mục đích ý nghĩa, tác dụng của khẩu lệnh đối với
động tác đối với người học.
- Về khẩu lệnh:
+ Là sự thống nhất về ý trí, về hành động
+ Là sự thể hiện của sức mạnh quân đội.
+ Giúp người học chủ động tích cức trong khi thực hiện động tác.
+ Giúp người học phát hiện ra động tác đang thực hiện đúng hay sai.
- Về động tác:
+ Thể hiện tính nghiêm minh, tính kỹ luật của quân đội .
Để đảm bảo được thời gian và nội dung bài học ở tiết học này, nếu giao cho
học sinh tự nghiên cứu rồi giáo viên tổ chức tập luyện thì khó có thể đảm bảo
được thời gian cũng như học sinh tiếp thu được động tác. Chính vì vậy ở nội
dung này giáo viên nên tổ chức tập luyện đồng loạt.
Để đảm bảo được tính hiệu quả trong tập đồng loạt giáo viên phải chia nhỏ
động tác từ dễ đến khó.
Trong tiết 12 chúng ta có tới 8 nội dung cả 8 nội dung đều là bài mới. Vậy
trong 8 nội dung này ta xác định động tác đi đều, đứng lại là nội dung chính của
bài học.
Đối với bài điều lệnh đội ngũ học sinh muốn đảm bảo các nội dung trong
bài thì nội dung đi đều đứng lại học sinh phải thực hiện thuần thục cả về khẩu
lệnh và động tác thì các nội dung tiếp theo mới có thể thực hiện được.
2.2. Đối với giáo viên.
Trước hết cần giáo dục cho học sinh nhận thức đầy đủ ý nghĩa, mục đích,
yêu cầu của điều lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2010, làm cho học sinh chuyển biến
mạnh mẽ từ nhận thức đền hành động để có quyết tâm học tập tốt. Kết quả học

tập điều lệnh đội ngũ là sản phẩm của quá trình giáo dục ý thức, trách nhiệm và
tổ chức học tập Điều lệnh đội ngũ của giáo viên. Vậy giáo viên phải giáo dục
cho học sinh về ý thức trách nhiệm trong khi luyện tập, làm cho học sinh thấy
được tầm quan trong của Điều lệnh đội ngũ là góp phần vào xây dựng quân đội
chính quy từng bước hiện đại.
Bên cạnh đó giáo viên phải xây dựng một kế hoạch cụ thể, tổ chức luyện tập
khoa học, chuẩn bị đầy đủ thiết bị dụng cụ dạy học. Duy trì nghiêm chế độ học
tập đã được triển khai theo kế hoạch. Đây là nội dung quan trọng, quyết định
trực tiếp đến chất lượng bài học.
Xây dựng kế hoạch học tập là một nội dung hết sức quan trọng nhằm điều
hành, duy trì học tập của lớp học không gây nhàm chán. Tổ chức luyện tập
không chặt chẽ, phương pháp luyện tập không tốt không những kết quả luyện
tập không cao mà còn làm cho động tác cố tật khó sửa.
a. Phân chia thời gian.
Đối với bài này phân chia thời gian là một việc hết sức quan trọng ,vì giáo
viên giúp học sinh không chỉ hiểu về mục đích ý nghĩa của bài bọc mà còn phải
tổ chức cho học sinh thực hành được các động tác trong nội dung bài học.
Trong tiết 12 chúng ta có tới 8 nội dung : Trong 08 nội dung trên giáo viên
8
phải xác định được nội dung nào là trọng tâm của bài học. Vậy Trong bài này
nội dung trọng tâm là động tác đi đều đứng lại. Nội dung này chiếm 1/2 thời
gian trong một tiết học, những nội dung còn lại 1/2 thời gian.
b. Phương pháp lên lớp:
Đây là một bước hết sức quan trọng đối với người giáo viên giảng dạy môn
Giáo dục quốc phòng - An ninh, trước bài này là nội dung lý thuyết, nhằm nêu
cao truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam, truyền thống lịch sử
của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vậy hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ đã gắn sâu
vào tư tưởng của học sinh, những hình ảnh đẹp, những tác phong chính quy của
anh bộ đội, đang dần được khơi dậy trong nội dung bài: Đội ngũ từng người
không có súng. Chính vì vậy trước khi lên lớp người giào viên phải chuẩn bị đầy

đủ như: trang phục phải đúng quy định, tác phong nhanh nhẹn, chuẩn xác, khẩu
lệnh dứt khoát, có hồn. Có như vậy mới gây ra được hứng thú ngay từ ban đầu
cho học sinh.
Về nội dung đi đều đứng lại tôi áp dung phương pháp lên lớp như sau:
- Một là: Giáo viên giới thiệu về ý nghĩa, mục đích, yêu cầu của Điều lệnh sửa
đổi, bổ sung năm 2010 làm cho học sinh hiểu được tầm quan trọng của nội dung
này.
- Hai là: Giáo viên thị phạm động tác theo bốn bước.
+ Bước một: Giáo viên làm nhanh khái quát động tác.
+ Bước hai: Giáo viên làm chậm, có phân tích từng cử động của động tác.
+ Bước ba: Giáo viên làm tổng hợp động tác.
+ Bước bốn: Giáo viên làm chậm, chỉ ra những điểm giống và khác nhau của
những động tác cũ và động tác mới.
- Ba là: Giáo viên đưa ra phương pháp và hướng dẫn học sinh tập luyện:
Để tránh tình trạng học sinh thực hiện động tác sai, chậm so với khẩu lệnh
và nhầm động tác, theo thói quen là chân thuận bước trước. Tôi chia động tác đi
đều ra các bước sau:
Bước một: Người chỉ huy cho tiểu đội đứng tai chỗ, hai chân đưng khép lại
với nhau như đứng nghiêm, hô khẩu lệnh.
Nhịp "Một" tay phải đánh ra phía trước, khuỷu tay gập cánh tay hơi nâng
lên, cánh tay trên hợp với thân người một góc 60 độ, cánh tay dưới thành đường
thẳng bằng, song song với mặt đất, cách thân người 20cm, nắm tay úp xuống, cổ
tay khoá, khớp xương thứ 3 của ngón tay chỏ cao ngang và thẳng với cúc áo
ngực bên trái, ( đối với quân nhân nữ khi mặc áo quân phục mùa he, mép trên
cánh tay dưới cao ngang với cúc áo thứ hai từ trên xuống, cách thân người
20cm, khớp xương thứ 3 của ngón tay trỏ thẳng giữa ngực áo bên trái. Tay trái
đánh về sau cánh tay thẳng, sát với thân người, hợp với thân người một góc 45
độ có độ dừng, lòng bàn tay cong vào trong, mắt nhìn thẳng.
Giữ nguyên động tác, người chỉ huy nhắc nhở chỉnh sửa động tác.
Nhip "Hai" tương tự như động tác "Một" nhưng chỉ đổi tay, tay trái đánh ra

trước, tay phải đánh ra sau.
Giữ nguyên động tác người chỉ huy nhắc nhở chỉnh sửa động tác.
9
Bước hai : Người chỉ huy hô khẩu lệnh : "Đi đều - Bước"
Nghe dứt động lệnh " Bước" đồng loạt bước chân trái lên trước gót chân
cham đất, đồng thời tay phải đánh ra phía trước, tay trái đánh ra sau, giữ nguyên
động tác, trọng tâm cơ thể giữ nguyên bên chân phải. Từ đây giáo viên hoặc
người chỉ huy quan sát chỉnh sửa động tác tay và chân cho học sinh, sau khi
nhắc nhở chỉnh sửa song, người chỉ huy hô khẩu lệnh về vị trí cũ, thì học sinh
đưa tay và chân về vị trí ban đầu vào tư thế chuẩn bị. Cứ như vậy cho học sinh
thực hiện từ 03 đến 05 lần .
Do học sinh chưa kịp thích ứng giữa khẩu lệnh với động tác nên không cần
hô khẩu lệnh theo đúng nhịp độ mà phải hô chậm hơn .
10
Bước ba: Tương tự như trên người chỉ huy sau khi hô động lệnh "Bước" thì hô
tiếp nhịp "Một" . Người tập cũng thực hiện động tác tương tự như trên, nhưng
trọng tâm cơ thể lại nhanh chóng chuyển về phía trước ( chân trái ) giữ nguyên
động tác để giáo viên hoặc người chỉ huy chỉnh sửa động tác. Ở tư thế này thì
học sinh đã chuẩn bị sẵn sàng tích ứng cho cử động 2. Cứ như vậy cho học sinh
thực hiện từ 03 đến 05 lần .
Bước bốn: Thực hiện hô khẩu lệnh như trên nhưng lần này hô tiếp nhịp 2, học
sinh làm theo khẩu lệnh ở cử động 2 đó là chân phải bước lên gót chân chạm đất
đồng thời tay trái đánh ra trước tay phải đánh ra sau, giữ nguyên động tác để
giáo viên hoặc người chỉ huy chỉnh sửa động tác. Cứ như vậy cho học sinh thực
hiện từ 03 đến 05 lần .
11
Bước năm: Lúc này học sinh đã tương đối quen với khẩu lệnh và động tác,
ta có thể hô khẩu lệnh theo đúng với nhịp độ, liên tục theo nhịp 1 -2, 1- 2 và
từng bước hoàn chỉnh động tác theo Điều lệnh đội ngũ sửa đổi, bổ sung năm
2010.

IV. TỔ CHỨC LUYỆN TẬP
Đối với nội dung bài này tôi áp dụng phương pháp học nhóm, học theo
cách này để học sinh hợp tác được với nhau, học hỏi lẫn nhau để đạt được
những kết quả học tập cao. Tôi nhận thấy trong học nhóm có những ưu điểm
sau:
Một là: Phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng làm việc cá nhân,
phát huy ưu thế của mỗi thành viên. Làm việc nhóm thực ra là sự kết hợp các
sức mạnh cá nhân để xây dựng lên một sức mạnh tập thể tốt, chính vì thế trong
làm việc nhóm, mỗi thành viên có điều kiện tập trung vào điểm mạnh của mình,
rèn dũa bổ sung cho nhau để có được kết quả học tập tốt nhất.
Hai là: Nâng cao khả năng giao tiếp, đặc biệt trong điều lệnh đội ngũ là khả
năng lãnh đạo, thuyết trình, thực hành khẩu lệnh đến động tác.
Ví dụ: Khi hô khẩu lệnh một cá nhân hô khẩu lệnh thì có thể nhanh hoặc chậm,
không khớp với động tác, tập nhiều có thể trở thành cố tật khó sửa.
Nhưng ở đây cả nhóm tập đều hô khẩu lệnh thì những người hô nhanh hoặc
chậm cũng không hô được mà phải theo một quy luật nhất định đó là đồng thanh
khẩu lệnh.
Ba là: Khi đã đi vào thống nhất khẩu lệnh, thống nhất động tác, thì công việc
hoàn thành nhanh hơn, tốt hơn, phong phú hơn.
Đây là giai đoạn thứ nhất của bài này, tuy mất nhiều thời gian nhưng lại đem
lại hiệu quả cao nhất cho người học. Vì nội dung này tăng cường tối đa tính chủ
động cho học sinh.
Ở nội dung này, luyện tập và sửa tập phải thực hiện đúng quy trình, từ
luyện tập cơ bản đến luyện tập tổng hợp, luyện tập từng cử động của động tác
đến liên kết các cử động của động tác. Luyện tập các kĩ năng động tác phải đi từ
cá nhân đến tập thể, từ đơn giản đến phức tạp, từ phân đoạn đến tập tổng hợp.
Đối với cá nhân không nên học đối phó hay đến học chỉ để cho có mặt cho đủ
quân số. Tự mình phải nghiên cứu kĩ thuật từng động tác để luyện tập cho chuẩn
xác. Khi thấy động tác chưa đúng kĩ thuật phải nghiên cứu cụ thể để có biện
pháp khắc phục.

Trong khi đơn vị tổ chức tập luyện, mỗi cá nhân phải tích cức,chủ động
miệt mài luyện tập, phối hợp với mọi người để sửa tập cho mình nhất là động tác
đánh tay khi đi đều.
4.1 Phương pháp phân nhóm:
Ta có thể phân nhóm theo danh sách lớp, cứ 10 em vào một nhóm, nhóm
cuối cùng có thể không đủ 10 em, nếu nhóm cuối cùng dưới 04 em ta có thể góp
vào với các nhóm trước đó. Mỗi một nhóm có một em làm tiểu đội trưởng, nếu
được cán sự lớp là tốt, hoặc em nào có tố chất tốt. Tiểu đội trưởng có những
quyền hạn sau:
12
Thay giáo viên tổ chức luyện tập theo phương pháp của giáo viên,duy trì buổi
tập theo đúng quy định của giáo viên đề ra, xây dưng cho nhóm luyện tập đạt kết
quả cao nhất, thống nhất hướng dẫn sửa sai cho các bạn.
Phương pháp phân nhóm theo danh sách lớp, tiện lợi cho giáo viên dễ theo
dõi học sinh trong quá trình luyện tập, giáo viên nhớ cụ thể được từng nhóm,
từng đối tượng học sinh. Để giáo viên có những phương pháp phù hợp trong quá
trình giảng dạy nội dung tiếp theo.
4.2 Vị trí luyện tập:
Để thuận tiện cho việc theo dõi, quản lý của giáo viên đến từng nhóm cũng
như từng cá nhân. Các nhóm được đứng theo hàng dọc liên tiếp nhau, cứ khoảng
05m một nhóm.
Sơ đồ luyện tập.

1

2

3

4

Luyện tập và sửa tập thực hiện đúng quy trình, từ luyện tập cơ bản đến
luyện tập tổng hợp, luyện tập từng cử động của động tác đến liên kết các cử
động của động tác. Luyện tập các kĩ năng của động tác phải đi từ cá nhân đến
tập thể, từ đơn giản đến phức tạp, từ phân đoạn đến tập tổng hợp. Trong quá
trình luyện tập, người giáo viên không nôn nóng cắt giảm các bước luyện tập, tổ
chức luyện tập cho học thành thạo động tác, dứt điểm nội dung này mới chuyển
sang nội dung khác.
Trước khi vào luyện tập, giáo viên phải nói rõ nội dung và phương pháp
luyện tập, quá trình luyện tập phải dùng khẩu lệnh và động tác mẫu để sửa, thực
hiện sai đâu sửa đó. Sửa tập không nóng vội nhưng phải làm kiên quyết, cá nhân
nào luyện tập chưa đúng phải kiên quyết bắt tập lại. Trong các nhóm tập đều
phân công nhóm trưởng để theo dõi, giúp giáo viên duy chì luyện tập cũng như
giúp đỡ sửa tập cho các bạn.
Luyện tập điều lệnh đội ngũ là nội dung xây dựng chính quy, là một nội
dung công tác quân sự của người chỉ huy để xây dưng đơn vị vững mạnh toàn
diện. Vì vậy, kết quả luyện tập điều lệnh đội ngũ của cá nhân và nhóm tập phải
được đưa vào nội dung đánh giá kết quả học tập trong các bài kiểm tra định kì
hoặc học kì, đó là cộng thêm điểm (điểm thưởng) cho cá nhân học sinh hoặc
nhóm tập đạt kết quả cao. Đối với những cá nhân thiếu ý thức học tập, làm ảnh
hưởng đến người khác thì sẽ bị phạt bằng hình thức như không có điểm thưởng
Bàn GV
13
hoăc hạ điểm. Có như vậy mới kích thích được phong trào luyện tập của học
sinh.
Trong quá trình học sinh luyện tập giáo viên phải thường xuyên quan sát để
phát hiện ra những sai sót, để sửa sai kịp thời tránh tình trạng để thành cố tật.
Đồng thời giáo viên nhận xét sự tiến bộ của học sinh, động viên khuyến
khích học sinh bằng lời nói hoặc bằng những động tác chuẩn, đẹp của giáo viên
để học sinh phấn đấu hơn nữa.
4.3. Kiểm nghiệm

Trong những năm học trước, tôi đã từng đưa phương pháp này vào áp dụng
cho một số nhóm tập trong các lớp 10 tôi dạy. Thì kết quả của những nhóm tôi
áp dụng đã cao hơn nhiều, so với những nhóm không áp dụng.
Đến năm học 2012 - 2013 khi Điều lệnh đội ngũ sửa đổi, bổ sung được đưa
vào giảng dạy trong nhà trường. Tôi đã mạnh dạn đưa phương pháp này vào áp
dụng đối với những lớp tôi giảng dạy, trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy,
hiện tượng học sinh luyện tập để đối phó không còn, học sinh gây rối làm ảnh
hưởng đến người khác không còn, học sinh không hô khẩu lệnh không còn. Hiện
tượng này trong những năm trước, khi giảng dạy bài này trong tất cả các lớp đều
xảy ra. Nguyên nhân chính là do một số học sinh không tiếp thu kịp được kĩ
thuật động tác, không thực hiện đúng được động tác, lại bị các bạn phê bình, nên
các em chán nản, dẫn đến gây rối làm ảnh hưởng đến chất lượng của nhiều
người.
Năm học 2012 - 2013 tôi đã đưa vào áp dụng ở nội dung Đi đều, đứng lại và
đã thu được những kết quả hết sức khả quan, qua bài kiểm tra định kì (hệ sổ 2).
Nội dung kiểm tra : Thực hành động tác đi đều, đứng lại ( cự ly 12-15m).ở ba
lớp tôi áp dụng 10b1,10b2,10b3.
Kết quả bài kiểm tra năm 2012 - 2013:
Năm học
Kết quả kiểm tra khi áp dụng
Ghi chú
Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém %
2012 - 2013 35 % 45 % 20% 0 % 0%
Thông qua kết quả mà tôi đã đạt được trong năm học vừa qua. Tôi nhận thấy
phương pháp giảng dạy của tôi, có thể đưa vào thực nghiệm ở một số trường, Hy
vọng có thể làm thay đổi được một số nhược điểm của học sinh, lâu nay chúng
ta thường gặp, để dẫn đến kết quả không được như mong muốn.

14
C. KẾT LUẬN

Luyện tập điều lệnh đội ngũ là nội dung xây dựng Quân đội chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại. Mặc dù vậy trong những năm vừa qua, công tác giảng
dạy và học tập nội dung này ở một số trường phổ thông, còn đại khái kết quả
không cao, thậm chí có nhiều học sinh không thể thực hành được động tác đúng
có khẩu lệnh. Hoặc ta có thể nhận thấy qua các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh của
những năm trước, có nhiều trường vào thi nội dung điều lệnh, học sinh làm sai
cơ bản.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn của trường nhà và một số trường xung quanh,
nên tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đưa vào áp dụng nội dung này và cũng đã có
những chuyển biến đáng kể.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi đã được rút ra từ thực tế trong quá
trình giảng dạy tại trường Trung học phổ thông Lam Kinh. Có thể phương pháp
của tôi trong nội dung Đi đều, đứng lại chưa phù hợp với một số trường khác.
nhưng để góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo
dục quốc phòng - An ninh, tôi dã mạnh dạn đưa vào thực nghiệm tại trường tôi
đang giảng dạy. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp, để ý
tưởng của tôi hoàn chỉnh hơn và có thể đưa vào thực nghiệm ở phạm vi rộng
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của BGH trường Thanh Hoá, ngày28 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Trịnh Tiến Duẩn
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản hiện hành về chương trình Giáo dục quốc phòng - An ninh cấp
trung học phổ thông.

2. Sách hướng dẫn về đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
3. Sách giáo viên môn Giáo dục quốc phòng - An ninh: lớp 10.
4. Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh; lớp 10.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội ( Hồ Chí Minh, toàn tập. Tập 6,
NXBCTQG, H.1995. Tập 11. H 1996 )
16

×