LỜI NÓI ĐẦU
Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các NHTM và là kênh
cung cấp vốn quan trọng không chỉ đối với bản thân DN mà còn đối với toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Nền kinh tế càng phát triển thì sự cạnh tranh của các DN càng trở nên sâu
sắc, các DN càng cần đến nguồn vốn để mở rộng hoạt động SXKD. Nước ta là một nước
đang phát triển lại đang trong quá trình hội nhập trong khi thị trường chứng khoán mới
bắt đầu phát triển, chính vì thế mà nguồn vốn của các NHTM lại càng trở nên quan trọng
hơn. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của các NHTM trong thời gian vừa qua lại chưa thực
sự đáp ứng được nhu cầu về vốn của các DN. Đặc biệt trong thời gian tới, hoạt động của
các NHTM nước ngoài được mở rộng, sự cạnh tranh giữa các NH sẽ diễn ra rất gay gắt.
Chính vì thế, các NHTM trong nước cần phải có nhiều đổi mới để phù hợp với quá trình
hội nhập.
NHCT Việt Nam là một NHTM quốc doanh đi tiên phong trong việc ứng dụng
công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam, có thị phần cho vay và đầu tư
chiếm 21%, có quan hệ đại lý với 735 NH lớn của 60 quốc gia trên khắp các châu lục.
Các sản phẩm của NHCT Việt Nam đã khắng định được uy tín, chất lượng đối với không
chỉ KH trong nước mà cong với cả các NH đại lý nước ngoài. Với mục tiêu đến năm 2010
là “trở thành một NHTM chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, TC lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn ở
Việt Nam”, NHCT Việt Nam đã và đang có nhiều đổi mới theo hướng nâng cao tính tự
chủ cho các chi nhánh trực thuộc để tiến tới quá trình cổ phần hóa trong năm 2008.
NHCT Cửa Lò là một chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam vừa mới được
nâng cấp vào tháng 10/2006 vừa qua. Tuy hoạt động KD đã đạt được một số kết quả song
quy mô nhìn chung còn quá nhỏ bé chưa xứng với khả năng của NH cũng như tiềm năng
phát triển kinh tế của địa phương. Trong quá trình thực tập, được biết chiến lược lâu dài
của NHCT Việt Nam cũng như mục tiêu của NHCT Cửa Lò là mở rộng phạm vi hoạt
động, chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh
NHCT Cửa Lò” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
1
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương:
Chương I: Hoạt động cho vay của các NHTM.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò.
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò.
2
CHƯƠNG I.
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm và vai trò của cho vay.
1.1. Khái niệm cho vay.
Thuật ngữ “tín dụng” (credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo (tin tưởng, tín
nhiệm) trong quan hệ TC. Tín dụng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
- xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch chuyển quỹ từ người
cho vay sang người đi vay.
- trong một quan hệ TC cụ thể, tín dụng là một giao dịch về TS trên cơ sở có hoàn
trả giữa hai chủ thể. Ví dụ như một công ty thương mại bán hàng trả chậm cho một công
ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một
thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là
giao dịch giữa NH, các định chế TC với các DN và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho
vay. Tức là NH cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay
phải thanh toán vốn gốc và lãi.
- tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế TC cung cấp cho
KH.
- trong một số ngữ cảnh, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví
dụ, tín dụng ngắn hạn đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn hoặc tín dụng tuần hoàn là một
loại cho vay cụ thể.
- trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng được hiểu như
sau: tín dụng là một giao dịch về TS (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (NH và các
định chế TC khác) và bên đi vay (cá nhân, DN và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay
chuyển giao TS cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
3
Tín dụng là loại TS chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt
động đặc trưng của NH. Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Và theo
hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, cho thuê TC, chiết khấu, bảo lãnh và
một số hoạt động khác theo quy định của NHNN. Cho vay là việc NH đưa tiền cho KH
với cam kết KH phải hoàn trả cả tiền gốc và lãi trong thời gian xác định. KH phải cam kết
sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích đã thoả thuận với NH, không trái quy định của PL
và các quy định khác của NH cấp trên.
Đối với một khoản tiền cho vay, NH phải đối mặt với nhiều nguy cơ, có thể là do
KH cố tình không trả nợ, hoặc có thể là do bản thân KH cũng gặp phải những rủi ro
không lường trước được, hoặc cũng có thể là do những rủi ro chính từ phía NH như lãi
suất thị trường thay đổi quá nhanh, nền kinh tế bất ổn, tình hình an ninh chính trị không
ổn định… Ngoài ra, rủi ro trong hoạt động KD của các NHTM thường có hiệu ứng dây
chuyền, khi xảy ra rủi ro ở một NH thì nguy cơ đổ vỡ cả hệ thống NHTM của một quốc
gia là rất lớn. Chính vì thế mà hoạt động cho vay của các NHTM phải tuân theo những
quy tắc rất chặt chẽ và chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Một trong
những biện pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các NHTM là thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc quản lý tiền cho vay:
1) Thực hiện đúng quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng của NH được hiểu là quá trình trước, trong và sau khi cho vay.
Quá trình cho vay bắt đầu từ khi NH nhận được đơn yêu cầu vay vốn của KH, NH sẽ tiến
hành thu thập xử lý thông tin về KH để ra quyết định có đồng ý cho vay hay không, nếu
đồng ý thì mức cho vay là bao nhiêu, lãi suất, thời hạn và một số điều kiện khác, nếu
không đồng ý thì phải trả lời cho KH biết lý do. NH có thể tiến hành thu thập thông tin về
KH thông qua nhiều cách khác nhau như phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông
tin qua các trung gian và từ các báo cáo mà KH cung cấp. Sau khi thu thập thông tin, NH
cần tiến hành phân tích KH thông qua đánh giá về TS của KH, đánh giá các khoản nợ và
phân tích luồng tiền. Sau khi đánh giá đưa ra quyết định cho vay và tiến hành các thủ tục
pháp lý giải ngân cho KH, NH tiếp tục theo dõi việc sử dụng vốn của KH: sử dụng tiền
vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không; quá trình SXKD có thay đổi gì bất lợi
4
không, có dấu hiệu thua lỗ hay lừa đảo không... Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng
tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo, ngược lại thì NH cần tiến hành các
biện pháp ngăn chặn kịp thời nguy cơ xảy ra rủi ro như thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải
ngân, yêu cầu KH bổ sung thêm TS thế chấp, giảm số tiền vay… trong từng trường hợp
cụ thể. Thực hiện đúng quy trình tín dụng tạo điều kiện để NH có thể đáp ứng tốt nhu cầu
của KH đồng thời tạo được mối quan hệ tín dụng lâu dài.
2) Sàng lọc và giám sát.
Một trong những nguyên nhân có thể dẫn đến sự vỡ nợ cho các NHTM đó là lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch được
thực hiện, khi những người đi vay có khả năng để lại hậu quả không mong muốn nhất
(tức là không trả được nợ) lại là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều
khả năng được lựa chọn để cho vay nhất. Rủi ro đạo đức xảy ra trong khi thực hiện giao
dịch, khi người đi vay thực hiện những hoạt động không đúng với ý đồ của NH và ít có
khả năng hoàn trả khoản vay. Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là do tình trạng
thông tin bất đối xứng gây ra.
Sàng lọc: Nhằm thực hiện việc sàng lọc một cách có hiệu quả, các NHTM phải tập
hợp thông tin tin cậy về những KH triển vọng, tiến hành phân tích, thẩm định một cách có
hiệu quả. KH là một yếu tố biến thiên trong mọi đề nghị cho vay. Với một KH cá nhân,
NH đặc biệt xem xét các khoản cho vay trong quá khứ có hoàn trả đúng thoả thuận hay
không. Với KH DN, bên cạnh việc quan tâm tới lịch sử các tài khoản, NH cần đảm bảo
KH là những người có kinh nghiệm trong công việc, có trình độ quản lý cần thiết để điều
hành DN và tái đầu tư lợi nhuận vào DN. Tuy rằng mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự
mình đứng vững” - tức là phải đủ tốt để không cần một sự đảm bảo nào nhưng NH vẫn
thường yêu cầu KH phải thực hịên các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Giám sát: Khi nhận được tiền vay của NH, người vay có thể sử dụng khoản tiền
cho vay vào những hoạt động KD mạo hiểm dẫn đến mất khả năng thanh toán. Chính vì
thế NH thường đưa ra các hợp đồng tín dụng trong đó quy định rõ những điều khoản
nhằm hạn chế người vay sử dụng tiền vay vào những hoạt động rủi ro. Trường hợp người
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
5
vay không tuân thủ những điều khoản ghi trong hợp đồng thì NH có thể thực hiện cưỡng
chế theo những điều khoản đã ghi trong hợp đồng.
3) Quan hệ khách hàng.
Một trong những nguyên lý quan trọng của việc quản lý NH đó là quan hệ lâu dài
với KH từ đó nắm bắt thông tin về KH một cách chính xác hơn. Nếu một KH có nhu cầu
vay tiền đã có một tài khoản hoặc các khoản cho vay khác với NH trong một thời gian
dài, thì NH sẽ dễ dàng biết nhiều thông tin về họ. Những số dư trong tài khoản séc hay
tiết kiệm sẽ cho NH biết về tiềm năng TC của KH hay việc hoàn trả các khoản vay cũ cho
NH biết được tư cách của KH. Quan hệ KH lâu dài không chỉ giúp NH giảm chi phí thu
thập thông tin cũng như chi phí giám sát mà còn giúp KH giảm chi phí lãi vay. Vì vậy KH
luôn cố gắng tránh những hoạt động rủi ro để không làm phật lòng NH. Như vậy, quan hệ
với KH lâu dài giúp NH có thể đối phó với những bất ngờ về rủi ro đạo đức không thể
lường trước được.
Các NHTM cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách
đưa ra hạn mức tín dụng cho KH. Việc cấp cho KH một hạn mức tín dụng vừa tạo điều
kiện thuận lợi trong hoạt động KD cho KH có nhu cầu vay vốn thường xuyên vừa giúp
NH có thể kịp thời đưa ra quyết định ngừng giải ngân nếu thấy có những dấu hiệu có thể
làm mất khả năng thanh toán của KH, đảm bảo an toàn cho khoản tín dụng mới. Lợi ích
của việc này đối với NH là ở chỗ, hạn mức tín dụng sẽ đưa đến một mối quan hệ lâu dài
và tạo điều kiện dễ dàng cho việc tập hợp thông tin.
4) Thế chấp tài sản và số dư bù.
Như đã nói ở trên, mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự mình đứng vững”, nhưng
trong nhiều trường hợp NH vẫn yêu cầu KH phải có TSĐB khi nhận tín dụng, bởi vì KH
luôn phải đối mặt với rủi ro trong KD, có thể mất khả năng trả nợ cho NH. Những biến cố
không mong đợi có thể gây cho NH những tổn thất lớn. Yêu cầu TSĐB, NH muốn có
được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động KD không đảm
bảo trả được nợ. Có 3 yêu cầu đối với bất cứ loại đảm bảo nào để được NH chấp nhận đó
là: dễ định giá, dễ cho NH quyền được sở hữu hợp pháp, dễ tiêu thụ hay thuận tiện cho
việc tiêu thụ và nếu giá trị vật đảm bảo tăng lên theo thời gian thì càng tốt. Thông thường
6
NH chia TSĐB thành hai loại: TS thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của KH hoặc bảo
lãnh của bên thứ ba cho KH; TS được hình thành từ chính nguồn tài trợ của NH.
Những bắt buộc về TSĐB đối với khoản tiền vay là một trong những công cụ quan
trọng để hạn chế rủi ro, làm giảm bớt hậu quả lựa chọn đối nghịch do nó có thể giảm các
tổn thất của người vay không trả được nợ. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng TSĐB chỉ
mang tính bảo hiểm chứ không phải NH dựa vào đó để cho KH vay. Thông thường khi rủi
ro xảy ra, NH phải tiến hành phát mại TS, nhưng TS phát mại thường khó bán trên thị
trường vì nhiều lý do và thủ tục để được phát mại TS cũng phức tạp, mất nhiều thời gian.
Hơn nữa, một NH nếu đăng báo phát mại TS nhiều cũng làm giảm uy tín của NH đó trên
thị trường, KH sẽ nhận thấy khả năng quản lý yếu kém của NH, hình ảnh của NH đó sẽ bị
mờ đi, hoạt động huy động vốn vì thế mà sẽ không thu hút được KH và ảnh hưởng đến
hoạt động cho vay của NH. Thông thường, NH phải đứng trước lựa chọn là một DA có
tính khả thi nhiều khi không có đủ TSĐB nhưng một DA có đủ TSĐB nhiều khi lại không
khả thi. Như vậy, lựa chọn bất kỳ một DA nào cũng có nguy cơ xảy ra rủi ro cho NH. Do
đó NH phải xác định được mức độ rủi ro mà mình có thể chấp nhận để lựa chọn DA thích
hợp.
Trong một số trường hợp NH không đòi hỏi đảm bảo dưới hình thái hàng hoá hay
bảo lãnh. Các loại đảm bảo này đều gắn liền với thủ tục phức tạp, không có lợi cho NH
lẫn KH. Hơn nữa, NH dự tính, nếu rủi ro xảy ra cho KH thì tổn thất cũng chỉ chiếm một
phần giá trị của món vay. Trong trường hợp này NH có thể yêu cầu đảm bảo bằng tiền gửi
ký quỹ (số dư bù). Đảm bảo bằng ký quỹ thủ tục đơn giản, tuy nhiên lại làm đọng vốn
của KH và trong trường hợp món vay lớn, ngân quỹ của KH nhỏ hoặc cần thiết để lưu
chuyển, tỷ lệ ký quỹ cao hơn thì hình thức này lại không phù hợp.
5) Hạn chế tín dụng.
Một phương pháp giúp cho các NHTM đối phó với lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức là hạn chế tín dụng. Hạn chế tín dụng có 2 dạng: thứ nhất diễn ra khi NH từ chối
bất kỳ một yêu cầu vay vốn nào của KH, thứ hai diễn ra khi NH sẵn lòng cho vay nhưng
hạn chế dưới mức mà KH mong muốn.
6) Vốn ngân hàng và tính tương hợp.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
7
Trong các nguyên tắc đã đề cập ở trên, tất cả chỉ nhằm hạn chế rủi ro cho bản thân
các NHTM. Song trên thực tế thì ngay cả NH cũng có thể gây ra rủi ro cho người gửi tiền.
Do vậy, làm thế nào để những người gửi tiền có thể tin rằng NH – nơi họ gửi tiền sẽ trả
tiền lãi, vốn hoặc các dịch vụ mà NH đã hứa. Để giải quyết vấn đề này có 3 cách:
Thứ nhất: Vốn tự có của NHTM. NH sẽ mất mát nhiều hơn khi xảy ra phá sản
nếu lượng vốn tự có lớn và do vậy NH sẽ phải cố gắng thực hiện những hoạt động thích
hợp để có lợi nhuận và thanh toán đủ cho người gửi tiền. NH thực hiện cung cấp những
thông tin như những người gửi tiền mong đợi và những người có tiền sẵn lòng gửi tiền
vào NH như NH mong muốn.
Thứ hai: Đa dạng hoá. Bất kỳ hoạt động KD nào cũng chứa đựng rủi ro nhất là
trong lĩnh vực KD tiền tệ như các NHTM. Chính vì thế mà NH muốn thu hút được KH
gửi tiền phải chứng minh cho họ thấy được độ rủi ro hợp lý trong các hoạt động KD của
mình bằng cách đa dạng hoá danh mục cho vay. Việc đa dạng hoá là một nguyên lý quan
trọng của việc quản lý NH bởi vì nó làm cho quan hệ giữa NH với những người gửi tiền
trở thành tương hợp ý muốn. Tuy vậy, NH cần phải cân đối các lợi ích và chi phí giữa
việc đa dạng hoá và chuyên môn hoá.
Thứ ba: Việc điều hành của Chính phủ. Để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền,
Chính phủ thường đưa ra các quy định buộc NHTM phải tiến hành đa dạng hoá và quy
định tỷ lệ tối đa mà NHTM có thể nhận tiền gửi dựa trên vốn tự có của nó. Đồng thời,
Chính phủ cũng đặt ra quy định về tỷ lệ tối thiểu mà NH có thể cho vay so với số tiền gửi
huy động được. Việc điều hành của Chính phủ là một phương cách khiến cho mối quan
hệ của một KH với những người gửi tiền trở thành tương hợp ý muốn. Tuy nhiên sự điều
hành của Chính phủ chỉ ở tầm vĩ mô để đảm bảo quyền tự chủ cho các NHTM.
1.2. Vai trò của cho vay.
Đối với ngân hàng.
Tiền vay là khoản nợ đối với người vay nhưng là TS đối với NH và nó mang lại
thu nhập cho NH. So với các TS khác, nhìn chung tiền cho vay kém lỏng hơn bởi vì
chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay mãn hạn. Các khoản
tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với những TS khác. Do thiếu tính lỏng và
8
khả năng vỡ nợ cao nên các NHTM thu được nhiều lợi nhuận nhất từ các khoản cho vay.
Như vậy, ta có thể thấy cho vay là khoản mục có khả năng mang lại nhiều thu nhập nhất
nhưng cũng chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro nhất cho các NHTM.
Rủi ro từ hoạt động cho vay là rất lớn chính vì thế nó có vai trò quyết định đối với
sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Rủi ro nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và
có thể gây thua lỗ thậm chí là dẫn đến sự phá sản của NH. Cho vay ảnh hưởng rất lớn đến
chiến lược hoạt động của NH như dự trữ, đầu tư…
Đối với nền kinh tế.
Nguồn vốn của NH là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối
với sự phát triển của bản thân các DN mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự
hoạt động và phát triển của các công ty, các DN đều gắn liền với các dịch vụ TC do các
NHTM cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Có thể nói rằng,
không có một DN nào hoạt động tốt, muốn tồn tại vững chắc trên thương trường mà
không phải vay vốn NH. Trong quá trình hoạt động, các DN thường vay NH để đảm bảo
nguồn TC cho các hoạt động SXKD, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các DA mở rộng
hoặc đầu tư chiều sâu của DN. Nguồn vốn của NH giúp DN có thể đa dạng hoá nguồn
vốn huy động cho hoạt động SXKD của mình. Bên cạnh đó, nguồn vốn vay NH còn có
ưu thế so với vốn cổ phần đó là lãi vay NH sẽ được tính vào chi phí, có thể giúp DN tiết
kiệm thuế.
Đối với KH là cá nhân, hộ gia đình không chỉ được NH cung cấp nguồn vốn phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng, phục vụ đời sống hàng ngày như mua sắm, xây dựng nhà cửa,
phương tiện đi lại, đi du học… mà các hoạt động SXKD cũng được NH hỗ trợ rất lớn.
Trong giai đoạn hiện nay, với lợi thế quy mô nhỏ bé nên dễ thay đổi, dễ thích nghi với
những biến động của thị trường cũng như những thay đổi, tiến bộ nhanh chóng của khoa
học công nghệ, khu vực kinh tế dân doanh cũng đang có những bước phát triển mới góp
phần không nhỏ vào sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì nhận thức được điều này
nên nhiều NHTM đã rất quan tâm để hỗ trợ về vốn cho khu vực này mặc dù chưa thể đáp
ứng được nhu cầu về vốn của họ. Đối với KH là cá nhân, hộ gia đình thì các NH thường
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
9
áp dụng đa dạng các hình thức cho vay hơn so với các đối tượng khác, tạo điều kiện để
những KH này có thể tiếp cận nguồn vốn NH dễ dàng hơn.
Nguồn vốn vay của NH là một bộ phận không thể thiếu của thị trường TC, là kênh
huy động vốn quan trọng của các DN. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay khi mà thị
trường vốn còn chưa thực sự phát triển, thị trường chứng khoán mới bắt đầu đi vào hoạt
động thì có thể nói nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn quan trọng hàng đầu đối với các DN
cũng như các cá nhân thực sự muốn phát triển KD bền vững. Chính vì thế thị trường tín
dụng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với không chỉ sự phát triển của nền kinh tế đất
nước mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường TC vốn đang có nhiều yếu
kém của nước ta.
2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại.
Có nhiều cách để phân loại các hình thức cho vay nhưng ở đây ta chỉ xét
cách phân loại cho vay theo thời gian (bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung
và dài hạn) và phân loại theo yêu cầu có đảm bảo hay không (bao gồm cho vay có
đảm bảo và cho vay không có đảm bảo).
2.1. Cho vay ngắn hạn.
Cho vay ngắn hạn là nghiệp vụ tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, nhằm
tài trợ cho TS lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, DN, hộ sản
xuất. Nghiệp vụ này được các NH áp dụng trong những trường hợp sau:
- tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước bằng cách mua trái phiếu do kho bạc
phát hành. Đây là hình thức cho vay khá an toàn bới vì khả năng hoàn trả của Nhà nước là
rất cao.
- đáp ứng nhu cầu thanh khoản đối với các tổ chức tín dụng như các NH, các công
ty TC, quỹ tín dụng… bắng cách cho vay trực tiếp trên thị trường liên NH hoặc cho vay
gián tiếp thông qua nắm giữ chứng khoán. Các khoản cho vay này chủ yếu dựa trên uy tín
của người vay, số ít dựa trên bảo lãnh của bên thứ ba hoặc dựa trên cầm cố chứng khoán
thanh khoản cao.
10
- tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho SXKD của các DN. Đây là đối tượng KH
chiếm số lượng đông nhất và là đối tượng KH chiến lược mà tất cả các NHTM đều hướng
tới. Phần lớn các khoản vay này đều phải có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố TS.
Các DN, các công ty và hộ sản xuất muốn được vay vốn đều phải làm đơn trình
bày với NH kế hoạch sử dụng tiền vay. Qua đó, NH tiến hành phân tích tín dụng, xác định
hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các điều khoản có liên
quan. Trong trường hợp người vay không lập kế hoạch từ trước, NH sẽ tính toán nhu cầu
cho vay cho từng phương án để tính số tiền cần vay. Nếu trường hợp NH không phân tích
được phương án vay do thông tin không đầy đủ, không chính xác hoặc rủi ro lớn thì NH
có thể quyết định số tiền cho vay dựa trên TSĐB.
Đối với nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, NH có thể áp dụng nhiều hình thức khác
nhau như cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc
không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
2.2. Cho vay trung và dài hạn.
Cho vay trung và dài hạn là nghiệp vụ tín dụng có thời hạn cho vay lần lượt là từ
12 đến 60 tháng và trên 60 tháng. Các NHTM thường thực hiện cho vay trung và dài hạn
trong những trường hợp sau:
- tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công
nghệ… của các DN. Hiện nay với tốc độ phát triển nhanh của khoa học công nghệ, để tồn
tại và phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn của các DN ngày càng có xu hướng tăng
nhanh.
- phục vụ cho hoạt động đầu tư phát triển của Nhà nước. Hoạt động đầu tư phát
triển của Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng, tạo điều kiện để xây dựng cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ các DN phát triển.
- tài trợ cho nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện
vận chuyển… của người tiêu dùng.
NH có thể áp dụng các hình thức cho vay sau:
Mua trái phiếu: nhằm tài trợ cho quá trình hình thành TS cố định của các DN,
NH mua trái phiếu trung và dài hạn của DN. Khi mua trái phiếu, NH tính toán đến các
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
11
yếu tố như kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình TC
của DN, các kế hoạch tương lai…
Cho vay theo DA:
Khi KH có kế hoạch mua sắm, xây dựng TSCĐ… nhằm thực hiện DA nhất định
thì có thể xin vay NH. Khi đó NH yêu cầu KH phải xây dựng DA, thể hiện mục đích, kế
hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện DA. Phân tích và thẩm định DA là cơ sở để
NH quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của DN.
DA bao gồm nhiều yếu tố như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm.
công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích TC… trong đó phân tích TC là mối quan tâm
hàng đầu của NH. NH còn đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dùng để trả
nợ cho NH nên trong những trường hợp không phải là DA mới, NH luôn phân tích TC
người vay kết hợp với phân tích DA. Một DN có tình hình TC lành mạnh là cơ sở quan
trọng để NH quyết định cho vay bởi vì các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở
thành nguồn trả nợ cho NH bên cạnh nguồn thu của DA.
Trong trường hợp quy mô tín dụng lớn, nếu NH là người cấp tín dụng duy nhất thì
rủi ro sẽ rất cao. Vì thế, việc có nhiều bên tham gia cấp tín dụng sẽ san sẻ rủi ro cho NH.
Đây gọi là hình thức cho vay đồng tài trợ, tuy có thể san sẻ rủi ro cho NH nhưng lại đòi
hỏi NH phải phân tích kỹ các nguồn và chủ tài trợ.
Việc cho vay theo DA thường được kết hợp với các hình thức cấp tín dụng khác
như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hợp đồng… Các DA thường cần nguồn vốn lớn, NH
cần có thời gian huy động vốn và trả lãi huy động, do vậy NH thường yêu cầu KH phải
trả phí trong trường hợp trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí huy động vốn của
NH trong trường hợp đã ký hợp đồng tín dụng nhưng thực tế lại không vay.
Cho vay tiêu dùng: nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền
như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Do nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng mạnh
mẽ, người tiêu dùng có thu nhập đều đặn, ổn định bên cạnh đó nhiều công ty TC cạnh
tranh với NH trong cho vay làm cho thị phần cho vay các DN của NH bị giảm sút nên NH
buộc phải mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng để tăng thu nhập.
12
NH có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các DN
bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các DN này bán hàng trả góp.
Tuy nhiên, cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao do người vay có thể gặp những rủi
ro bất ngờ không thể lường trước như ốm đau, mất việc… Vì thế đây là loại cho vay có
mức lãi suất cao nhất và NH thường yêu cầu người vay phải mua một số loại bảo hiểm
nhất định.
2.3. Cho vay có đảm bảo.
KH luôn phải đối đầu với rủi ro trong KD, có thể mất khả năng trả nợ cho NH, gây
ra những tổn thất lớn cho NH. Chính vì thế, phần lớn các khoản vay của NH đều phải có
TSĐB. TSĐB có thể thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của KH hay của bên bảo lãnh,
hoặc TS được hình thành từ nguồn tài trợ của NH. NH có thể chấp nhận các loại TS sau
để làm đảm bảo cho các khoản vay:
- đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm… Khi
nhận các TS này, NH phải tính đến khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo, tính thị trường
của hàng hóa đảm bảo, khả năng bảo quản, định giá hàng hóa đảm bảo và hàng hóa phải
được bảo hiểm.
- đảm bảo bằng TSCĐ như nhà máy, trang thiết bị sản xuất, quyền sử dụng đất…
Các nhân tố tác động tới việc chấp nhận TS làm đảm bảo cho các khoản tài trợ: quyền sở
hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài, tính thị trường của TSĐB và bảo hiểm cho TS cố
định.
- đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba. Khi nhận loại TS này làm
đảm bảo, NH tính đến các nhân tố: khả năng chi trả của người thứ ba, khả năng thực hiện
hợp đồng với người thứ ba của KH và các cam kết có khả năng chuyển nhượng.
- đảm bảo bằng chứng khoán: quản lý chứng khoán thuận tiện đối với NH nhưng
NH phải xét đến tính an toàn cũng như tính thanh khoản của chứng khoán.
- đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba phải dựa vào uy tín và TSĐB của người
bảo lãnh.
- đảm bảo bằng số dư bù: là loại đảm bảo có lợi cho cả NH lẫn KH do thủ tục khá
đơn giản.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
13
Có hai nghiệp vụ đảm bảo là cầm cố và thế chấp:
- cầm cố là hình thức mà người vay phải chuyển quyền kiểm soát TSĐB sang cho
NH trong thời gian cam kết. Cầm cố thích hợp với những TS mà NH có thể kiểm soát và
bảo quản tương đối chắc chắn nhưng không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người
vay. NH thường yêu cầu khi xét thấy việc KH nắm giữ TSĐB là không an toàn cho NH,
đó là những TS mà KH dễ bán, dễ chuyển nhượng.
- thế chấp: là hình thức mà người vay chỉ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở
hữu hoặc sử dụng các TSĐB cho NH nắm giữ trong thời gian cam kết. Đây là hình thức
phổ biến hơn, đặc biệt là đối với DN và người tiêu dùng.
2.4. Cho vay không có đảm bảo.
Là hình thức cho vay dựa trên uy tín của bản thân KH tuy nhiên nó chiếm tỷ lệ rất
nhỏ trong hoạt động cho vay của các NHTM. Như đã nói ở trên, bất kỳ một DN nào cũng
luôn phải đối mặt với rủi ro trong KD nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt giữa các DN như hiện nay, chính vì thế NH thường chỉ áp dụng cho vay không có
đảm bảo đối với các KH lớn, có uy tín và có quan hệ lâu dài với NH.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
3.1. Nhân tố từ phía ngân hàng.
Thứ nhất: Chính sách tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, giữ vị trí quan trọng nhất và có quy
mô lớn trong hoạt động của NH. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được
thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là
chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là cơ sở cho hoạt động tín dụng của NH. Chính
sách tín dụng phản ánh cương lĩnh cho vay của một NH, và là tài liệu hướng dẫn chung
cho cán bộ tín dụng và nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín
dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng, nhằm hạn chế rủi ro và tăng khả
năng sinh lời. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng: nhu cầu tín dụng của KH;
khả năng sinh lời và rủi ro tiềm ẩn của KH; các chính sách của Chính phủ và NHNN như
chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá…; quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền
gửi, khả năng vay mượn của NH, quy mô chủ sở hữu…
14
Mỗi NH tự xây dựng cho mình một chính sách tín dụng riêng dựa trên những quy
định của NHNN và tình hình thực tế của NH. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố
liên quan đến lãi suất cho vay, hạn mức tín dụng đối với KH, phương thức cho vay,
TSĐB…mọi hoạt động cho vay đều phải tuân theo chính sách tín dụng do đó nó có ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động cho vay của một NH. Để mở rộng hoạt động tín dụng thì NH
phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai: Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là việc quy định các bước cụ thể phải thực hiện trong quá trình
cho vay, từ khi nhận được hồ sơ xin vay của KH cho đến khi thu hết nợ kết thúc hợp
đồng. Do đó, để mở rộng và nâng cao chất lượng của khoản vay thì NH cần xây dựng một
quy trình tín dụng hợp lý sao cho vừa bảo đảm thực hiện món vay vừa an toàn khoản vay,
tạo điều kiện thuận lợi cho KH tránh những thủ tục không cần thiết.
Quy trình tín dụng thường bao gồm 4 bước sau:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội
dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến KH bao gồm năng lực sử
dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các
TS và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Nội dung phân tích bao
gồm: đánh giá TS của khách hàng, đánh giá các khoản nợ, phân tích luồng tiền và các
điều kiện kinh tế. NH cần quan tâm tới các yếu tố cấu thành nên TS của KH như ngân
quỹ, các chứng khoán có giá, hàng hoá trong kho, TS cố định… là những nguồn có thể
dùng để trả nợ cho NH. Đối với các khoản nợ thì NH xem xét về thời gian của các khoản
nợ đó, vị trí của NH trong danh sách chủ nợ vì nếu NH giữ vị trí quan trọng nhất thì sẽ dễ
dàng thu được nợ hơn ở các vị trí khác. Ngoài ra, NH cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi,
nợ có đảm bảo và các loại nợ khác. Trong quá trình phân tích này, NH thường sử dụng
các tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng
vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro để đánh giá KH.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
15
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (KH)
và NH, với nội dung chủ yếu là NH cam kết cấp cho KH một khoản tín dụng (hoặc hạn
mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn
bản mang tính pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng,
đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các Luật, Quy định. Nội dung chính của hợp
đồng tín dụng bao gồm: các thông tin về KH như tên, tuổi, địa chỉ, tư cách pháp nhân
(nếu có), mục đích sử dụng vốn vay; số lượng tín dụng tức là số tiền mà NH cam kết cấp
cho KH; lãi suất, phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bảo, điều kiện và kỳ hạn giải ngân,
điều kiện thanh toán và các điều kiện khác như thoả thuận giữa NH và KH về phong toả
TS, điều kiện và phương thức phát mại TS…
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, NH phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc
thanh toán tiền hàng) cho KH như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, NH kiểm soát
KH: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình SXKD có
những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ… Quá trình này cho
phép NH thu thập thêm các thông tin về KH. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt,
cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản vay bị
đe doạ, NH cần có biện pháp xử lý kịp thời. NH được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng
giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. NH có thể yêu cầu KH bổ sung TS thế
chấp, giảm số tiền vay… khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Tài trợ gắn liền
với kiểm soát KH giúp NH ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích
của KH. Đây cũng là quá trình NH thu thập thêm thông tin bổ sung cho các thông tin ở
bước 1 và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi NH thu hồi hết nợ gốc và lãi. Các khoản tín dụng
đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Trường hợp khách
hàng cố tình lừa đảo NH, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn
phương cách cứu vãn, NH áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có
thể được để thu hồi nợ, bao gồm phong toả và bán các TS thế chấp, tước đoạt các khoản
16
tiền gửi… Trường hợp KH có khó khăn về TC, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục
để trả nợ, NH thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc
cho vay thêm.
Thứ ba: Công tác huy động vốn.
Bản chất của NH là đi vay để cho vay, do vậy muốn thực hiện hoạt động cho vay
thì trước hết phải thực hiện huy động vốn. NH muốn mở rộng và nâng cao chất lượng của
khoản vay thì nguồn vốn mà NH huy động được phải đủ lớn về số lượng và đảm bảo về
chất lượng. Để huy động được vốn lớn NH phải đa dạng hóa các hình thức huy động như:
huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành các loại giấy tờ có giá…Nếu
một NH huy động được vốn lớn và lãi suất đầu vào thấp thì khả năng mở rộng cho vay
của NH đó sẽ cao. Huy động vốn là cơ sở hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh
tế trong nền kinh tế.
Thứ tư: Chính sách lãi suất.
Lãi suất mà NH đưa ra để cho vay chính là một phần chi phí của các DN vay vốn,
là giá cả của khoản vay. Vì vậy lãi suất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với nhu cầu
sử dụng vốn của các DN nói riêng và các KH vay vốn NH nói chung. Do đó, để mở rộng
cho vay thì các NH phải đưa ra được một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện phát
triển trong từng giai đoạn, sao cho vừa bảo đảm được mục tiêu mà NH đề ra vừa khuyến
khích được các KH sử dụng vốn vay từ NH. Hiện nay, NHNN đã cho phép các NHTM
được cho vay theo lãi suất thoả thuận, do vậy các NH có thể sử dụng nó như một công cụ
tốt để thu hút KH. Chẳng hạn đối với KH có quan hệ tín dụng thường xuyên thì NH có
thể áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức bình thường. Việc sử dụng chính sách lãi suất linh
hoạt vừa thu hút được KH, đem lại lợi ích cho NH đồng thời nó cũng đem lại lợi ích cho
người sử dụng vốn.
Thứ năm: Các phương thức cho vay.
Hiện nay theo quy định của NHNN thì các NHTM được áp dụng nhiều phương
thức cho vay đối với KH. Tuy nhiên trên thực tế thì các NHTM vẫn chưa đa dạng hoá các
hình thức cho vay nhất là phương thức cho vay theo hạn mức và cho thuê TC vẫn còn
chưa được thực hiện rộng rãi. Việc mở rộng hơn nữa các hình thức cho vay đối với KH là
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
17
cơ hội để NH có thể hạn chế rủi ro đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để KH có thể tiếp
cận được nguồn vốn của NH.
3.2. Nhân tố từ phía khách hàng.
Để có thể vay được vốn của NH thì trước hết KH phải thoả mãn được điều kiện
vay vốn. Trong đó điều kiện quan trọng nhất là TSĐB và phương án sử dụng vốn vay của
KH, tỷ lệ vốn tự có của KH. TSĐB là nguồn trả nợ thứ hai cho NH khi có rủi ro xảy ra,
chính vì thế NH luôn quan tâm đến yếu tố này, không chỉ ở tính chất hợp pháp của TSĐB
mà còn ở giá trị của nó so với nhu cầu vay vốn của KH. Các điều kiện về tỷ lệ vốn tự có
của KH cũng rất quan trọng và tuỳ từng trường hợp mà NH quy định tỷ lệ cụ thể nhưng
thường không dưới 30%. Đây là điều kiện làm hạn chế rất lớn đến khả năng có thể vay
được vốn NH bởi vì các DN thường thiếu TSĐB, nếu có đủ thì lại thiếu các giấy tờ quan
trọng, còn các cá nhân thì lại chỉ được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp cho những
khoản vay phục vụ SXKD còn các khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng đang tăng nhanh
thì lại chưa được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp.
Ngoài ra, KH đến vay vốn NH nhất là các DN nhiều khi chưa đáp ứng được điều
kiện rất quan trọng mà NH đặt ra đó chính là các vần đề liên quan đến việc chứng minh
nguồn trả nợ cho NH. Chẳng hạn như rất ít các DN có khả năng trình bày rõ ràng các đề
xuất vay vốn cho các DA đầu tư hoặc phương án SXKD bởi vì phần lớn các chủ DN chưa
được đào tạo đầy đủ kiến thức về TC tín dụng. TSĐB chỉ là nguồn trả nợ thứ hai khi
nguồn trả nợ thứ nhất là từ thu nhập của hoạt động SXKD không đảm bảo trả được nợ,
chính vì thế chứng minh cho NH thấy được tính khả thi của các phương án, DA có thể nói
là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với KH. Ngoài ra các phương án KD của KH chưa đủ
hấp dẫn để có thể thu hút vốn của NH. Chính vì thế mà các NHTM ngần ngại cho vay đối
với những đối tượng KH này.
Mức độ tín nhiệm về TC và thương hiệu trong hoạt động của DNVVN chưa cao là
một trong những lý do khiến các NH ngần ngại trong việc cho các DN vay, nhất là các
khoản vay dài hạn. Phía NH tuy nới rộng cánh cửa cho DN qua hình thức cho vay theo
các phương án KD, vay tín chấp… nhưng vẫn còn hạn chế. Hiện nay, đối với các khoản
vay trung và dài hạn, các NH quy định mức vốn cho DN vay căn cứ trên cơ sở chênh lệch
18
giữa tổng nhu cầu vốn cần thiết hợp lý của DA với vốn huy động khác và vốn tự có tham
gia đầu tư vào DA của DN tối thiểu ở mức 30%. Chẳng hạn, quy định vốn tự có tối thiểu
10% đối với các DA cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất và hợp lý hoá sản xuất. Các DN
hiện nay thiếu nhân lực đủ tầm để lập các DA khả thi vay vốn và cũng có DN coi nhẹ
khâu này. Vì thế, đã làm giảm mức độ tín nhiệm của NH đối với DN. Mặt khác, việc thiếu
minh bạch trong TC của DNVVN cũng là một trở ngại lớn cho chính họ. Về phía DN, cần
phải thay đổi cách thức quản trị DN; thực hiện công tác kế toán theo chuẩn mực kế toán
thống kê của Nhà nước; thực hiện kiểm toán hàng năm để minh bạch tình hình TC …
Đây là các điều kiện tiên quyết để DN tiếp cận vốn vay NH. Mặt khác, việc thay đổi cách
thức quản lý cũng sẽ giúp DN nâng cao hiệu quả phát triển KD, nhất là trong bối cảnh các
DN phải đương đầu với môi trường cạnh tranh ngày một khốc liệt hơn.
3.3. Các nhân tố khách quan bên ngoài.
Ngoài những nhân tố xuất phát từ phía NH hay bản thân KH thì còn có những yếu
tố khách quan bên ngoài ảnh hưởng tới cơ chế chính sách của NH hoặc hiệu quả sử dụng
vốn của KH chẳng hạn như môi trường KD của KH, cơ chế chính sách của Nhà nước hay
sự cạnh tranh giữa các NHTM…
Môi trường KD là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả
hoạt động KD của KH. Môi trường KD thuận lợi sẽ là cơ hội để KH mở rộng hoạt động
KD và NH sẽ dễ dàng đầu tư vốn cho đối tượng KH này. Ngược lại nếu KD không thuận
lợi thì không những hoạt động KD của KH gặp khó khăn mà còn không thu hút được
nguồn vốn của NH.
Cơ chế chính sách của Nhà nước không chỉ là nhân tố ảnh hưởng đến chính sách
tín dụng của các NHTM mà còn ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của KH. Chẳng hạn
như chính sách của Nhà nước hỗ trợ sự phát triển của các DNVVN sẽ tạo điều kiện cho
các DN này mở rộng hoạt động KD, có môi trường KD thuận lợi, từ đó có thể tiếp cận
được với nguồn vốn của KH.
Ngoài ra, một số nhân tố khác như sự cạnh tranh của các NH khác cũng ảnh hưởng
đến hoạt động cho vay. Sự cạnh tranh có thể làm cho một số NH giảm doanh số cho vay,
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
19
giảm thị phần… Chính vì thế mà các NHTM sẽ thực hiện chính sách KH theo hướng mở
rộng hơn, tạo điều kiện để KH dễ dàng tiếp cận nguồn vốn của NH hơn.
20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CỬA LÒ.
1. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò.
1.1. Nhiệm vụ và bộ máy tổ chức kinh doanh của chi nhánh.
Chi nhánh NHCT Cửa Lò tiền thân là phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh NHCT
Nghệ An sau đó được nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 2 trực thuộc chi nhánh NHCT
Nghệ An. Ngày 3/10/2006, tại thị xã Cửa Lò, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã tổ chức lễ khai
trương nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam.
Trải qua gần 10 năm phát triển, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã có nhiều thay đổi từ
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho đến quy mô hoạt động. Năm 2005, trụ sở mới của chi
nhánh NHCT Cửa Lò đã hoàn thành với một toà nhà 3 tầng nằm ngay ở trung tâm thị xã
Cửa Lò được trang bị hệ thống máy tính hiện đại có thể kết nối trực tiếp với Trụ sở chính
của NHCT Việt Nam. Từ chỗ phạm vi hoạt động chỉ dừng lại ở địa bàn thị xã Cửa Lò, chi
nhánh đã mở rộng cung cấp dịch vụ cho KH ở các vùng lân cận, trong đó đã bắt đầu khai
thác địa bàn thành phố Vinh - địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển hơn nữa trong tương
lai. Có thể khẳng định việc nâng cấp trở thành một trong 134 chi nhánh của NHCT Việt
Nam sẽ mở ra cơ hội phát triển hơn nữa cho chi nhánh NHCT Cửa Lò trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của chi nhánh NHCT Cửa Lò là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ của
NHCT Việt Nam tới các KH có nhu cầu. Việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ này phải
đảm bảo nguyên tắc quyền lợi KH phải được đáp ứng kịp thời, các mục tiêu, chương trình
phát triển kinh tế của địa phương phải được bám sát để có hướng đầu tư thích hợp. Chi
nhánh NHCT Cửa Lò phải là nơi tạo lập, giữ vững niềm tin cho KH đối với NHCT Việt
Nam nói riêng và hệ thống NH Việt Nam nói chung. Hoạt động của chi nhánh NHCT Cửa
Lò phải hướng tới mục tiêu góp phần phát triển kinh tế địa phương, là địa chỉ đáng tin cậy
cho các cá nhân có nhu cầu gửi tiền cũng như các DN có nhu cầu vay vốn để phát triển
SXKD nhưng phải trên cơ sở hoạt động KD của chi nhánh có lãi.
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
21
Cơ cấu bộ máy điều hành của chi nhánh NHCT Cửa Lò được thể hiện qua sơ đồ
sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu bộ máy tổ chức điều hành của NHCT Cửa Lò
1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Cửa Lò.
Nhìn lại trong thời gian qua ngành NH đã có những bước phát triển vượt bậc.
NHNN Việt Nam liên tục ban hành nhiều cơ chế chính sách mới tạo hành lang pháp lý
phù hợp hơn và an toàn hơn cho hoạt động của các NHTM. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh
giữa các NHTM diễn ra gay gắt, ngày càng sâu sắc, không chỉ trên lĩnh vực tín dụng
truyền thống mà còn trên các dịch vụ NH hiện đại. Thực tế đó đã đặt ra nhiều khó khăn
thách thức cho hoạt động của chi nhánh NHCT Cửa Lò nhất là khi chi nhánh vừa mới
được nâng cấp. Song với phương châm KD “Vì sự phát triển của khách hàng và ngân
hàng”, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã khắc phục khó khăn và hoàn thành các chỉ tiêu kế
hoạch đặt ra, góp phần vào sự phát triển của NHCT Việt Nam.
1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ tạo vốn quan trọng hàng đầu của
NHTM. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã thu hút các nguồn tiền tạm
thời chưa sử dụng của các DN, của các tầng lớp dân cư. Trên cơ sở nguồn vốn huy động
22
được, các NHTM tiến hành các hoạt động đầu tư như cho vay, tài trợ thương mại, đầu tư
chứng khoán… phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất cho các mục tiêu kinh tế của vùng,
ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội nhằm thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Trong những năm gần đây công tác huy động vốn của chi nhánh NHCT Cửa Lò đã
có nhiều bước phát triển mới. Cơ cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 1: Nguồn vốn huy động tại chi nhánh NHCT Cửa Lò
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Số tiền T.trọng
(%)
Số tiền T.trọng
(%)
Số tiền T.trọng
(%)
Tổng nguồn huy động 22.4 100 26.75 100 29.08 100
1)Phân theo thời gian
Tiền gửi không kỳ hạn 5.6 25 6.9 25.8 7.58 26.06
Tiền gửi có kỳ hạn 16.8 75 19.85 74.2 21.5 73.94
2)Phân theo đồng tiền huy động
Tiền gửi nội tệ 17.3 77.2 20.5 76.6 23 79.1
Tiền gửi ngoại tệ 5.1 22.8 6.25 23.4 6.08 20.9
3)Phân theo thành phần kinh tế
Tiền gửi các tổ chức kinh tế 3.8 17 5.08 19 3.48 12
Tiền gửi tiết kiệm cá nhân 18.6 83 21.67 81 25.6 88
(Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh NHCT Cửa Lò )
Trước hết, xét về quy mô tổng nguồn vốn huy động được ta có thể thấy mặc dù
quy mô còn rất nhỏ, chưa đạt 30 tỷ đồng nhưng đã có sự gia tăng qua các năm từ 2004
đến 2006. Từ 22.4 tỷ đồng năm 2004, nguồn vốn huy động được đã tăng lên 26.75 tỷ
đồng trong năm 2005 tương ứng với tốc độ tăng trưởng đạt 19.4%. Cuối năm 2006, tổng
nguồn vốn huy động được của NH là 29.08 tỷ đồng, tăng 2.33 tỷ đồng so với năm 2005
và đạt tốc độ tăng trưởng 8.7%. Như vậy, quy mô có tăng nhưng còn nhỏ bé trong khi đó
tốc độ tăng trưởng lại giảm mạnh từ 19.4% năm 2005 xuống chỉ còn 8.7% năm 2006.
Cũng qua bảng 1, ta có thể đánh giá khái quát chất lượng của nguồn vốn huy động
được. Nguồn vốn có tính ổn định cao là tiền gửi có kỳ hạn luôn chiếm tỷ lệ cao trong
tổng nguồn vốn huy động được (trên 73%), điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
23
NH trong việc lập kế hoạch KD. Tuy nhiên, đây lại là nguồn vốn mà NH phải chi trả lãi
nhiều nhất nên có thể làm tăng chi phí trả lãi từ đó làm giảm thu nhập của NH. Chính vì
thế, trong thời điểm cụ thể NH cần phải cân nhắc hợp lý giữa khả năng huy động vốn và
khả năng mở rộng hoạt động cho vay.
Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền huy động khá ổn định trong đó tiền gửi ngoại tệ
chiếm khoảng 20-30% tổng nguồn vốn huy động. Tuy chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
nguồn vốn huy động được nhưng tiền gửi ngoại tệ còn tăng chậm, thậm chí năm 2006 còn
giảm khoảng 13% so với năm 2005. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn theo thành phần kinh
tế cũng có một số vấn đề cần quan tâm. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế - nguồn
vốn có lãi suất huy động thấp và có mối quan hệ với việc mở rộng hoạt động cho vay của
NH đối với các DN – chưa được khai thác tốt, thậm chí đang có xu hướng giảm. Năm
2005, nguồn vốn huy động được từ các tổ chức kinh tế đạt 5.08 tỷ đồng tăng 1.28 tỷ đồng
so với năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng 33.7%, nhưng đến năm 2006 thì lại giảm
xuống chỉ còn 3.48 tỷ đồng chưa đạt mức năm 2004.
Như vậy, có thể nói hoạt động huy động vốn chưa thực sự ổn định. Tốc độ tăng
trưởng nguồn vốn huy động giảm mạnh trong năm 2006 chủ yếu là do tiền gửi của các tổ
chức kinh tế giảm mạnh. Điều này phản ánh một thực tế hiện nay tại NH là mặc dù có Hệ
thống thanh toán hiện đại và đã thực hiện giao dịch một cửa nhưng hoạt động tiếp thị,
quảng bá sản phẩm của NH tới KH là còn yếu kém. Bên cạnh đó, mức lãi suất nguồn vốn
huy động của NH lại không có sự khác biệt so với NH khác trên cùng địa bàn. Những
điều kiện thuận lợi của NH như cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, thiết bị một cửa…
đã bị những điều này làm giảm đi đáng kể, chính vì thế NH cần phải nhanh chóng khắc
phục những hạn chế này.
1.2.2. Hoạt động tín dụng.
Trong thời gian qua, nhìn chung hiệu quả của việc sử dụng vốn tại chi nhánh
NHCT Cửa Lò đã có những bước phát triển mới.
Bảng 2: Hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Cửa Lò
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
24
Doanh số cho vay 27.9 32.4 59
Doanh số thu nợ 20.1 28.3 35.8
Tổng dư nợ 23.6 27.7 50.9
(Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh NHCT Cửa Lò)
Qua bảng trên, ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ và tổng dư nợ đều tăng
qua các năm từ 2004 đến 2006. Doanh số cho vay từ 27.9 tỷ đồng năm 2004 đã tăng lên
32.4 tỷ đồng năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng 16% và đến 2006 thì con số này đã tăng
lên 59 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng so với năm 2005 là 82%. Doanh số thu
nợ cũng đạt được những kết quả tương tự, từ 20.1 tỷ đồng năm 2004 đã tăng lên 28.3 tỷ
đồng năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng 40.8% và đến năm 2006 đã tăng lên 35.8 tỷ đồng
tương ứng với tốc độ tăng trưởng so với năm 2005 là 26.5%. Tổng dư nợ đến ngày
31/12/2006 tại chi nhánh đạt 50.9 tỷ đồng tăng 23.2 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng
trưởng so với năm 2005 là 83.8% trong khi đó dư nợ của năm 2005 chỉ tăng 17.4% so với
năm 2004. Điều này cho thấy, năm 2006 là một năm mà hoạt động cho vay tại chi nhánh
NHCT Cửa Lò diễn ra rất sôi động. Mặc dù doanh số cho vay và tổng dư nợ của năm
2006 chưa thể là cơ sở để khẳng định được mức độ an toàn của nguồn vốn song đã phần
nào cho thấy sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên của chi nhánh NHCT Cửa Lò nhất là
các nhân viên của Phòng khách hàng - những người trực tiếp thực hiện công tác cho vay
và thu nợ.
Bảng 3: Chất lượng dư nợ tại chi nhánh NHCT Cửa Lò.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Số tiền
T.trọng
(%)
Số
tiền
T.trọng
(%)
Số
tiền
T.trọng
(%)
Tổng dư nợ 23.6 100 27.7 100 50.9 100
Nợ đủ tiêu chuẩn 22.87 96.9 26.9 97.1 49.7 97.6
Luận văn tốt nghiệp Dương Thị Hiền – Ngân hàng 45C
25