Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Đánh giá công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng trạm trung chuyển kho bãi hàng hóa Pác Luống, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, Tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.63 KB, 65 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, sử dụng
và khai thác đất đai một cách hiệu quả nhất để phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước thực hiện giao quyền sử dụng đất cho
các tổ chức, các đơn vị và hộ gia đình, cá nhân sử dụng để sản xuất kinh doanh
dịch vụ, sử dụng để ở, sinh hoạt và giao đất cho các cơ quan, tổ chức để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển
kinh tế theo chiến lược, kế hoạch và mục tiêu quản lý phát triển đất nước, nên
hầu hết diện tích đất của quốc gia đã được đưa vào sử dụng để phục vụ cho sự
nghiệp sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ quốc phòng an ninh tổ quốc.
Trong quá trình xây dựng quốc phòng, an ninh bảo vệ tổ quốc, củng cố phát triển
nền kinh tế - xã hội của đất nước và thực hiện chức năng quản lý đất đai, Nhà
nước thực hiện điều chỉnh lại việc sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân theo quy hoạch sử dụng đất, theo nhu cầu sử dụng đất để phục vụ cho mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước thông qua phương thức thu hồi đất và được thể chế vào
Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Tuy nhiên, vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (TĐC) kéo dài vẫn
đang là vấn đề nổi cộm tại nhiều địa phương, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
đất, đến người có đất bị thu hồi và tác động xấu đến môi trường đầu tư của nước
ta. Nguyên nhân gây nên tình trạng này ngoài vấn đề về giá đất tính bồi thường
chưa hợp lý, còn nguyên nhân quan trọng là do chính sách, thủ tục về thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, TĐC còn nhiều vướng mắc, bất cập. Mặt khác, một số địa
phương đã đơn giản trong việc thu hồi đất, chưa gắn công tác thu hồi đất với
TĐC, đặc biệt là hỗ trợ việc làm, dạy nghề cho lao động, việc bồi thường cho hộ
1
bị thu hồi đất chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ hoá, chưa có cơ chế, giải
pháp kịp thời và hiệu quả để hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, ổn định đời sống cho
người bị thu hồi đất. Hơn nữa, công tác TĐC cũng chưa được chuẩn bị chu đáo,


thiếu các điều kiện đảm bảo cho người dân có điều kiện sinh hoạt bình thường tại
nơi ở mới. Vì vậy, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, không chuyển đổi
được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt tại nơi TĐC hiện đang là
vấn đề bức xúc diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương, gây cản trở trong công
tác giải phóng mặt bằng (GPMB).
Tại Nghị định số: 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đã quy định
cụ thể về các mức bồi thường về đất, tài sản và các chính sách hỗ trợ, tái định
cư. Giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các cơ quan chức
năng như: Cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), chức năng của cấp
xã trong công tác GPMB. Cùng với đó là trách nhiệm của các cơ quan chức
năng có liên quan, nghĩa vụ và quyền lợi của người bị thu hồi đất [2].
Xuất phát từ vấn đề đó, được sự nhất trí của Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Quản Lý Tài Nguyên, dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Nguyễn Thị Lợi, em tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Đánh giá công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng Dự án
xây dựng trạm trung chuyển kho bãi hàng hóa Pác Luống, xã Tân Mỹ,
huyện Văn Lãng, Tỉnh Lạng Sơn ”
1.2. Mục đích của đề tài
Đánh giá công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng trạm
trung chuyển kho bãi hàng hóa Pác Luống xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, Tỉnh
Lạng Sơn, từ đó tìm ra những thuận lợi, khó khăn của công tác BT&GPMB
của dự án và đề xuất các giải pháp có tính khả thi cho công tác BT&GPMB
của địa phương trong thời gian tới.
2
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm chắc Luật Đất đai hiện hành, các Nghị định, Thông tư có liên
quan đến công tác BT&GPMB, hỗ trợ tái định cư cho người dân sau khi giải
phóng mặt bằng.
- Nắm chắc khung giá bồi thường của Chính phủ, địa phương.

- Nắm chắc các quyết định, tờ trình và các văn bản khác có liên quan
đến bồi thường, GPMB của Nhà nước và của địa phương.
- Các số liệu điều tra, thu thập phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, trung
thực, khách quan.
- Phải biết phân tích, đánh giá các số liệu điều tra, thu thập.
- Đề xuất các giải pháp mang tính cụ thể dựa trên các kết quả nghiên cứu.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu: Bổ sung những kiến thức đã học
trên lớp, học hỏi, tiếp nhận những kiến thức, kinh nghiệm thực tế và hiểu rõ
hơn về công tác quản lý Nhà nước về đất đai, cụ thể là công tác BT&GPMB,
hỗ trợ tái định cư.
- Ý nghĩa trong thực tiễn: Từ quá trình nghiên cứu đề tài giúp tìm ra
được những thuận lợi, khó khăn của công tác BT&GPMB để từ đó rút ra
những giải pháp khắc phục, góp phần đẩy nhanh tiến độ BT&GPMB.
3
PHÂN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái quát bồi thường giải phóng mặt bằng
Công tác giải phóng mặt bằng là một quá trình khó khăn phức tạp, bao
gồm các công tác từ việc bồi thường đất, đến khi các hộ dân nhận tái định cư
và ổn định đời sống. giải phóng mặt bằng thể hiện khác nhau đối với mỗi dự án
khác nhau nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và nhân dân.
2.1.1. Các khái niệm liên quan đến công tácbồi thường
giải phóng mặt bằng
- Công tác BT&GPMB là việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công
cộng, mục đích phát triển kinh tế.
- Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại
quyền sử dụng đất đã được giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản
lý theo quy định của Luật Đất đai 2003 (Quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật

Đất đai 2003 [6]).
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất
(Quy định tại Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai 2003 [6]).
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị
thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí di
dời đến địa điểm mới (Quy định tại Khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai 2003[6] ).
- Tái định cư:
+ Theo từ điển Tiếng Việt: Tái nghĩa là "hai lần hoặc lần thứ hai, lại
một lần nữa". Định cư nghĩa là "ở một nơi nhất định để sinh sống, làm ăn".
4
+ Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Tái định cư là xây dựng
khu dân cư mới, có đất để sản xuất và cơ sở hạ tầng công cộng tại một địa
điểm khác.
+ Các hình thức tái định cư: Tái định cư tập trung, tái định cư tại chỗ,
tái định cư xen ghép (phân tán).
2.1.2. Đặc điểm của quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng
Như chúng ta đã biết, để thực hiện được dự án theo đúng tiến độ thì
trước hết các chủ đầu tư cần phải giải phóng được mặt bằng. Công việc này
mang tính chất phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức và tiền của. Ngày
nay, công việc này ngày càng trở nên khó khăn hơn do đất đai ngày càng có
giá trị và khan hiếm. Bên cạnh đó công tác BT&GPMB liên quan đến lợi ích
của nhiều cá nhân, tập thể và của toàn xã hội. Ở các địa phương khác nhau thì
công tác BT&GPMB cũng có nhiều đặc điểm khác nhau. Chính vì vậy, công
tác BT&GPMB mang tính đa dạng và phức tạp.[3]
- Tính đa dạng: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau
với điều kiện TN-KT-XH và trình độ dân trí nhất định. Đối với từng khu vực
thì mật độ dân cư khác nhau, ngành nghề đa dạng và đều hoạt động sản xuất
theo đặc trưng riêng của vùng đó. Do đó, công tác BT&GPMB cũng được
tiến hành với những đặc điểm riêng biệt.

- Tính phức tạp: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng
trong đời sống KT-XH đối với mọi người dân. Ở khu vực nông thôn, dân cư
chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu
sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng
chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn. Do đó, tâm lý người dân khu vực này là
phải giữ được đất để sản xuất. Mặt khác, cây trồng vật nuôi trên vùng đó cũng
đa dạng, không được tập trung một loại nhất định nên gây khó khăn cho công
tác định giá bồi thường.
5
Đối với đất ở lại càng phức tạp hơn do những nguyên nhân sau:
+ Đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và sinh
hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở.
+ Do yếu tố lịch sử để lại nên nguồn gốc sử dụng đất phức tạp và do cơ
chế chính sách chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế sử dụng đất nên chưa
giải quyết được các vướng mắc tồn tại cũ.
+ Việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ dẫn đến các hiện tượng lấn chiếm,
xây dựng nhà trái phép nhưng lại không được chính quyền địa phương xử lý
dẫn đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương án bồi thường gặp rất
nhiều khó khăn.
+ Thiếu quỹ đất dành cho xây dựng khu tái định cư cũng như chất
lượng khu tái định cư thấp, chưa đảm bảo được yêu cầu.
+ Việc áp dụng giá đất ở để tính bồi thường giữa thực tế và quy định
của nhà nước có những khoảng cách khá xa cho nên việc triển khai thực hiện
cũng không được sự đồng thuận của những người dân.[3].
2.1.3. Những yếu tố tác động đến công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng
BT&GPMB là hoạt động hết sức nhạy cảm và phức tạp do tác động tương
hỗ qua lại với nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội Chính vì vậy, tiến độ cũng
như kết quả của quá trình BT&GPMB phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
- Chính sách bồi thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư của Nhà nước.

Chính sách của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư
quy định về trình tự tiến hành GPMB, quy định về quyền và nghĩa vụ của các
bên có liên quan, đồng thời cũng quy định cụ thể về mức bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư. Do đó, chính sách có ảnh hưởng trực tiếp và xuyên suốt trong
quá trình BT&GPMB.
- Điều kiện TN - KT - XH của địa bàn:
6
Quy mô, khối lượng GPMB, đặc điểm, tính chất, độ phức tạp trong
công tác BT&GPMB của từng dự án chịu tác động trực tiếp bởi điều kiện TN-
KT-XH của địa bàn.
- Công tác quản lý Nhà nước về đất đai:
Khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư thì việc lập hồ sơ
pháp lý về đất đai và tài sản là một yêu cầu không thể thiếu. Việc xác lập hồ sơ
không chỉ dựa vào đo vẽ, khảo sát thực tế mà còn dựa vào các loại hồ sơ lưu
như: GCNQSD đất, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng,
biên bản thống kê, kiểm kê đất đai Do vậy, công tác quản lý Nhà nước về đất
đai được thực hiện đúng, đầy đủ, thường xuyên sẽ giúp cho việc xác lập hồ sơ
đơn giản, nhanh gọn, tránh sự tranh chấp giữa các bên và ngược lại.
- Tổ chức thực hiện:
Đây là yếu tố quyết định đối với công tác BT&GPMB. Trên cơ sở các
chính sách của Nhà nước, điều kiện thực tế của địa bàn và dự án, việc tổ chức
thực hiện (trình tự, thủ tục, cơ cấu nhân sự, phương pháp làm việc ) được
tiến hành một cách hợp lý và khoa học sẽ mang lại kết quả cao, đảm bảo lợi
ích các bên.
- Ngoài các yếu tố trên còn nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến công tác BT&GPMB như:
+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
+ Việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về quản lý
và sử dụng đất tác động đến công tác BT&GPMB.
+ Thanh tra chấp hành các chế độ, thể lệ quản lý và sử dụng đất.

+ Nhận thức và thái độ của người dân bị thu hồi đất, công tác tuyên
truyền, vận động người dân thực hiện theo chính sách pháp luật Nhà nước
7
2.2. Cơ sở khoa học của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
2.2.1. Cơ sở pháp lý của công tác giải phóng mặt bằng
2.2.1.1. Những văn bản của Chính phủ và cơ quan Trung Ương
- Hiến pháp năm 1992
- Luật Đất đai 2003
- Bộ Luật Dân sự 2005
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật đất đai 2003.
- Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về giá đất
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Thông tư 116/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/01/2006 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 197/2004/NĐ-CP
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai
- Thông tư 06/2007/TT-BTNMT về việc hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
- Nghị định 123/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/7/2007 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá và khung giá các loại đất.
8
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ Quy

định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.
- Thông tư 14/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất.
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định
bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện QSDĐ, trình tự thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất.[1].
2.2.1.2. Những văn bản của địa phương
- Quyết định số: 22/2009/QĐ-UBND ngày 23/12/2009 của UBND tỉnh Lạng
Sơn về việc Ban hành giá các loại đất năm 2009 trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 16/2008/QĐ-UBND ngày 17/07/2008 của UBND
tỉnh Lạng Sơn về việc Ban hành đơn giá cây trồng, vật nuôi áp dụng cho
công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 06/2008/QĐ-UBND ngày 20/03/2008 của UBND tỉnh
Lạng Sơn về việc Ban hành đơn giá bồi thường thiệt hại nhà cửa, vật kiến trúc
áp dụng thống nhất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 21/2009/QĐ-UBND ngày 08/12/2009 của UBND tỉnh
Lạng Sơn về việc Ban hành Quy định về cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
9
2.2.1.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng dự án xây dựng trạm trung
chuyển kho bãi hàng hóa Pác Luống.
- Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003.
- Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy

định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Nghị định số: 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về
quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
- Thông tư số: 02/2012/TT-BKHDT ngày 04 tháng 04 năm 2012.
- Quyết định số: 22/2009/QĐ-UBND ngày 23/12/2009 của UBND
tỉnh Lạng Sơn về việc Ban hành giá các loại đất năm 2009 trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số 16/2008/QĐ-UBND ngày 17/07/2008 của UBND
tỉnh Lạng Sơn về việc Ban hành đơn giá cây trồng, vật nuôi áp dụng cho
công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 06/2008/QĐ-UBND ngày 20/03/2008 của UBND tỉnh
Lạng Sơn về việc Ban hành đơn giá bồi thường thiệt hại nhà cửa, vật kiến trúc
áp dụng thống nhất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 21/2009/QĐ-UBND ngày 08/12/2009 của UBND tỉnh
Lạng Sơn về việc Ban hành Quy định về cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Quyết định số: 2135/QĐ-UBND Huyện Văn Lãng ngày 16 tháng 9 năm
2010 về việc thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Huyện.
10
Quyết định số 1214/UBND-KTN ngày 22 tháng 12 năm 2009 của
UBND tỉnh Lạng Sơn về việc chấp thuận địa điểm đầu tư xây dựng trạm
trung chuyển kho Container Pác Luống, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn.
Quyết định số 1312/QĐ-UBND ngày 29 tháng 07 năm 2010 của
UBND tỉnh Lạng Sơn, về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ
1/500 trạm trung chuyển kho Container Pác Luống xã Tân Mỹ, huyện Văn
Lãng, Tỉnh Lạng Sơn.

2.2.2. Cơ sở lý luận của đề tài
Thực chất của việc GPMB là chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chuyển mục đích sử dụng đất dưới sự điều tiết của Nhà nước để phục vụ vào
mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Luật Đất đai 2003 quy định như sau:
Điều 38

: Các trường hợp thu hồi đất
Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải
thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;
3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;
11
b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật
này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia
hạn khi hết thời hạn;
11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười
hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười

tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi
bốn tháng liền;
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà
không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng
đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ
khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép. [6]
Điều 42.

Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi
1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì
người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các
khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g
khoản 1 Điều 43 của Luật này.
2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất
mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.
12
3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực
hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất
ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.
4. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được
bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn
định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.
5. Trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu
hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của
pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị

được bồi thường, hỗ trợ.
6. Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị
thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất (Luật Đất đai 2003[6] ).
2.2.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
- Trong điều kiện hiện nay ở các địa phương nói chung và Tỉnh Lạng
Sơn nói riêng, công tác BT&GPMB được xác định là một trong những nhiệm
vụ quan trọng để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế, xã hội
cũng như sự tăng trưởng GDP của địa phương. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn,
phức tạp, liên quan trực tiếp đến đại bộ phận nhân dân, dễ gây mất ổn định
trật tự xã hội.
- Công tác BT&GPMB mang tính quyết định vì tiến độ của các dự án,
là khâu đầu tiên trong thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng
nhanh là một nửa dự án”. Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích của Nhà nước, của chủ đầu tư, mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất
cũng như tinh thần của những người bị thu hồi đất.
13
- Công tác BT&GPMB được triển khai thực hiện đúng tiến độ, đúng kế
hoạch đề ra sẽ tiết kiệm được thời gian và việc thực hiện dự án có hiệu quả.
Ngược lại công tác BT&GPMB chậm, kéo dài gây ảnh hưởng đến tiến độ thi
công các công trình cũng như chi phí cho dự án, có khi gây ra thiệt hại không
nhỏ trong đầu tư xây dựng.
- Mặt khác, nếu công tác BT&GPMB ở các địa phương không được
thực hiện tốt sẽ xảy ra hiện tượng “Dự án treo” làm cho chất lượng công trình
bị giảm, các mục tiêu ban đầu không thực hiện được, từ đó gây lãng phí rất
lớn cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, khi Hội đồng đền bù giải quyết không
thoả đáng quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi sẽ dễ dàng nổ ra
những vụ khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể, làm cho tình hình
chính trị - xã hội ở địa phương mất ổn định.
14

2.3. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trên thế
giới và Việt Nam
2.3.1. Chính sách bồi thường giải phóng mặt của các tổ chức tài trợ, một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
2.3.1.1. Chính sách bồi thường giải phóng mặt ở Trung Quốc
Công tác bồi thường tái định cư của Trung Quốc những năm gần đây
đạt được kết quản đáng kể, nguyên nhân là do xây dựng các chính sách và các
thủ tục rất chi tiết, ràng buộc các hoạt động tái định cư với nhiều lĩnh vực
khác, mục tiêu của chính sách này là cung cấp cơ hội phát triển cho tái định
cư, thông qua cách tiếp cận và tạo nơi ở ổn định, tạo nguồn lực sản xuất cho
người thuộc diện bồi thường, tái định cư.
Đối với những dự án phải bồi thường để giải phóng mặt bằng, kế hoạch
tái định cư chi tiết được chuẩn bị trước khi thông qua dự án, cùng với việc
dàn xếp kinh tế cho từng địa phương, từng gia đình và người bị ảnh hưởng.
Thành công của Chính phủ Trung Quốc trong việc thực hiện bồi
thường và tái định cư là do hệ thống pháp luật đồng bộ, pháp luật đất đai và
chính sách đất đai đầy đủ, phù hợp với công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đai rất năng động, rất khoa học, cùng một số pháp quyền vững chắc, năng
lực thể chế của chính quyền địa phương theo thẩm quyền có hiệu lực cao,
người dân có ý thức chấp hành pháp luật, nhân dân tin tưởng vào chế độ tốt
đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. [9]
2.3.1.2. Chính sách bồi thường giải phóng mặt ở Australia
Luật Đất đai Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu của
Nhà nước và sở hữu tư nhân. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng,
thế chấp, thừa kế theo di chúc mà không có bất cứ sự cản trở nào, kể cả việc
tích lũy đất đai. Theo luật Đất đai Australia có hai loại thu hồi đất đó là thu
hồi đất tự nguyện và thu hồi đất bắt buộc. Chủ có đất cần thu hồi và người thu
hồi đất sẽ thỏa thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận của hai bên
và căn cứ vào giá cả thị trường. Thực chất việc giải phóng mặt bằng ở đây chỉ
15

là việc mua bán đất đai theo giá thỏa thuận giữa người mua và người bán, cho
nên giải phóng mặt bằng chỉ mang tính thủ tục vì đất đai thuộc sở hữu của tư
nhân. Qua đây ta thấy với Australia nói riêng và các quốc gia tư bản chủ
nghĩa khác nói chung, thị trường đất đai phát triển theo quy luật hàng hóa thị
trường và hàng hóa được mua bán tự do, chế độ sở hữu tư nhân về đất đai
được xác lập ổn định, quá trình tích lũy đất đai có thể lên đến đỉnh cao, thị
trường mang tính chất độc quyền và các nước này thường áp dụng luật thuế
đối với việc mua bán đất đai không áp đặt giới hạn hành chính với thị trường
đất đai (Viện nghiên cứu địa chính, 2002 [8]).
2.3.1.3. Công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng ở Thái lan
Mặc dù chưa có chính sách bồi thường và tái định cư của quốc gia
nhưng Hiến pháp 1982 quy định việc trưng dụng đất cho xây dựng cơ sở hạ
tầng quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên cho đất nước, phát triển đô thị,
cải tạo đất đai và các công trình công cộng khác phải theo thời giá thị trường
cho những người hợp pháp về tất cả các thiệt hại do việc trưng dụng đất gây
ra và quy định việc bồi thường phải khách quan cho người chủ mảnh đất và
người có quyền thừa kế tài sản đó. Dựa trên các quy định này, các ngành có
quy định chi tiết cho việc trưng dụng đất cho ngành mình.
Năm 1987, Thái Lan ban hành Luật trưng dụng về bất động sản áp
dụng cho việc trưng dụng đất sử dụng vào việc xây dựng tiện ích công cộng,
quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên hoặc lợi ích khác cho đất nước, phát
triển đô thị, nông nghiệp, công nghiệp, cải tạo đất đai sử dụng vào mục đích
công cộng. Luật quy định những nguyên tắc về trưng dụng đất, nguyên tắc
tính giá trị đền bù các loại tài sản bị thiệt hại. Căn cứ vào đó, từng ngành đưa
ra những quy định cụ thể về trình tự tiến hành bồi thường, tái định cư, nguyên
tắc cụ thể xác định bồi thường, các bước lập và phê duyệt dự án bồi thường
tái định cư, trình tự đàm phán, nhận tiền bồi thường, quyền khiếu nại, tố cáo,
khởi kiện ra tòa.
16
2.3.1.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam.

Qua nghiên cứu chính sách BT&GPMB của một số nước, Việt Nam
chúng ta cần học hỏi các kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện chính sách
BT&GPMB ở một số điểm sau:
- Hoàn thiện các quy định về công tác định giá đất nói chung và định
giá đất để thực hiện công tác BT&GPMB nói riêng bằng cách thành lập các
đơn vị tư vấn trong việc điều tra, nghiên cứu và xây dựng giá đất ở các tỉnh,
thành phố cả nước để giúp nhà nước xây dựng được một khung giá phù hợp
sao cho hài hoà giữa lợi ích của người dân và lợi ích quốc gia.
- Công khai hoá đầy đủ các thông tin liên quan về dự án cũng như
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ dân bị thu hồi được
biết, được bàn và kiểm tra.
- Quan tâm hơn nữa đối với việc lập quy hoạch và xây dựng các khu tái
định cư, các chế độ chính sách của những nguời bị thu hồi đất, giá cả đền bù
phải sát với giá thị trường, xử lý hài hoà lợi ích và quyền lợi của người bị thu
hồi đất, của chủ đầu tư với Nhà nước.
- Ngoài khoản tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định thì cần nghiên cứu
chính sách hỗ trợ trong việc chuyển đổi nghề và tạo ra công ăn việc làm sau
khi bị thu hồi đất.
2.3.2. Công tác giải phóng mặt bằng ở trong nước và
một số tỉnh ở Việt Nam
2.3.2.1 công tác giải phóng mặt bằng ở Việt Nam
Việt Nam đang trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày càng được
nhìn nhận đầy đủ, toàn diện và khoa học, đặc biệt là trong thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tình hình bồi thường, giải phóng mặt
bằng hiện nay đã được Nhà nước quan tâm đúng mức, đã thực hiện tốt công
tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đáp
17
ứng được nhu cầu xây dựng các dự án, nhằm thúc đẩy tiến độ phát triển kinh
tế thị trường. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những vấn đề khó khăn,
bất cập. Thực tế cho thấy sau khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi

thường, giải phóng mặt bằng người dân bị ảnh hưởng gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là những người bị thồi hết đất sản xuất phải chuyển sang nghề khác. Với
giá trị được bồi thường, người có đất bị thu hồi không có khả năng tạo lập nơi
ở mới cũng như không có khả năng đầu tư để chuyển sang nghề khác. Cùng
với tiến trình phát triển của đất nước, dưới sự tác động của nền kinh tế thị
trường cùng với số lượng các dự án gia tăng, công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất ngày càng trở nên phức tạp và khó khăn,
đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ chế, chính sách trong công tác này. Đồng
thời Nhà nước cũng cần có chính sách phù hợp về nhà ở, lao động và việc làm
… để giải quyết những vấn đề liên quan đến đời sống, kinh tế cộng đồng và
ổn định xã hội.
2.3.2.2. Công tác giải phóng mặt bằng ở TP. Hà Nội
Đến năm 2012 số dự án GPMB trên toàn TP.Hà Nội là 1.005 (gấp 3 lần
cùng kỳ năm trước), với quy mô thu hồi đất trên 13.500 ha (gấp 4,5 lần cùng
kỳ năm trước), phạm vi thu hồi liên quan đến hơn 186.000 tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân, với số hộ cần bố trí tái định cư là trên 19.000 hộ. Trong đó, đã
hoàn thành xong 225 dự án; hoàn thành và bàn giao một phần diện tích cho 57
dự án theo phân kỳ đầu tư, bàn giao trên 1.500 ha đất, chi trả trên 2.900 tỷ
đồng cho trên 49.600 hộ dân, bố trí tái định cư cho trên 2.130 hộ.
Ba tháng đầu năm 2013, TP.Hà Nội tiếp tục thực hiện GPMB trên 790
dự án, với quy mô thu hồi đất lên đến trên 11.700 ha, liên quan đến gần
177.000 hộ dân, bố trí tái định cư cho trên 16.420 hộ. Đến nay, 14 dự án đã
hoàn thành toàn bộ công tác BT&GPMB; 4 dự án đã hoàn thành bàn giao một
18
phần theo phân kỳ đầu tư, bàn giao 102 ha đất, chi trả 2.780 tỷ đồng cho gần
4.470 hộ dân, bố trí tái định cư cho 378 hộ.
Thành phố đã tập trung chỉ đạo, đề ra nhiều giải pháp, rà soát, thống
nhất ban hành nhiều cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đặc
biệt sau khi mở rộng địa giới hành chính thành phố; trực tiếp xem xét, khảo
sát, kiểm tra xử lý những khó khăn, vướng mắc về chính sách bồi thường, hỗ

trợ cho người dân phải di dời ở một số dự án trọng điểm. Các cấp, các ngành,
đặc biệt là các ngành chức năng của thành phố đã có nhiều cố gắng, vào cuộc
quyết liệt, đồng bộ, thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Tổ chức tập huấn
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn về công tác GPMB. Công
tác tuyên truyền đối với người dân được thực hiện thường xuyên, đặc biệt
qua các chuyên mục về cơ chế chính sách BT&GPMB, thực hiện tái định cư
trên các báo, đài của TP.Hà Nội.
Những giải pháp đồng bộ, kịp thời của thành phố về những vấn đề: Quy hoạch,
thu hồi đất, quy trình và chính sách BT&GPMB nêu trên, với phương thức giải
quyết, giải đáp tại chỗ, rà soát rút ngắn quy trình BT&GPMB đối với những
nội dung thuộc thẩm quyền của Thành phố đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và
hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ BT&GPMB trên địa bàn.[4]
2.3.2.3. Công tác giải phóng mặt bằng ở Tp Thái Nguyên
Trong những năm gần đây tỉnh Thái Nguyên luôn chú trọng đẩy mạnh việc
thu hút đầu tư trong đó thành phố Thái Nguyên đóng vai trò hết sức quan trọng.
Năm 2012 là năm UBND tỉnh tiếp tục tập trung cao độ cho công tác
GPMB để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án làm tiền đề cho mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, đồng thời tạo mặt bằng sạch thu hút vốn đầu tư để
tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Với các dự án trên địa bàn tỉnh, đến hết quý I/2012 đã có khoảng 460 dự án
được chấp thuận đầu tư và đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu
tư đăng ký khoảng trên 150 tỷ đồng; bao gồm 200 dự án đã được cấp giấy chứng
19
nhận đầu tư, 260 dự án đã được chấp thuận đầu tư. Trong đó có nhiều dự án
trọng điểm của tỉnh như: Dự án nâng cấp cải tạo quốc lộ 3, khai thác chế biến
khoáng sản Núi Pháo, khu đô thị hồ điều hòa Xương Rồng, khu đô thị Apec,
Quốc lộ 3 mới ( đường cao tốc Thái Nguyên – Hà Nội ), dự án Nhà hát ca múa
dân gian Việt Bắc tại tổ 24, Phường Hoàng Văn Thụ với tổng số vốn đầu tư
175,32 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách. Dự án Bến tàu du lịch hồ Núi Cốc được
UBND tỉnh Thái Nguyên phê duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư có tổng vốn

83 tỷ đồng và đang được đẩy nhanh tiến độ thi công trong năm 2012 và nhiều dự
án trọng điểm khác đã và đang được tỉnh Thái Nguyên triển khai thực hiện.
Tuy nhiên trong quá trình bồi thường, GPMB các dự án tỉnh cũng gặp
không ít khó khăn, vướng mắc diễn ra phổ biến như một số các tỉnh thành khác.
Để khắc phục những hạn chế về năng lục bộ máy, cán bộ làm công tác bồi
thường, GPMB tỉnh thực hiện kiện toàn bộ máy phụ trách công tác bồi thường,
GPMB từ tỉnh đến các huyện, thành phố, thị xã, bố trí đử cán bộ chuyên môn
phù hợp từng bước chuyển đổi các ban bồi thường, GPMB ở các địa phương
theo mô hình trung tâm phát triển quỹ đất phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới; đồng thời tổ chức các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, chế
độ, chính sách liên quan đến bồi thường, GPMB, công tác quản lý đất đai cho
cán bộ địa phương, lãnh đạo đoàn thể chính trị - xã hội nơi có các dự án triển
khai. Tỉnh cũng từng bước đồng bộ các quy hoạch, nhất là quy hoạch các khu tái
định cư, bố trí vốn để xây dựng các khu tái định cư, xây dựng cơ chế để khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia xây dưng khu tái định cư. Đồng thời tỉnh
cũng chỉ đạo chính quyền địa phương xử lý kịp thời các vướng mắc, cản trở
công tác GPMB ở một số dự án, giải quyết dứt điểm các trường hợp khiếu kiện
kéo dài liên quan đến GPMB trên địa bàn tỉnh.
20
2.3.3. Công tác bồi thường giải phóng mặt trên địa bàn Tỉnh Lạng Sơn
Năm 2012, công tác bồi thường GPMB, hỗ trợ tái định cư luôn được
cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh Lạng Sơn quan tâm, chỉ đạo, nhiều dự
án trong thời gian ngắn đã được bàn giao mặt bằng để đầu tư xây dựng, đã tổ
chức thực hiện 31 dự án, triển khai đo đạc, kiểm đếm, lập phương án bồi
thường tái định cư cho 636 hộ có đất bị thu hồi. công tác bồi thường GPMB
trên địa bàn thành phố Lạng Sơn được triển khai có hiệu quả, không có điểm
nóng xảy ra do GPMB. Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
trên địa bàn.
Năm 2013, Ban đền bù GPMB thành phố tiếp tục chỉ đạo thực hiện các
dự án chuyển tiếp từ năm 2012, triển khai các dự án mới có hiệu quả, góp

phần phát triển, thay đổi bộ mặt của thành phố. Đồng thời kiên quyết xử lý
nghiêm những trường hợp cố tình chống đối không chấp hành quyết định thu
hồi đất. Cũng trong năm 2013 huyện Cao Lộc được giao triển khai thực hiện
khoảng trên 20 dự án GPMB, với 2.000 hộ dân bị thu hồi đất, tổng kinh phí
bồi thường lên đến hàng trăm tỷ đồng, trong đó có nhiều dự án trọng điểm
như: Dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh, các dự án trong khu vực cửa khẩu Hữu
Nghị, các dự án giao thông…Nhận thức sâu sắc tính chất phức tạo của công
tác GPMB do đó trong kế hoạch năm 2013, huyện ủy Cao Lộc đã xây dựng
kế hoạch chỉ đạo công tác GPMB và coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
trong công tác lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của năm và trong những
năm tiếp theo. Cuối năm 2012, Ban thường vụ huyện ủy đã quyết định thành
lập Ban chỉ đạo về công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Đến nay tiến độ của một số dự án được triển khai bước đầu thuận lợi
như các dự án thuộc khu vực cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, dự án cải tạo, nâng
cấp đường 235 Cao Lộc – Cao Lâu đã cơ bản đáp ứng được tiến độ mà
UBND tỉnh đã đề ra. Dự án Bệnh viện Đa khoa, cơ bản các hộ dân đã nhận
21
tiền đền bù với kinh phí chi trả trên 3 tỷ đồng. Đối với dự án đường nội bộ
cửa khẩu Hữu Nghị, huyện đã chi trả đợt 1 được trên 1.5 tỷ đồng với 10/13 hộ
dân nhận tiền, hiện huyện đang đẩy nhanh tiến độ GPMB đợt 2 với diện tích
trên 8.6 ha. Ngoài các dự án trọng điểm trong khu kinh tế cửa khẩu Đồng
Đăng – Lạng Sơn huyện Cao Lộc cũng đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
dự án GPMB xây dựng cơ sở hạ tầng khác như: Dự án Trung tâm chữa bệnh –
Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh, Đường Lộc Yên – Thanh Lòa…
Cũng trong năm 2013 huyện Tràng Định được giao thực hiện chuyển
tiếp khởi công mới 12 dự án đền bù GPMB các công trình đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, thu hồi đất của hàng nghìn hộ dân, trong đó có nhiều dự án
lớn như: Công trình đường tuần tra biên giới Pò Mã, dự án cải tạo nâng cấp
quốc lộ 3B chạy qua 8 xã trên địa bàn huyện, dự án thủy điện Bắc Khê, dự
án cải tạo nâng cấp quốc lộ 4A…

Song song đó tỉnh Lạng Sơn cũng chỉ đạo, đôn đốc các huyện thực hiện
việc giải quyết đơn thư khiếu nại, kiến nghị của người dân phát sinh trong quá
trình bồi thường, GPMB trong các dự án, đảm bảo thực hiện nghiêm quy chế
dân chủ ở cơ sở trên tinh thần “ Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra ”. Công khai
quy hoạch chi tiết xây dựng công trình, tuyên truyền chính sách pháp luật về
đền bù GPMB mà những gì mà người dân chưa hiểu thì tập trung giải thích rõ
để dân hiểu.
* Thuận lợi:
- Công tác GPMB được coi là nhiệm vụ trọng tâm nên luôn được sự
quan tâm, chỉ đạo của các cấp, ngành.
- Lãnh đạo tỉnh và các ban ngành có liên quan đã tích cực đổi mới, đa
dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong đội
ngũ cán bộ, Đảng viên và nhân dân nên trong quá trình thực hiện công tác đền
22
bù trên địa bàn tỉnh những năm qua không có tình trạng khiếu kiện đông người
xảy ra.
- Đã có quy định chi tiết cụ thể điều kiện, nguyên tắc bồi thường về đất,
về tài sản phù hợp với tình hình quản lý của địa phương.
- Xây dựng quy trình bồi thường rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi cho việc
triển khai thực hiện công tác bồi thường GPMB. Nhìn chung các dự án đều
được nhân dân đồng tình ủng hộ và được các cấp, các ngành quan tâm nên cơ
bản công tác bồi thường bám sát được tiến độ đề ra.
- Hội đồng Bồi thường GPMB, tổ công tác luôn bám sát địa bàn, hiểu
được tâm tư nguyện vọng của nhân dân, giới thiệu và công khai chỉ giới quy
hoạch, thu hồi đất.
* Khó khăn:
- Bên cạnh những thuận lợi thì công tác bồi thường GPMB cũng gặp
một số vướng mắc, hạn chế nhất định như: Một số dự án xây dựng triển khai
chậm, không đảm bảo tiến độ, một số hộ dân bị thu hồi đất chưa chấp hành tốt
các quy định của Nhà nước về công tác thu hồi đất công, bồi thường tái định

cư dự án, một số dự án chưa được bố trí kinh phí kịp thời để trả cho các hộ
dân…Nguyên nhân chính của vấn đề này là do vướng mắc về công tác bồi
thường GPMB; một số hộ dân cố tình chống đối không chấp hành quyết định
thu hồi đất; các chế độ, chính sách liên quan đến công tác bồi thường, GPMB
thường xuyên thay đổi làm cho việc tính toán, lập phương án bồi thường, hỗ
trợ GPMB các dự án gặp nhiều khó khăn. Chính sách GPMB do Chính phủ
ban hành là chính sách khung và không ổn định, quỹ nhà tái định cư ít, giá đất
theo ý kiến người dân bị thu hồi thấp hơn giá thị trường nhiều, trách nhiệm
của chủ đầu tư ở nhiều dự án chưa tốt, công tác quản lý, khai thác hồ sơ liên
quan đến nhà đất và nhân khẩu liên quan đến công tác GPMB còn chậm, trình
độ, năng lực chuyên môn của các cán bộ làm công tác GPMB còn hạn chế,
23
một bộ phận người dân không cộng tác… dẫn đến công tác GPMB kéo dài và
hạn chế.
- Hầu hết các dự án khi triển khai bồi thường GPMB mới triển khai dự
án tái định cư, thậm chí có dự án đã chi trả tiền bồi thường xong nhưng vẫn
chưa có khu tái định cư.
- Do nhiều năm công tác quản lý đất đai không được quan tâm,
chú trọng nên nguồn gốc sử dụng đất của các hộ đã có nhiều thay đổi,
dẫn đến khi tiến hành đền bù GPMB xảy ra tranh chấp đòi quyền lợi
giữa các hộ gia đình với nhau làm cho công tác GPMB đã khó khăn nay
lại càng khó khăn hơn.
* Tóm lại:
Lạng Sơn đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nên đặt
ra rất nhiều những yêu cầu về nâng cấp cơ sở hạ tầng, đường xá, Hiện nay
Lạng Sơn đang triển khai những dự án lớn và trọng điểm, và công tác giải
phóng mặt bằng của những dự án này còn gặp nhiều khó khăn nhất định. Bên
cạnh đó, không thể phủ nhận đi được những thành công mà công tác giải
phóng mặt bằng đã đặt được, đã xây dựng được những công trình cơ sở hạ
tầng trọng điểm cho cả tỉnh.

Tuy nhiên trong khi thực hiện vẫn còn rất nhiều những khó khăn và tồn
tại khác nhau gây ảnh hưởng đến tiến trình của cả dự án bởi rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, không chỉ do phía bên thực hiện giải phóng mặt bằng mà còn
do công tác tổ chức, tuyên truyền, công tác tái định cư còn chậm hoặc do
chưa đáp ứng được hoàn toàn yêu cầu của người dân.
Để phát triển Lạng Sơn hơn nữa thì đòi hỏi công tác nâng cấp cơ sở hạ
tầng ngày càng phải tăng lên, chính vì thế phải có nhiều dự án cần được tiến
hành, các hộ dân sẽ phải di chuyển chỗ ở và thay đổi nghề nghiệp mà họ đang
24
làm. Do đó cần chú trọng đến công tác đền bù, hơn nữa cần chú trọng nhất
đến công tác ổn định lâu dài cho nhân dân sau khi di chuyển.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Kết quả của công tác bồi thường giải phóng mặt
+ Toàn bộ khu vực giải phóng mặt bằng của dự án.
+ Đất, tài sản gắn liền với đất.
+ Chính sách hỗ trợ của Nhà nước và địa phương khi tiến hành bồi
thường giải phóng mặt
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành tại Dự án xây dựng trạm trung chuyển kho bãi
hàng hóa Pác Luống , xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, Tỉnh Lạng Sơn
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: UBND Xã Tân Mỹ, Huyện Văn Lãng, Tỉnh Lạng Sơn.
- Thời gian: 15/05/2014 đến 25/08/2014.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1: Đánh giá điểu kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của xã Tân Mỹ.
3.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng của
Dự án xây dựng trạm trung chuyển kho bãi hàng hóa Pác Luống, xã Tân Mỹ,

huyện Văn Lãng, Tỉnh Lạng Sơn
3.3.3. Đánh giá những ảnh hưởng của công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng tới đời sống của người dân khu vực giải phóng mặt bằng.
25

×