Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN KINH TẾ HỌC TRUYỀN THÔNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.76 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nền báo chí nước ta đã bước qua giai đoạn đầu những năm 90 của thế kỉ
XX khi hầu hết các cơ quan báo chí còn quá lạ lẫm với vấn đề tự chủ tài
chính. Đến nay, hàng trăm đơn vị truyền thông, truyền hình thoát ra khỏi cơ
chế quản lý tập trung, bao cấp và bắt đầu thực hiện chức năng kinh tế. Trong
dây chuyền giá trị của kinh tế học báo chí, các đơn vị truyền thông, truyền
hình hoàn toàn tự chủ về tài chính với nguồn thu từ nhiều nguồn, đặc biệt là
quảng cáo. Thực tế, doanh thu của nhiều đơn vị truyền hình đã đạt hàng trăm,
thậm chí hàng nghìn tỷ đồng. Việc tham gia làm kinh tế đã không còn là hoạt
động phụ trợ mà đã trở thành một công tác quan trọng, tạo cho cơ quan truyền
thông vị thế và tính chủ động của một doanh nghiệp để phát triển chất lượng
sản phẩm nội dung.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó việc phân tích đánh giá, phản biện hoạt
động kinh tế truyền thông, kinh tế truyền hình một cách hệ thống, khoa học là
vấn đề cần thiết để rút ra những bài học kinh nghiệm và định hướng cho xu
hướng phát triển của truyền hình Việt Nam từ góc độ kinh tế học truyền
thông. Trong cuộc bùng nổ về thông tin, đặt ra nhiều thách thức lớn cho
truyền hình – một phương tiện thông tin hùng mạnh giữa lòng cuộc cạnh
tranh gay gắt để tranh giành công chúng, điều cần thiết với những người làm
truyền hình không chỉ là sự cố gắng nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn, mà điều
quan trọng là phải nhận thứ rõ những thách thức và thời cơ, thấy được xu thế
vận động làm cơ sở để xây dựng chiến lược hành động phù hợp cho sự phát
triển của ngành.
Vậy, trong tương lai truyền hình sẽ phát triển theo xu hướng nào để tồn
tại và phát triển, để tìm được chỗ đứng trong dòng chảy phát triển của các cơ
quan báo chí đang tích cực tham gia mạnh mẽ vào tiến trình xã hội hóa các
hoạt động của mình? Trong xu thế đó, là một ngành mang tính báo chí kinh tế
kỹ thuật cao, truyền hình càng không thể đứng ngoài cuộc.
1
Chương I


CƠ SỞ LÝ LUẬN KINH TẾ HỌC TRUYỀN THÔNG TRONG
MÔI TRƯỜNG TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM
1.1. Khái quát
Xét trong khía cạnh kinh tế, có thể nói những chuyển động trong khu
vực truyền thông diễn ra chậm hơn nhiều so với các khu vực kinh doanh, sản
xuất xã hội. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi quan hệ thị trường
đã được khẳng định rõ ràng và trở thành đòi hỏi trong quản lý, phát triển của
toàn bộ nền kinh tế thì hầu như các cơ quan truyền thông báo chí còn quá lạ
lẫm với vấn đề tự chủ tài chính. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay đã có
nhiều cơ quan truyền thông hoàn toàn tự chủ về tài chính, tự đảm bảo được
nguồn lực kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt động nghiệp vụ cũng như khả năng
mở rộng quy mô sản xuất và khả năng ảnh hưởng của mình trong xã hội.
Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy thực tế xã hội đang hình thành một
nền kinh tế truyền thông. Hai chỗ dựa quyết định cho nền kinh tế này là sản
phẩm hàng hóa báo chí truyền thông và dịch vụ quảng cáo trên các phương
tiện truyền thông, truyền hình. Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin
của công chúng truyền thông càng tăng lên do đó nhu cầu về sản phẩm hàng
hóa báo chí cũng tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh dẫn đến nhu cầu
ngày càng lớn về quảng cáo nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng.
Sự phát triển kinh tế truyền thông dẫn đến sự tác động có tính hai mặt và
đời sống báo chí truyền thông. Mặt thứ nhất, nó mang lại nguồn lực tài chính
quan trọng, đảm bảo cho sự tiếp tục phát triển, tăng cường cơ sở vật chất, đổi
mới thiết bị kỹ thuật công nghệ, mở mang thêm các nguồn thông tin, tài liệu
cũng như công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ những người làm báo. Nói tóm lại, kinh tế truyền thông trở thành động
lực phát triển cho báo chí.
2
Một vấn đề không thể bỏ qua là vấn đề hình thành tập đoàn truyền thông.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn báo chí hình thành trên cơ sở tích
tụ tư bản, cá lớn nuốt cá bé hay các công tu truyền thông tự nguyện liên kết

lại bằng hình thức mua bán hoặc hợp nhất với nhau nhằm tăng nguồn lực,tạo
ra sức mạng đủ khả năng cạnh trnah để tồn tại và phát triển. Cũng có thể, các
quá trình trên diễn ra giữa những tập đoàn kinh tế công nghiệp, thương mại,
dịch vụ với các cơ quan hoặc công ty báo chí nhằm mở rộng lĩnh vực kinh
doanh, tạo ra lợi thế xã hội trong phát triển. Vì thế, thực chất của việc hình
thành các tập đoàn báo chí là một quá trình thuần túy kinh tế nhằm mục đích
kinh tế. Những yếu tố liên quan đến khuynh hướng tác động chính trị nhằm
mục đích kinh tế. Những yếu tố liên quan đến khuynh hướng, tác động chính
trị của chúng, thực ra cũng là nhằm tìm đến lợi nhuận và bị lợi nhuận chi
phối.
Hiệu quả kinh tế xã hội là yêu cầu đầu tiên được đặt ra cho các cơ quan
truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay bên cạnh việc thực
hiện chức năng định hướng dư luận, nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, thẩm
mỹ…cho công chúng thì nhiều cơ quan báo chí đã nhận thấy sự cần thiết về
hiệu quả kinh tế.
Báo chí đã tham gia vào thị trường với tư cách nhà kinh doanh đa
nghành như: dịch vụ quảng cáo, tổ chức sự kiện…Nhận thúc đó cho thấy,
kinh doanh báo chí là xu hướng phát triền tất yếu của báo chí hiện đại
1.2 Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triền cao của
kinh tế hàng hóa mà mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện qua thị
trường. Đa số các nước trên thế giới hiện nay đều phát triển theo mô hình
kinh tế thị trường.Vì vậy, các quốc gia trong đó có Việt Nam muốn hòa nhập
vào nên kinh tế quốc tế thì cũng phải phát triển theo mô hình kinh tế thị
trường
3
Phát triển nền kinh tế thị trường sẽ phá vỡ cơ cấu nền kinh tế kế hoạch
chuyển thành kinh tế hàng hóa thúc đẩy xã hội hóa phát triền.Bên cạnh đó
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Kích thích tính năng động sáng tạo của
các chủ thể kinh tế. Kích thích việc cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng cải

tiến mẫu mã cũng như tăng số lượng hàng hóa dịch vụ.
Ngoài ra, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản
xuất, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất tạo điều kiện ra đời của sản
xuất lớn. Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt nam xác định phát triển nền kinh tế thị trường theo định nghĩa xã hội
chủ nghĩa. Đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy rằng
nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện
đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế
khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định
bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đó là mô hình tổ chức kinh tế vừa dựa trên các quy luật của thị trường
vừa dựa trên nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, hai nhân tố đan xen
và tác động lẫn nhau, tồn tại trong nhau. Mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất , phát triền kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của mọi thành viên trong xã hội.
Về sở hữu còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần
kinh tế khác nhau nhưng trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Về phân phối: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh
và thông qua phúc lợi xã hội.
4
Về cơ chế vận hành: đó là cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn
thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa giáo dục,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

1.3 Những tác động của kinh tế đối với môi trường truyền thông
Những tờ báo đầu tiên của nhân loại bắt đầu với mục đích bán thông tin
kinh tế cho các doanh nghiệp để lấy tiền và mục đích này ngày càng phát
triển. Ngày nay, trên thế giới thông tin trên báo chí được coi là một thứ hàng
hóa có thể mua – bán theo quy luật cung cầu của thị trường.
Ở nước ta một thời gian dài trước đổi mới là nền kinh tế bao cấp. Năm
1986 với quyết sách đổi mới của Đảng đất nước ta phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, định hướng phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa.Từ đó cho đến nay nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng vượt bậc .
Tuy nhiên cùng với sản phẩm trong lĩnh vực giáo dục thì “ hàng hóa báo chí”,
“ hàng hóa thông tin”…vẫn là những khái niệm còn hết sức mới mẻ.
Các cơ quan báo chí ở Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà
nước có nhiệm vụ, trách nhiệm tuyên truyền, định hướng phổ biến chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến người dân. Nhưng phát
triển trong nền kinh tế mở cửa, các cơ quan báo chí nhận ra rằng các sản
phẩm của mình còn có thể mang về khoản thu không hề nhỏ. Từ đó, tạo điều
kiện để cơ quan báo chí mở rộng quy mô phát triển, đồng thời cải thiện đời
sống của người làm báo.
Hiện nay, các cơ quan báo chí rất chú trọng đến các hoạt động kinh
doanh, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quảng cáo, phát hành tổ chức sự kiện
truyền thông…
Và đương nhiên trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động kinh doanh
của các cơ quan báo chí cũng chịu sự tác động của nó.
5
Đó là các sản phẩm của cơ quan báo chí cũng coi như một loại hàng hóa
và các sản phẩm hàng hóa này có tiêu thụ được hay không là phụ thuộc vào
quy luật cung cầu cũng như các biến động của thị trường.
Do đó, muốn bán được các sản phẩm của mình thì các cơ quan báo chí
cũng cần phải làm các khâu như: Khảo sát thị trường, tìm hiểu nhu của khách
hàng, đào tạo và tuyển dụng các nhân viên kinh doanh như các doanh nghiệp

trong các ngành khác.Tư duy kinh doanh của các tòa soạn cũng thay đổi, thay
vì ngồi một chỗ và đợi người đến lấy báo…quảng cáo như trước đây thì các
tòa soạn đã không ngừng nâng cao tính chuyên nghiệp, chủ động của đội ngũ
làm phát hành, quảng cáo…
Ngoài ra, các tờ báo cũng phải chịu những sự biến động về mặt giá cả.
Chẳng hạn như giá giấy, giá mực tăng, chi phí lao động tăng dẫn đến những
khó khăn trong việc cạnh tranh về giá báo.
Trong những năm vừa qua do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, rất
nhiều tờ báo nước ngoài đã phá sản, thì ở Việt Nam nhiều cơ quan báo chí
cũng lâm vào tình trạng lao đao vì doanh thu từ quảng cáo giảm. Nhưng
ngược lại có những thời điểm nền kinh tế phát triển mạnh các doanh nghiệp
ăn nên làm ra thì các tờ báo cũng có cơ hội để tăng trưởng về mặt doanh thu.
Mặt khác khi nhìn nhận báo chí là ngành nghề có thể sinh ra lợi nhuận
thì đương nhiên các cơ quan báo chí cũng phải cạnh tranh theo đúng các quy
luật của kinh tế thị trường. Ở thị trường Việt Nam, sự cạnh tranh giữa các tờ
báo diễn ra ra khá quyết liệt. Các tờ báo cạnh tranh nhau chủ yếu trên
phương diện thông tin để phát triền thương hiệu, tăng uy tín với độc giả qua
đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Và cũng như nhiều ngành nghề khác, báo
chí cũng không tránh khỏi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Đó là
xu hướng làm báo lá cải, chạy theo những thị hiếu tầm thường đặt lợi nhuận
lên trên tất cả.
6
1.4. Các khái niệm cơ bản của kinh tế học truyền thông
Phân tích những khái niệm cơ bản về: kinh tế học truyền thông, kinh tế
truyền thông, thị trường truyền thông…trên nền tảng nhận thức môi trường
văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường báo chí truyền thông Việt Nam.
1.4.1 Truyền thông đại chúng - một thị trường kết hợp giữa yếu tố
dịch vụ và hàng hóa
Sản phẩm của công nghiệp truyền thông đồng thời tác động đến hai thị
trường: hàng hóa và dịch vụ. Thị trường hàng hóa: là nguồn nội dung thông

tin, tư liệu, hình thức thông tin, giải trí đa dạng… được sản xuất hoàn thiện,
phân phối qua các kênh truyền thông khác nhau và công chúng chính là người
tiêu dùng. Thị trường dịch vụ: cung cấp các dịch vụ truyền thông cho nhiều
đối tượng, đồng thời quan hệ tương tác với các nhà quảng cáo, tài trợ bằng
việc bán cơ hội tiếp cận công chúng.
1.4.2 Thị trường địa lý của các phương tiện truyền thông
Quy mô thị trường hàng hóa và nội dung của các phương tiện thông tin
đại chúng được thống kê bằng những phương thức riêng biệt. Để đạt
được hiệu quả doanh số các doanh nghiệp truyền thông phải chú trọng đến
đặc trưng nơi vùng miền hoạt động (địa bàn).
1.5. Cấu trúc thị trường truyền thông
1.5.1. Các dạng cấu trúc của thị trường truyền thông
Bốn dạng cấu trúc cơ bản: thị trường cạnh tranh hoàn hảo; thị trường
cạnh tranh độc quyền; thị trường lũng đoạn; thị trường độc quyền.
1.5.2. Mối liên hệ cung và cầu trong thị trường truyền thông
Cầu trong kinh tế truyền thông thể hiện tập hợp các nhu cầu xã hội đối
với các hàng hóa - nội dung truy ền thông đa dạng.
Cung trong kinh tế truyền thông là cái mà các doanh nghiệp phương
tiện thông tin đại chúng đưa ra, bao gồm hàng hóa (nội dung), cách thức bán
hàng và dịch vụ (tiếp cận công chúng) trong những điều kiện nhất định.
7
1.5.3. Chi phí và quy trình sản xuất của công nghiệp truyền thông
Chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp truyền thông là số chênh lệch giữa
tổng thu nhập của doanh nghiệp và những khoản chi phí sản xuất hữu hình;
đối với lĩnh vực truyền thông đại chúng còn phải chú ý đến định hướng văn
hóa xã hội, những tiêu chí chuẩn mực về đạo đức, lối sống…
“Dây chuyền sản xuất theo chiều dọc” trong truyền thông bao gồm các
giai đoạn: sản xuất nội dung, đóng gói sản phẩm và phân phối đến với người
tiêu dùng.
1.6. Đối tượng tiêu thụ của thị trường truyền thông

1.6.1. Công chúng truyền thông - đối tượng tiêu thụ sản phẩm
Quyết định tiêu dùng của công chúng với các sản phẩm truyền thông thể
hiện cách thức và tập quán sử dụng, cũng như thái độ của họ đối với
các phương tiện truyền thông đại chúng.
1.6.2. Các yếu tố văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến hành vi công chúng
Đặc điểm riêng của mỗi khách hàng tác động mạnh mẽ đến hành
vi tiêu dung sản phẩm truyền thông. Những yếu tố này bao gồm tính bao
quát như văn hóa về xã hội và cả tâm lý cá nhân bao gồm: các yếu tố văn
hóa, phân tầng trong xã hội, gia đình, vai trò địa vị xã hội.
1.6.3. Các yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến hành vi công chúng
Người tiêu dùng sản phẩm truyền thông còn có những yếu tố cá nhân chi
phối đáng kể như: tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, phong cách sống,
cá tính và quan niệm riêng của họ. Sự lựa chọn tiêu dùng sản phẩm truyền
thông còn chịu ảnh hưởng của: động cơ, nhận thức, kiến thức và quan điểm.
1.7. Cạnh tranh trên thị trường truyền thông
1.7.1. Sự cạnh tranh về nội dung giữa các phương tiện truyền thông
Cạnh tranh về nội dung giữa các phương tiện truyền thông liên quan tới
sự khan hiếm tài nguyên thông tin và sự hạn chế, không cân bằng về lượng
tài nguyên đáp ứng nhu cầu cần thiết của cá nhân và xã hội.
8
1.7.2. Cạnh tranh về thời gian người mua sử dụng sản phẩm giữa
các phương tiện truyền thông
Các phương tiện thông tin đại chúng không chỉ cạnh tranh trên phương
diện doanh số tiền bạc thu lợi từ công chúng, mà còn vì sự quan tâm chú ý
và quỹ thời gian tiêu phí của họ.
1.7.3. Cạnh tranh quảng cáo giữa các phương tiện truyền thông
Cuộc cạnh tranh vì doanh số và lợi nhuận thu được từ quảng cáo đang
diễn ra gay gắt, đặc biệt là đối với các phương tiện thông tin đại chúng có
chung những đặc điểm về hình thức truyền tải nội dung.
1.7.4. Những chiến lược cơ bản trong hoạt động kinh tế truyền thông

“Phát triển chiều dọc”: tổ chức theo hướng mô hình tập đoàn đa lĩnh
vực, hợp nhất hoặc liên kết hỗ trợ các giai đoạn sản xuất khác nhau.
“Phát triển chiều ngang”: mở rộng doanh nghiệp trên chính lĩnh vực mà
nó đang tiến hành nhờ vào việc mở rộng sản xuất hay mở rộng sở hữu các
doanh nghiệp cùng loại hình kinh doanh.
“Phát triển liên kết”: hợp nhất các đơn vị truyền thông không sản xuất
những mặt hàng giống nhau và không tham gia vào quá trình sản xuất chung.
“Phân cụm”: là quá trình hợp tác và hội nhập của các lĩnh vực
sản xuất khác theo hướng phát triển thành các tổ hợp công nghiệp lớn.
1.8. Lĩnh vực truyền hình trong ngành công nghiệp truyền thông
1.8.1. Những đặc điểm về kinh tế của truyền hình
Hoạt động kinh tế truyền hình là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực
sản xuất hàng hóa tinh thần, vật chất phục vụ nhu cầu nâng cao nhận thức,
giải trí hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh. Báo chí truyền thông nói chung
và truyền hình nói riêng trở thành một ngành công nghiệp khi nó thực sự là
một hoạt động kinh tế sản xuất quy mô lớn được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ
của các cơ chế chính sách và các tiến độ công nghệ, khoa học kỹ thuật.
9
Với vai trò là một ngành công nhiệp thì yếu tố chi phí và quy trình sản
xuất của lĩnh vực báo chí truyền thông có ý nghĩa quan trọng. Chi phí sản
xuất được coi là mấu chốt trong lí luận kinh tế chính trị. Mức chi phí sản xuất
là số liệu kinh tế cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng của bất kỳ doanh
nghiệp nào trên cả quy mô sản xuất và giá thành sản phẩm. Để nâng cao hiệu
quả, quy mô sản xuất, các hãng truyền hình luôn phải nỗ lực giữ mức tăng
trưởng thường xuyên, tối đa hóa lượng khán giả. Giá thành cung cấp chương
trình đến khán giả càng ngày sẽ càng giảm. Dưới áp lực của môi trường cạnh
tranh, các kênh truyền hình luôn phải nỗ lực nâng cao chất lượng và đổi mới
sản phẩm.Việc tạo ra các chương trình truyền hình là một quá trình công phu,
chi phí cao và phụ thuộc vào công nghệ.
Truyền hình là một ngành công nghiệp có nhiều điểm khác biệt so với

ngành công nghiệp truyền thống. Sự khác biệt lớn nhất của ngành công
nghiệp này nằm ở chỗ sản phẩm của nó đồng thời tác động tới hai thị trường:
thị trường hàng hóa và thị trường dịch vụ. Hai loại thị trường này là một đặc
thù cơ bản của hoạt động truyền hình tạo nên sự khác biệt của nó với ngành
khác của nền kinh tế hiện đại.
1.8.2 Cạnh tranh về nội dung chương trình
Tong việc xây dựng định hướng chương trình của các hãng truyền hình
có các yếu tố mang tính chiến lược và chiến thuật để hướng tới đối tượng
công chúng mục tiêu .
1.8.3. Những nguồn thu cơ bản của truyền hình
Bao gồm: quảng cáo; tài trợ hoặc ngân sách; phí xem truyền hình; đặt
hàng thuê bao; xem theo yêu cầu, các nguồn thu khác…
1.8.4. Những mô hình cơ bản của thị trường truyền hình
Truyền hình thương mại, truyền hình công và truyền hình quốc gia - đó là
ba mô hình tổ chức cơ bản của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự khác biệt
10
không chỉ nằm ở định hướng nội dung chương trình mà còn ở hoạt động kinh tế.
1.8.5. Tổ chức mạng lưới truyền hình
Trên thế giới, mạng lưới truyền hình được xây dựng theo hai dạng thức
khác nhau về cơ bản: thông qua kết nối hạ tầng công nghệ truyền dẫn phát
sóng và hoạt động liên kết kinh tế hướng đến mục tiêu đạt được số lượng
công chúng tối đa.
1.8.6. Công nghiệp sản xuất nội dung chương trình truyền hình
Công nghiệp truyền hình hiện đại chia tách hai bộ phận khác hẳn nhau,
nhưng có mối tương quan mật thiết với nhau, đó là các đài truyền hình và
các nhà sản xuất chương trình truyền hình. Hai mô hình tổ chức sản xuất
chương trình truyền hình cơ bản, khác nhau ở hình thức sở hữu bản quyền
cuối cùng: hợp tác phân chia quyền lợi, đầu tư tài chính.
11
Chương II

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ KINH TẾ HỌC TRUYỀN THÔNG
2.1. Tổng quan hệ thống truyền hình, thị trường và đặc điểm kinh tế
truyền hình Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI
2.1.1. Khái quát giai đoạn phát triển của hệ thống truyền hình Việt
Nam.
Nhìn từ góc độ kinh tế học truyền thông, có thể tạm phân chia các
mốc thời gian trong quá trình phát triển của hệ thống truyền hình Việt Nam
theo các giai đoạn cơ bản như sau:
Giai đoạn xây dựng nền móng (1968 - 1976), Thời kỳ trước và sau đổi
mới (1976 - 1996), và giai đoạn tăng tốc (1996 – 2004), Thời kỳ phá bỏ
độc quyền và phát triển xã hội hóa ( từ 2004 ).
2.1.2. Sự hình thành và tính quy luật của thị trường truyền hình Việt
Nam
Kết quả thống kê cho thấy sự phát triển không ngừng của đất nước từ
năm 2007 -2010 trên các mặt kinh tế xã hội, đồng thời phản ánh sự phát triển
của lĩnh vực kinh tế truyền hình.
- Tổ chức và phân công lao động trong lĩnh vực truyền hình đã đạt mức
chuyên sâu.
- Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong lĩnh vực truyền hình rất đa
dạng. Sự phát triển kỹ thuật và công nghệ truyền hình và nhu cầu hưởng thụ
của công chúng tác động mạnh đến truyền hình.
- Sự phân công lao động đã đạt mức chuyên sâu và trao đổi trong lĩnh
vực truyền hình phát triển ở phạm vi quốc tế.
- Hội tụ đủ các nhân tố của cơ chế thị trường: cầu hàng hóa, cung hàng
hoá, giá cả, cạnh tranh, tiền tệ, lợi nhuận
12
- Vận hàng đúng các quy luật của kinh tế thị trường: quy luật giá trị,
quy luật cung cầu,quy luật canh tranh…
- Hình thành và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.2. Cấu trúc hệ thống truyền hình Việt Nam nhìn từ góc độ kinh tế
học truyền thông
2.2.1 Lĩnh vực nghe nhìn trong tổng thể thị trường truyền thông
Việt Nam
Lĩnh vực nghe nhìn được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản: bộ phận
sản xuất, đăng phát nội dung và hệ thống doanh nghiệp xã hội.
2.2.2 Đặc trưng về mô hình tổ chức và hoạt động kinh tế của đơn
vị hoạt động trong lĩnh vực truyền hình
Hệ thống đài truyền hình trung ương và địa phương được coi là xương
sống trụ cột của thị trường truyền hình.
Hệ thống doanh nghiệp xã hội ra đời và hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp.
2.2.3. Nguồn thu của hệ thống truyền hình
Các nguồn thu cơ bản của truyền hình: quảng cáo, tài trợ, viện trợ, phí
thuê bao, thu từ liên doanh liên kết, bán thiết bị, xem theo yêu cầu,
các nguồn thu khác…
Tại Việt Nam, đơn vị chịu tránh nhiệm thực hiện các hoạt động quảng
cáo và dịch vụ truyền hình của Đài Truyền hình Quốc gia là Trung tâm quảng
cáo và dịch vụ - ĐTHVN. Số thu năm 1999 đạt 170 tỷ đồng trong đó sản xuất
chương trình đạt 1 tỷ đồng, dịch vụ khác 0,5 tỷ. Năm 2000 số thu đạt tới 268
tỷ đồng trong đó riêng số thu quảng cáo đạt 244,2 tỷ; sản xuất chương trình
đạt 1 tỷ đồng, dịch vụ khác 0,8 tỷ. Năm 2001, số thu của Trung tâm đã vượt
quá con số 300 tỷ đồng, đạt 314 tỷ đồng trong đó số thu quảng cáo đạt 283 tỷ
đồng, sản xuất chương trình và dịch vụ khác đạt 2 tỷ, thu hoạt động nhận tài
trợ sản xuất chương trình và đổi quảng cáo nhận bản quyền chương trình đạt
13
29 tỷ đồng.Từ năm 2002 đến 2004 doanh thu của Trung tâm liên -18-tục tăng,
năm 2002 là 328 tỷ dồng. Đến năm 2003 là 488 tỷ đồng. Ước tính năm 2004,
số thu của Trung tâm sẽ đạt là 500 tỷ đồng.
2.3. Những thành tựu và bất cập của hệ thống truyền hình Việt

Nam từ góc độ kinh tế học truyền thông.
2.3.1. Những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về truyền
hình
Những vấn đề bất cập trong công tác quản lý nhà nước về truyền hình
nẩy sinh khi hệ thống truyền hình có bước phát triển nhẩy vọt, trong khi đó
mô hình quản lý nhà nước về lĩnh vực phát thanh truyền hình thường xuyên
biến động, thiếu sự thống nhất về tổ chức.
2.3.2. Vấn đề quy hoạch và phát triển hạ tầng - công nghệ kỹ thuật
Quy hoạch phát triển của hệ thống truyền hình tại Việt Nam xét trên yếu
tố kỹ thuật có nhiều vấn đề chưa hợp lý.
2.3.3 Những tồn tại về mặt nội dung, sản xuất chương trình
Nội dung chương trình có nguồn gốc nhập khẩu vẫn mang tính chi phối.
Tỷ trọng thời lượng các chương trình khoa học giáo dục, tin tức thời sự với
các chương trình giải trí và quảng cáo chưa thực sự cân đối phù hợp.
Các chương trình truyền hình phải mang tính toàn quốc, phải
chính xác, khách quan, nhanh nhạy, kịp thời, sinh động, đạt hiệu quả cao
trong đời sống xã hội, đảm bảo vai trò định hướng dư luận xã hội.
2.3.4. Những vướng mắc trong kinh doanh, phát triển thị trường và
dịch vụ
Nhiều vấn đề bất cập đã và đang nẩy sinh như: công tác quản lý dịch vụ
truyền hình trả tiền, vấn đề“bản quyền” ( format chương trình ) và “độc
quyền” sản phẩm truyền hình, chỉ số đánh giá (rating) trong mỗi chương trình
truyền hình v.v
14
2.3.5. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và tính chuyên
nghiệp
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực và xây dựng tính chuyên nghiệp đang
là mục tiêu mà các đài truyền hình hướng tới, tuy nhiên yêu cầu này chưa đạt
kết quả cao trong thực tế. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa một số vấn đề
sau đây:

- Củng cố và nâng cấp trường Cao đẳng Truyền hình. Nhà nước tiếp tục
cấp kinh phí để đảm bảo sự giáo dục - đào tạo và dạy nghề chuyên ngành
Truyền hình.
- Củng cố và đẩy mạnh nâng cấp Trung tâm đào tạo trực thuộc Đài
Truyền hình Việt Nam .
- Tăng cường đội ngũ cán bộ, giáo viên đặc biệt là giảng viên kiêm
nhiệm giảng dạy và đào tạo.
- Mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu quốc tế đặc biệt là các trường đại
học, các viện nghiên cứu, các tổ chức phát thanh - truyền hình… phát triển lâu
đời trong khu vực và trên thế giới góp phần nâng cao hơn nữa vị thế và bản
sắc cũng như thế mạnh của nhân lực truyền hình trong chặng đường phát triển
sắp tới.
15
Chương III
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRUYỀN HÌNH TẠI VIỆT NAM
3.1. Khái quát xu hướng phát triển của Truyền hình Việt Nam trong
những năm tới
Để truyền hình có thể phát triển thì nó phải phục vụ tốt cho nhu cầu “tiêu
thụ” nội dung của khách hàng, phải số hóa truyền hình. Nhìn sang lĩnh vực
công nghệ thông tin và công nghệ viễn thông nói chung, ta thấy công nghệ
máy tính (từ PC, laptop, máy tính bảng), công nghệ điện thoại di động thông
minh (smartphone) kết hợp với công nghệ mạng mà đặc trưng là Internet (có
dây, không dây ) đã phục vụ cực kỳ tốt cho mục tiêu này.
Xã hội hóa công đoạn truyền dẫn, phát sóng trong lộ trình số hóa truyền
hình là xu thế chung đã được các nước tiên tiến trên thế giới thực hiện, nhằm
huy động nguồn vốn trong xã hội. Tại Việt Nam để hòa cùng xu hướng chung
đó và để thực hiện nghị quyết của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), ngày
16/12/2009 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 22/2009/QĐ-
TTg về việc Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến

năm 2020.
Việc xã hội hóa các hoạt động của truyền hình đã và sẽ là một khuynh
hướng tất yếu trong thời gian tới. Chỉ có thể để cho công chúng ngày một
tham gia nhiều hơn vào các công đoạn sản xuất của mình, và hướng hoạt động
sản xuất đến phục vụ và thoả mãn nhu cầu xem của công chúng, truyền hình
mới có giữ được ưu thế cạnh tranh trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay.
Xu hướng phát triển của chương trình truyền hình chuyên biệt dành cho giới
trẻ hiện nay dưới góc nhìn đa chiều, cần được xem xét như một xu thế phát
triển của phương thức này trong tương lai.
16
Bản đồ tình hình số hóa
truyền hình trên thế giới
Hình vẽ tổng hợp các quốc gia,
vùng lãnh thổ đã và sẽ chuyển đổi
công nghệ truyền hình
17
Lộ trình chuyển đổi từ nay đến năm 2020
3.1.1 Xu hướng phát triển của công nghệ truyền hình
Khoa học và công nghệ thông tin phát triển như vũ bão đã thúc đẩy
ngành truyền hình tiến lên không ngừng từ truyền hình đen trắng, truyền hình
màu sắc cho đến truyền hình số đa năng, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa
tinh thần ngày càng cao của công chúng truyền hình. Truyền hình từ phương
thức truyền tải tín hiệu bằng sóng ( vô tuyến) cho đến cáp ( hữu tuyến), truyền
hình số.
Một quy trình sản xuất được số hóa dựa trên nền tàng công nghệ thông
tin, từ thiết bị ghi hình, xử lý hình ảnh đến quản lý dữ liệu phát sóng đã được
triển khai. Xu hướng chuyển đổi hạ tầng, truyền dẫn phát sóng truyền hình
mặt đất từ công nghệ tương tự (analog) sang công nghệ số (số hóa truyền
dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất) theo hướng hiện đại, hiệu quả, thống nhất
về tiêu chuẩn và công nghệ, đáp ứng yêu cầu hội tụ công nghệ - dịch vụ

nhằm đảm bảo chất lượng và truyền tải đa dịch vụ.
Thực tế, truyền hình tại Việt Nam đang từng bước hòa vào dòng chảy số
hóa mạnh mẽ của công nghệ truyền hình trên thế giới. Xu hướng số hóa là
quá trình tất yếu sẽ diễn ra trước nhu cầu thông tin ngày càng cao của công
chúng truyền hình. Số hóa truyền hình sẽ nâng cao chất lượng của các chương
trình truyền hình. Nền tảng ứng dụng công nghệ số sẽ đem lại cho truyền
hình khả năng phát triển nội dung vượt trội. Truyền hình kỹ thuật số (DTV)
là một hình thức công nghệ phát sóng mới, tiên tiến, giúp truyền hình ảnh
dưới dạng dữ liệu qua sóng không khí như máy tính. DTV cung cấp hình ảnh
và âm thanh trong trẻo, nhiều kênh hơn và thậm chí cả truyền hình chất lượng
cao (HDTV) cho khách hàng dùng vô tuyến chất lượng cao. DTV cho phép
nhiều dịch vụ hơn hẳn so với truyền hình phát sóng miễn phí.Truyền hình
Việt Nam sẽ bắt nhịp với thế giới với nhiều công nghệ truyền hình độ phân
giải cao HDTV, siêu cao Super HDTV, truyền hình nổi 3D, Connected TV…
18
Đồng thời tiến hành song song lộ trình số hóa truyền hình mặt đất. Truyền
hình kỹ thuật số mặt đất là truyền hình chất lượng cao nhờ công nghệ chuyển
đổi từ tín hiệu analog sang digital. Với hình ảnh sắc nét, có chiều sâu, bỏ hoàn
toàn hiện tượng nhiễu và bóng ma (ghost free) vốn là nhược điểm của truyền
hình analog thông thường, loại bỏ tác hại của các tia sóng phản xạ, không bị
ảnh hưởng nhiễu phát ra do máy vi tính, đèn neon, mô tơ điện, sấm sét
Truyền hình kỹ thuật số mặt đất có khả năng thu cố định hoặc xách tay, thu di
động trên các phương tiện giao thông công cộng như ôtô, tàu hoả, máy bay.
Biểu đồ phủ sóng của truyền hình tương tự mặt đất
Mới đây nhất đài Truyền hình này cũng đã bắt đầu lên kế hoạch thực
hiện quá trình nâng cấp hệ thống từ chuẩn mã hóa hình ảnh và âm thanh
Mpeg2 sang Mpeg4. Cụ thể, lợi ích người xem sẽ được thưởng thức các kênh
truyền hình HD có độ nét cao, chất lượng hình ảnh và âm thanh trung thực
cũng như sống động hơn nhiều. Việc áp dụng chuẩn nén hình ảnh Mpeg4 sẽ
giúp mang lại cho công chúng truyền hình những trải nghiệm hình ảnh và âm

thanh tốt hơn hẳn.
Nghiên cứu và thực hiện công nghệ "Truyền hình thông minh"
(SmartTV) nhằm đảm bảo cho máy thu hình (TV) giữ vai trò chủ đạo cho các
19
thiết bị giải trí trong gia đình, chiếc máy thu hình là một thiết bị đa phương
tiện đáp ứng rất nhiều yêu cầu sử dụng của khách hàng. Cung cấp nội dung
truyền hình trên các thiết bị khác nhau (TV, màn hình máy tính, điện thoại di
động). Thực hiện truyền hình 3 màn nhằm đảm bảo cho người xem có thể
“tiêu thụ” nội dung bằng bất cứ thiết bị nào, ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời
điểm nào (anydevice, anwhere, anytime). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
các thiết bị cầm tay hiện nay như Smartphone hay máy tính bảng, hệ thống
Internet băng thông rộng cũng như kết nối 3G đang dần mở ra cánh cửa mới
cho ngành công nghiệp truyền hình. Từ đó chương trình Top TV có thể đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của truyền hình Internet, truyền
hình di động và TV có kết nối Internet giúp khán giả có thể xem truyền hình
mọi lúc, mọi nơi bằng các thiết bị cầm tay với chất lượng hình ảnh và âm
thanh tốt và đồng đều ngay cả khi ngồi trên các phương tiện giao thông di
chuyển với tốc độ cao. Các thiết bị có thể xem được dịch vụ Truyền hình di
động rất đa dạng như điện thoại di động, Navigation (trên xe hơi), PMP (thiết
bị multimedia cầm tay), USB (cho máy xách tay) và trong tương lai, sẽ cung
cấp các giải pháp xem Truyền hình di động trên IPHONE, Blackberry
Các công nghệ này chỉ có thể trở thành hiện thực khi truyền hình dựa
trên các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, đó là công nghệ số, công
nghệ mạng, công nghệ viễn thông, công nghệ quản lý khoa học … cả bằng
phần cứng và phần mềm, cũng như tuân thủ tốt các nguyên tắc quy định
chung của pháp luật.
Về phía các doanh nghiệp, việc số hóa truyền hình cũng mang lại lợi ích
không nhỏ khi công nghệ này sẽ giải phóng được lượng lớn tài nguyên về tần
số, qua đó các lĩnh vực về viễn thông băng thông rộng sẽ có nhiều "đất" hơn
để triển khai các dịch vụ của mình. Có thể nói, việc số hóa truyền hình sẽ là

đòn bẩy cho công nghệ nội dung số phát triển vượt bậc.
20
Ở Việt Nam hiện nay có hai loại truyền hình số là truyền hình số vệ tinh
DTH và truyền hình số mặt đất. Truyền hình số DTH và truyền hình số mặt
đất khắc phục được nhược điểm của cáp hữu tuyến là vươn được tới những
khu vực chưa được rải cáp. Truyền hình internet là công nghệ truyền hình mới
được ứng dụng tại Việt Nam, được đông đảo khán giả hưởng ứng bằng các
công nghệ truyền hình đi trước. Cả hai hình thức là truyền hình internet
truyền thống và truyền hình sử dụng giao thức internet (IPTV). Truyền hình
internet đòi hỏi đường truyền iternet băng thông rộng và máy tính hoặc bộ
chuyển đổi tín hiệu cho TV. Khả năng lựa chọn chương trình theo yêu cầu
( video –on –demand) cao, dĩ nhiên là đối với các chương trình phát lại.
Ngoài ra, vì internet là thế giới ngay trong nhà bạn nên bạn có thể xem hàng
trăm thậm chị hàng ngàn chương trình truyền hình miễn phí từ khắp mọi nơi.
Truyền hình di động là công nghệ đưa chương trình truyền hình đến thiết bị
cầm tay không dây của bạn ( điện thoại di động và PDA ). Truyền hình di
động cho phép banh có thể xem truyền hình mọi lúc mọi nơi, chứ không nhất
thiết phải ngồi trước TV hay máy tính. Truyền hình của tương lại là truyền
hình số với những chuẩn riêng, cao hơn rất nhiều so với công nghệ tương tự,
về độ phân giải, tỉ lệ khuôn hình và số lượng hình/giây.
3.1.2 Xu hướng phát triển về nội dung truyền hình
Phát triển nội dung hướng ra Internet, cá thể hóa nội dung, chuyển đổi
vai trò vị thế khán giả là những xu hướng phát triển chính về nội dung truyền
hình trong thời gian tới. Sử dụng rất nhiều thể loại chương trình khác nhau
liên quan đến vấn đề nhập khẩu bản quyền. Xu hướng các chương trình “live”
dạng trực tiếp cũng đang chiếm ưu thế. Truyền hình trực tiếp ngày càng
trởnên không thể thiếu trong các chương trình truyền hình, tăng tính hấp dẫn
của truyền hình, vì khán giả cảm thấy có hiệu ứng “cùng chứng kiến sựkiện”.
Việc chuyển tải thông tin chân thực và nhanh nhạy của phương thức truyền
hình trực tiếp khiến người xem cảm giác mình thực sự đang tham gia vào

21
sựkiện và đạt được hiệu quảcao. Từ đó, truyền hình đang thực sự dần dần phát
huy thế mạnh của báo chí, tác động, hình thành và định hướng một cách tích
cực dư luận xã hội. Cầu truyền hình là một chương trình phát thẳng, trực tiếp
có nhiều cầu nối để người xem chương trình cùng lúc có thể chứng kiến nhiều
sự kiện, sự việc tại nhiều địa điểm ở những vùng địa lý khác nhau nhưng theo
một chủ đề xuyên suốt. Trong thuật ngữ hiện đại tiếng Anh gọi là “live” nghĩa
là truyền hình trực tiếp sự kiện mà không qua khâu dàn dựng hậu kỳ thông
thường.
Trong xu hướng phát triển truyền hình, sau nhiều nỗ lực tìm tòi những
định dạng truyền hình thực tế thuần Việt mà chưa thành công, các nhà đài
buộc phải bạo tay chi tiền để mua bản quyền các chương trình đang "hot" từ
những nước có nền công nghiệp giải trí phát triển. Ðể rồi “nội địa hóa” trên
format quốc tế. Đó là lý do tại sao các gameshow được gắn mác truyền hình
thực tế như: Vietnam’s Got Talent, Vietnam Idol, Bước nhảy hoàn vũ, Cặp
đôi hoàn hảo, The Voice, Thử thách cùng bước nhảy liên tục đổ bộ, chiếm
sóng "giờ vàng" trên các kênh truyền hình Việt. Yếu tố mới lạ, khả năng kết
nối và sự gia tăng "quyền lực" của khán giả trong cuộc chơi đã khiến cho
truyền hình thực tế hiện có sức thu hút đối với một bộ phận công chúng
Truyền hình tương tác là một dạng truyền hình cho phép người xem
tham gia, điều khiển các chương trình truyền hình. Nói một cách đơn giản có
thể định nghĩa bằng sự thay thế máy thu hình truyền thống bởi các thiết bị cho
phép người sử dụng nhận được các thông tin và các dịch vụ bằng cách sử
dụng bộ điều khiển từ xa và bàn phím.Với dạng truyền hình truyền thống,
đường truyền truyền hình là một chiều. Các nhà đài cho phép khán giả xem
gì, vào giờ nào, trên kênh nào là quyền của họ. Với truyền hình tương tác,
khán giả được trực tiếp tham gia vào chương trình đang phát sóng. Khán giả ở
đây là những người đang xem TV chứ không phải là những người trong
trường quay. Ví dụ, chương trình "Ai là triệu phú" “ Đấu trường 100” đang
22

phát sóng, nó sẽ là chương trình truyền hình tương tác nếu như khán giả
(những người đang ở trước TV) được phép trả lời thông qua đường điện thoại
hoặc đường phản hồi nào khác.
3.1.3. Xu hướng phát triển của chương trình truyền hình chuyên
biệt dành cho giới trẻ
Truyền hình chuyên biệt là một hình thức truyền hình dịch vụ được xây
dựng chuyên nghiệp phát sóng hàng ngày có nội dung chuyên sâu về một lĩnh
vực nhất định (âm nhạc, thể thao, tài chính…) hoặc có nội dung chỉ dành cho
một nhóm đối tượng khán giả mục tiêu (có những đặc điểm chung về lứa tuổi,
giới tính, địa lý ) nhằm mục tiêu phục vụ tốt nhất nhu cầu của công chúng
xem truyền hình.
Khán giả trẻ tại Việt Nam: Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ (60%
là giới trẻ). Thanh thiếu niên là nhóm dân số lớn có độ tuổi từ 13-24 (độ tuổi
có rất nhiều biến động về tâm lý và sinh lý, là khoảng thời gian tạo dựng
những nền tảng quan trọng cho sự trưởng thành). Một số đặc điểm của giới trẻ
Việt Nam hiện nay:
Giới trẻ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, sớm khẳng định
vai trò, vị trí trong đời sống
Giới trẻ chủ động hơn trong việc tự nghiên cứu tìm tòi tri thức, lĩnh hội
tri thức và lựa chọn con đường lập nghiệp cho bản thân.
Tốc độ tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngày càng nhanh, sự biến đổi về
tâm sinh lý càng diễn biến phức tạp.
Nhiều bạn trẻ tỏ ra thời ơ với thời cuộc, lối sống thực dụng, thích hưởng
thụ.
Cần có sự định hướng và cung cấp những phương tiện kiến thức để hiểu
được các thông tin bởi hội nhập là xu hướng tất yếu.
Sự ra đời tất yếu của kênh truyền hình chuyên biệt dành cho giới trẻ
Nhu cầu của khán giả trẻ: những chương trình dành cho giới trẻ đang có
23
trên các kênh đang có chưa thỏa mãn được nhu cầu xem. Trong khi đó thế hệ

trẻ lại chờ đợi được xem, biết, học nhiều hơn từ truyền hình theo phong cách,
lối tư duy của họ. Định hướng của Đảng và Nhà nước: báo chí là một trong
những phương tiện góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân trong
đó có thanh thiếu niên hiệu quả. Đồng thời, thông qua báo chí, Đảng và Nhà
nước truyền tải các chủ trương, đường lối và chính sách tới nhân dân nói
chúng, giới trẻ nói riêng.
Nhu cầu và sự phát triển của truyền hình Việt Nam: Thanh thiếu niên là
nhóm công chúng khán giả lớn của đài truyền hình Việt Nam. Hơn nữa, với
chủ trương xã hội hóa truyền hình, nhà đài có thể tranh thủ sức sáng tạo của
giới trẻ bởi họ là những người luôn năng động, nhiệt tình và say mê thể hiện
kiến thức
Từ những lý do trên, đã dẫn đến sự ra đời của kênh VTV6 - kênh truyền
hình dành riêng cho thanh thiếu niên ra mắt công chúng khán giả trẻ Việt
Nam
Một số kênh truyền hình chuyên biệt dành cho giới trẻ tại Việt Nam:
VTV6: kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên từ 13-24 tuổi.
YANTV: kênh truyền hình âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam chính thức ra
mắt khán giả vào 16/6/2009 hiện đã có mặt trên SCTV2, VCTV, HTVC+,
K+, Hải Phòng cable.
Yeah1TV: kênh truyền hình dành cho tuổi teen phát sóng trên kênh
VTC4 thuộc Đài truyền hình kỹ thuật số VTC và hệ thống truyền hình
cáp SCTV .
ITV: kênh Truyền hình tương tác đầu tiên tại Việt Nam trực thuộc Công
ty, đối tượng khán giả chủ yếu là tầng lớp thanh thiếu niên.
Nhìn chung xu hướng trẻ hóa của khán giả và nhu cầu gia tăng của giới
trẻ về những sản phẩm truyền thông, cũng như sự lớn mạnh của thị trường
truyền thông tại Việt Nam, đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều kênh truyền hình
24

×