Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan – Đoan Hùng – Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.61 MB, 80 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mác và Ăng-ghen khi nghiên cứu lịch sử tiến hoá của xã hội loài
người đã dựa trên quan điểm duy vật khẳng định vai trò của gia đình trong
sự phát triển của xã hội: "Những trật tự xã hội của con người ở một thời đại
lịch sử của một quốc gia do hai yếu tố con người quyết định. Đó là, trình độ
phát triển của lực lượng lao động và trình độ phát triển của gia đình”
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Rất quan tâm đến gia đình là đúng
và nhiều gia đình cộng lại thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt"
Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình đã được thể hiện trong các nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Từ đó, các ngành, các cấp, các
đoàn thể và tổ chức xã hội ra sức chăm lo gia đình và cơ hội để gia đình góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở bất kỳ thời đại nào gia đình đều giữ vai trò là tế bào của xã hội, là
một trong những nhân tố quyết định sự hưng thịnh của một quốc gia.Trong
những năm qua, cùng với các chủ trương phát triển kinh tế, chính trị, an sinh
xã hội cũng được chú trọng. Vấn đề phụ nữ, giới và bình đẳng giới ngày
càng được quan tâm. Đối tượng là phụ nữ ngày càng được tín nhiệm, đề cử
vào các vị trí quan trọng trong xã hội.Trong mỗi gia đình, người phụ nữ luôn
đóng vai một vai trò quan trọng để tạo lập nên hạnh phúc gia đình. Xã hội đã
phát triển kéo theo sự thay đổi vai trò của người phụ nữ ở xã hội nói chung,
trong gia đình nói riêng, nam nữ được đối xử công bằng, không còn tư tưởng
“ trọng nam khinh nữ” nữa.Bên cạnh đó vẫn còn hiện tượng phụ nữ bị ngược
đãi nhất là trong gia đình.Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng
xảy ra hầu như ở khắp các nơi trên thế giới, mọi đẳng cấp trong xã hội và
trong mọi nền văn hoá. Bạo lực gia đình đã tàn phá, hủy hoại sự bình yên
của nhiều gia đình, làm băng hoại đạo đức xã hội, tước đoạt quyền được
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
sống hạnh phúc của những người vợ, người con. Bạo lực gia đình đối với


phụ nữ là một vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm. Đây không còn là đề tài
mới nhưng vẫn rất thời sự. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại
chúng, không ít các trường hợp bệnh nhân nhập viện vì chấn thương do các
tác nhân bạo lực gia đình gây ra, có những trường hợp rất man rợ và đáng
thương tâm. Nhiều vụ ly hôn ra toà là nguyên nhân của nạn bạo lực gia đình.
Phụ nữ là những đối tượng nhạy cảm, vì vậy, các triệu chứng trầm cảm,
stress mạnh, nguy hại hơn là sự suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là
những di hậu của nạn bạo lực gia đình. Không chỉ thế, người phụ nữ còn là
đối tượng hứng chịu những tổn hại về sinh lý dưới tác động của hành vi bạo
lực về tình dục. Trong khi đó, tổn thất cho việc giải quyết vấn đề bạo lực gia
đình là không nhỏ, bao gồm nhiều khoản chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ luật
pháp, công an, tòa án, xã hội; cho công tác tuyên truyền, y tế, giáo dục. Đồng
thời, phụ nữ - nạn nhân bạo lực gia đình sẽ giảm năng suất lao động, giảm
khả năng tạo thu nhập và việc làm.
Gia đình là tế bào của xã hội do vậy công tác xã hội cũng đặc biệt chú
trọng tới sự phát triển của gia đình.Công tác xã hội hỗ trợ, can thiệp những
gia đình có vấn đề: xung đột gia đình, ngoại tình hoặc mâu thuẫn vợ chồng,
nghèo đói, bệnh tật, bạo lực gia đình…Thông qua khoá luận này, tôi mong
muốn cung cấp những kiến thức bổ ích về vấn nạn bạo lực gia đình mà ở đây
tôi muốn nhấn mạnh tới bạo lực gia đình đối với phụ nữ đến mọi người mà
đặc biệt là các bạn sinh viên công tác xã hội.Thông qua vận dụng phương
pháp công tác xã hội cá nhân trợ giúp phụ nữ bị bạo lực tôi muốn nhấn mạnh
hơn nữa vai trò hỗ trợ, can thiệp của công tác xã hội trước thực trạng vấn nạn
bạo lực gia đình ngày càng xảy ra thường xuyên ở nước ta. Với khả năng và
kiến thức hạn chế của một sinh viên tôi không nghĩ mình có thể làm thay đổi
vấn nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam nói chung và ở địa phương tôi nói riêng
nhưng tôi mong muốn sẽ mang đến cái nhìn sâu sắc, sự nhận thức về nghề
nghiệp tương lai của một nhân viên công tác xã hội thông qua đưa ra mô
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
hình trợ giúp, can thiệp mang “chất” công tác xã hội.Tôi hi vọng sự phát

triển của đất nước có phần không nhỏ sự trợ giúp, can thiệp của công tác xã
hội để các gia đình Việt Nam ngày càng hạnh phúc, bình yên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước đây hầu hết các Chính phủ coi bạo lực đối với phụ nữ là vấn đề
riêng tư (United Nation 1996) thì ngày nay nhiều nghiên cứu quốc tế đã cho
thấy bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình là hệ thống có tính toàn cầu, tác
động trong khoảng 20-50% số phụ nữ trên thế giới (WHO, 1998)
Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình đã trở thành một nội dung quan
trọng trong Tuyên bố hành động của Hội phụ nữ thế giới lần thứ IV tại Bắc
Kinh năm 1995 và trong các văn bản của tổ chức Liên hợp quốc.
Từ ngày 4 – 6/12/2001, tại Phnômpênh Campuchia đã diễn ra Hội
nghị về luật pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở vùng
tiểu Mêkông, Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Hội nghị được tổ chức
và tài trợ bởi một số tổ chức quốc tế lớn như: Diễn đàn Châu Á (Forum Asia)
về quyền con người và phát triển, Diễn đàn Châu Á – Thái Bình Dương về
phụ nữ, Luật pháp và phát triển (APWLD); Quỹ phát triển của Liên hợp
quốc (UNIFEM); Đại sứ quán Hà Lan tại Băng Kốc…
Hội nghị diễn ra với 5 mục tiêu:
- Tăng cường cải thiện về Luật pháp cho sự tiến bộ về quyền con
người của phụ nữ ở các nước Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam.
- Xây dựng những hiểu biết chung về vấn đề bạo lực gia đình và khả
năng của từng nước trong việc phát triển các chiến lược kiểm soát bạo lực
gia đình.
- Chia sẻ kinh nghiệm từ các tổ chức Phi chính phủ ở một số nước đã
đạt được các thành tích trong việc thực hỗ trợ Pháp luật cho vấn đề bạo lực
gia đình.
- Thành lập mạng lưới thông tin giữa các cơ quan Quốc hội, phòng,
ban, cấp, ngành, các đoàn Luật sư và các tổ chức Phi chính phủ.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
- Hội nghị đã nghe trình bày và thảo luận về các chủ đề như: vấn đề

khái niệm về bạo lực gia đình, vai trò của Văn hoá và thế giới trong phòng,
chống bạo lực gia đình.
Hội nghị đã thống nhất trên một số vấn đề sau:
- Bạo lực gia đình không phải là chuyện riêng của gia đình.
- Phụ nữ đang bị coi là phụ thuộc vào nam giới trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay có nhiều nước, đặc biệt là ở Châu Á có những phong tục, văn
hoá, tôn giáo tạo điều kiện cho vấn đề bất bình đẳng nam, nữ và khuyến khích
bạoc lực gia đình kể cả 1 số Chính Phủ, cảnh sát chưa có hoạt động tích cực
ngăn chặn bạo lực gia đình vì coi đây là chuyện riêng của gia đình họ.
Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình tuy mới được phát hiện và xem
xét trong vài thập kỉ gần đây song nghiên cứu của nhiều nước trên thế giới đã
chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của tệ nạn này đồng thưòi cho thấy các
nguyên nhân, hình thức bạo lực khác nhau và sự ảnh hưởng của chúng đến
sức khoẻ thể chất, tinh thần, tình dục. Việc nghiên cứu đã góp phần giúp cho
các nhà hoach định chính sách các thể chế xã hội ở mỗi nước có biện pháp
giải quyết tình trạng này.
Ở Việt Nam nghiên cứu về bạo lực gia đình muộn hơn so với các nước
trên thế giới. Trong các dạng bạo lực gia đình thì bạo lực với phụ nữ trong
gia đình có tính chất nhạy cảm.Nó tồn tại từ ngàn xưa nhưng từ xưa vẫn cho
là chuyện bình thường hoặc được che giấu chỉ đến thời gian gần đây báo cáo
của hội phụ nữ, hội đồng dân số và ngân hàng thế giới (nhóm chuyên gia của
viện xã hội học) thực hiện công luận mới bắt đầu thừa nhận nó như một hiện
tượng phổ biến ở tất cả các vùng miền trong nhiều gia đình thuộc tất cả các
nhóm xã hội.Có một số công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này như:
* Năm 1997, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành nghiên cứu
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng số liệu
thứ cấp lấy từ báo chí và các cơ quan khác tại 3 tỉnh Hà Nội, Hà Tây (cũ),
Thái bình là cơ sở để phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực đối với
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
phụ nữ trong gia đình là khá phổ biến. Tuy nhiên nghiên cứu này vẫn chưa

cung cấp đầy đủ được một bức tranh toàn diện về bạo lực trên cơ sở giới.
* Năm 1999, Lê Thị Phương Mai đã nghiên cứu về “ Bạo lực và hậu
quả đối với sức khoẻ sinh sản : Hiện trạng của Việt Nam”. Nghiên cứu tập
trung vào tìm hiểu các nguyên nhân và các loại bạo lực. Trong báo cáo bao
gồm các trường hợp Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình chủ yéu phỏng
vấn phụ nữ đến Tư vấn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả nhận thấy : Bạo
lực đối với phụ nữ trong gia đình có thể xảy ra ở mọi gia đình và mọi tầng
lớp xã hội.
* Bạo lực trên cơ sở giới: trường hợp ở Việt Nam, TS Vũ Mạnh Lợi,
TS Vũ Tuấn Huy, TS Hữu Minh, Jennifer Clenment thực hiện tại cuộc
nghiên cứu thăm dò cởi mở đối với người Việt Nam về thực trạng bạo lực
chống lại phụ nữ ở các xã phường…
* Báo cáo về bạo lực với phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam (1999), TS
Lê Thị Quý. Tác giả Lê Thi Quý đã xác định 4 nguyên nhân của bạo lực đối
với phụ nữ trong gia đình là kinh tế, học vấn, thói quen văn hoá – xã hội và
bệnh thần kinh của người có hành vi bạo lực. Đồng thời tác giả còn nêu rõ
hậu quả của nạn bạo lực.
* Bình đẳng giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản và chống bạo lực
gia đình(2002) của Hội kế hoạch hoá gia đình Việt Nam.
* Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam (1999), GS.Lê
Thi, NXB Phụ nữ Hà Nội.
* Bạo lực trong gia đình, Bùi Thu Hằng.
* Bạo lực trong gia đình (1999), Lê Thị Quý.
* Vì một xã hội không bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em (2002), Trung
tâm sức khoẻ phụ nữ và gia đình Workbank.
Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập tới vấn đề bạo
lực đối với phụ nữ trong gia đình tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu
nhằm đưa ra mô hình trợ giúp đối với đối tượng là phụ nữ bị bạo lực. Ở địa
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
phương tôi việc nghiên cứu về bạo lực gia đình là hạn chế hầu như chỉ có

báo cáo thống kê các vụ bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong xã hơn thế
việc trợ giúp những người phụ nữ gặp bất hạnh đó chỉ có sự hỗ trợ của chính
quyền địa phương, hội phụ nữ, cơ quan dân số…do đó phụ nữ bị bạo lực gia
đình thường ít tự lực giải quyết vấn đề của mình, vượt qua khó khăn xây
dựng hạnh phúc mà ỷ lại vào sự giúp đỡ đó hoặc tìm cách che giấu.Xuất phát
từ lí do trên tôi lựa chọn đề tài này làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Cách vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ
giúp.
3.2 Khách thể nghiên cứu
* Phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan-Đoan Hùng-Phú Thọ.
* Cán bộ chính quyền, đoàn thể: Hội phụ nữ, đoàn thanh niên,cơ quan
dân số…
3.3 Phạm vi nghiên cứu
* Thời gian : Từ 15/1/2011-1/4/2011.
* Không gian: Địa bàn xã Ngọc Quan - Đoan Hùng - Phú Thọ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua sự trợ giúp của công tác xã hội những phụ nữ bị bạo lực
gia đình nói chung và phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương tôi nói riêng
sẽ tự giải quyết được vấn đề khó khăn, có niềm tin vào khả năng và sức
mạnh của bản thân, xây dựng hạnh phúc gia đình, ổn định cuộc sống.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
* Nghiên cứu về mặt lí luận những thuật ngữ liên quan đến đề tài: bạo
lực gia đình, bạo lực đối với phụ nữ.
* Nghiên cứu về nạn bạo lực gia đình trên thế giới và Việt Nam.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
* Nghiên cứu về thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình tại
xã Ngọc Quan – Đoan Hùng- Phú Thọ.

* Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp
trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan- Đoan Hùng- Phú Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu , bổ sung và tích luỹ vốn tri
thức lí luận liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ: Triết học, tâm lí học, công
tác xã hội đồng thời nghiên cứu những chủ trương, chính sách, văn bản pháp
luật, các công trình khoa học về bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình.Mục
đích của phương pháp này là thu thập những vấn đề lí luận liên quan đến đề
tài như: bạo lực, gia đình, bạo lực gia đình, bạo lực đối với phụ nữ.Vì đó là
cơ sở cho việc xây dựng phương pháp điều tra, phân tích về thực trạng bạo
lực đối với phụ nữ trong gia đình trên thế giới nói chung và ở địa phương tôi
nói riêng.
- Báo cáo tóm tắt nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ
Việt Nam.
- Báo cáo của chính quyền xã Ngọc Quan về thực trạng bạo lực gia
đình đối với phụ nữ.
- Tìm hiểu thái độ và nhận thức của sinh viên trường Đại học sư phạm
Hà Nội về bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, Hà Thị Minh.
Ngoài ra khoá luận còn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu từ
phim ảnh, internet, sách, báo, băng hình…trên cơ sở đó phân tích, sàng lọc
thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.Kết hợp tham khảo một số đề tài
nghiên cứu khoa học, luận văn có liên quan đến đề tài trước đó để tham khảo
thêm về phương pháp nghiên cứu làm cơ sở bổ sung cho đề tài của mình.
5.2 Phương pháp phỏng vấn
Tôi sử dụng phương pháp này làm phương tiện cho các phương pháp
nêu trên đồng thời thu thập một số thông tin cụ thể, chính xác góp phần tăng
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
độ tin cậy và sức thuyết phục của khoá luận.Cụ thể tôi tiến hành trao đổi, trò
chuyện trực tiếp với nhóm phụ nữ bị bạo lực tại khu hành chính 7 xã Ngọc

Quan - Đoan Hùng - Phú thọ trong đó có một phụ nữ tôi chọn làm trường
hợp để vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ
giúp.Tôi cũng tiến hành trò chuyện và thu thập thông tin từ chính quyền xã,
hội phụ nữ, cơ quan dân số…tại địa phương.Phương pháp này giúp tôi nhận
biết được ý kiến, thái độ, suy nghĩ của họ về vấn nạn bạo lực gia đình nói
chung và tại địa phương mình nói riêng.
5.3 Phương pháp quan sát
Quan sát là chú ý tới những đặc điểm của người , vật, tình huống…
mục đích là sử dụng những dữ kiện quan sát được để hiểu thêm về đối
tượng, sự việc.Khi nghiên cứu chúng ta thường sử dụng phương pháp quan
sát để thu thập thông tin một cách trực tiếp, cụ thể, chính xác.Chúng ta
thường quan sát môi trường xung quanh đối tượng nghiên cứu, mối quan hệ
và vai trò của đối tượng nghiên cứu trong môi trường.
Quan sát đối tượng: Hành vi, ngoại hình, thái độ, cử chỉ, dấu hiệu lo
lắng, bất an, ngôn ngữ cơ thể Trong khoá luận này tôi sử dụng phương pháp
quan sát với mục đích:Thu thập thêm thông tin về bạo lực gia đình tại khu 7
xã Ngọc Quan, những biểu hiện, cử chỉ, thái độ của nhóm phụ nữ bị bạo lực
tại địa phương, hiểu biết về gia đình nạn nhân bị bạo lực…
5.4 Điều tra thu thập thông tin
Đây là phương pháp cơ bản của khóa luận này. Để tìm hiểu bạo lực
gia đình tại địa phương và có kế hoạch can thiệp trợ giúp mang tính chất
công tác xã hội.Tôi sử dụng phương pháp này với mục đích:
- Tìm hiểu thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương.
- Những nguyên nhân gây nên thực trạng trên.
- Hậu quả khi phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình:
+ Đối với bản thân.
+ Đối với gia đình.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
+ Đối với xã hội.
- Tìm hiểu những chính sách hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình của

chính quyền và các tổ chức đoàn thể có liên quan.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1 Ý nghĩa lí luận
Đề tài có ý nghĩa trong việc cung cấp những thông tin cơ bản về nạn
bạo lực gia đình đồng thời giúp sinh viên công tác xã hội nắm vững lí thuyết
phương pháp công tác xã hội cá nhân.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Giúp sinh viên công tác xã hội hiểu rõ hơn về thực trạng phụ nữ bị bạo
lực gia đình tại địa phương từ đó vận dụng kiến thức đã học trong việc trợ
giúp - Đó là cách vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trợ giúp đối
tượng là phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương mình.
7. Kết cấu của khoá luận
Chương I Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chương II Thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc
Quan – Đoan Hùng – Phú Thọ.
Chương III Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân
trong việc trợ giúp trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc
Quan – Đoan Hùng – Phú Thọ.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1Các khái niệm
1.1.1.1Bạo lực gia đình
“Bạo hành gia đình/Bạo lực gia đình là thuật ngữ dùng để chỉ các hành
vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Hành vi bạo lực
thường thấy nhất là giữa vợ và chồng nhưng bạo lực giữa cha mẹ với con cái
hay ông bà, anh em ruột với nhau hoặc giữa mẹ chồng và con dâu cũng có
xảy ra và được xếp vào nhóm các hành vi này. Nạn nhân của bạo lực thân
thể thường là phụ nữ - vợ hoặc mẹ của đối tượng, với nam giới họ là nạn

nhân của bạo lực tinh thần nhiều hơn. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc
gia, nền văn hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao
hay thấp”
[3 ]
1.1.1.2 Bạo lực đối với phụ nữ
Bạo lực đối với phụ nữ là bất cứ hành động bạo lực nào trên cơ sở giới
gây ra, hoặc có thể gây ra tổn hại cho phụ nữ về mặt thể chất, tình dục hoặc
về tâm lý hay kinh tế, bao gồm cả việc đe doạ thực hiện những hành động
đó, ép buộc hay cố tình tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù xảy ra ở nơi
công cộng hay đời sống riêng tư.
[3 ]
1.1.1.3 Công tác xã hội
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên
nền tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá
nhân, nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh,
vươn lên hoà nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững.
[4; 41]
1.1.1.4 Công tác xã hội cá nhân
Công tác xã hội cá nhân là phương pháp giúp đỡ một cá nhân có vấn
đề khó khăn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy bằng chính khả năng của họ.
[ 1;10]
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
1.1.2 Một số lí thuyết liên quan
1.1.2.1 Thuyết hành vi
Tâm lý học hành vi không mô tả, không giảng giải các trạng thái ý
thức, mà quan tâm đến hành vi của tồn tại người.
Các sự kiện quan sát thấy đều được lý giải theo nguyên tắc: khi có một
kích thích nào đó tác động vào cơ thể tạo ra một phản ứng nhất định. Do đó,
mọi hành vi do cơ thể tạo ra đều được biểu đạt theo công thức kích thích -
phản ứng (S – R), và hành vi chỉ còn lại là các cử động bề ngoài, hoàn toàn

không liên quan gì với ý thức được coi là cái bên trong.
Đi theo những người nghiên cứu tâm lý học động vật lấy nguyên tắc
“thử và lỗi” làm nguyên tắc khởi thủy điều khiển mọi hành vi, Oat-xơn muốn
loại trừ tâm lý học duy tâm với phương pháp nội quan bằng cách nghiên cứu
hành vi theo phương pháp lâu nay vẫn dùng trong tâm lý học động vật.
[11]

1.1.2.2 Thuyết hệ thống sinh thái
Lí thuyết hệ thống và sinh thái giúp cho những người thực hành công
tác xã hội phân tích thấu đáo sự tương tác trong các hệ thống xã hội và hình
dung những tương tác này ảnh hưởng ra sao tới hành vi con người.
Lí thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra sự tác động mà các tổ chức, các
chính sách, cộng đồng và nhóm ảnh hưởng lên cá nhân.Mục đích của công
tác xã hội cá nhân là cải thiện mối tương tác giữa thân chủ và hệ thống.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng mạng lưới xã hội gồm bạn bè, người thân,
láng giềng, bạn đồng nghiệp và cả con vật cưng chiều giúp giảm thiểu tác
động tai hại của những căng thẳng trong cuộc sống.Trái lại, người thiếu
mạng lưới xã hội đáp ứng với những căng thẳng trong cuộc sống bằng trầm
cảm, dùng ma tuý hay uống rượu, có hành vi bạo lực hoặc đối phó bằng
những cách thức không phù hợp.
Thế mạnh chủ yếu của mô hình các hệ thống sinh thái là phạm vi rộng
đến nỗi những vấn đề tiêu biểu của con người như chăm sóc sức khoẻ, quan
hệ gia đình, thu nhập bất thường, khó khăn về sức khoẻ tâm thần…có thể
gộp tất cả vào mô hình này, giúp người thực hành nghề nghiệp phân tích các
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
biến số phức tạp liên quan đến vấn đề này. Đánh giá cội rễ của vấn đề và
quyết định trọng tâm can thiệp là những bước đi đầu tiên khi áp dụng mô
hình các hệ thống sinh thái.
[1; 76]
1.1.2.3 Thuyết xung đột

Những người đặt nền móng xây dựng lí thuyết xung đột là C.Mác,
Ăng ghen, Simmel…
Vận dụng lí thuyết xung đột vào nghiên cứu gia đình
Những người theo lí thuyết xung đột cho rằng tình yêu là một yếu tố
quan trọng trong hôn nhân và gia đình hiện đại, những mâu thuẫn và xung
đột cũng hết sức cơ bản.Cách tiếp cận của lí thuyết này không tin xung đột là
tồi tệ mà coi nó như một bộ phận tự nhiên của đời sống gia đình.
Gia đình bao gồm những cá nhân có nhân cách, lí tưởng, giá trị, sở
thích và mục đích khác nhau.Mỗi người không phải bao giờ cũng hài hoà với
mọi người khác trong gia đình.Các gia đình thường có bất đồng từ nhỏ đến
lớn.Họ chỉ khác nhau về tần số, mức độ, tính chất, biểu hiện và cách giải
quyết xung đột.
Theo lí thuyết xung đột yếu tố quyền lực là yếu tố hết sức quan trọng
trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong gia đình.Mọi người trong gia
đình đều có quyền lực ở mức độ khác nhau, cá nhân nào, nhóm nào có nhiều
quyền lực nhất thì thắng trong cuộc xung đột.
[6;22]
1.1.2.4 Thuyết bình quyền
Thuyết bình quyền xem xét khái niệm “ Quyền lực” trong mối quan hệ
của con người đặc biệt là lạm dụng quyền lực.
Đấu tranh với những truyền thống cũ mà phụ nữ và trẻ em bị xem như
vật dụng hoặc vật sở hữu của nam giới.
[6;5]
1.1.3 Hệ thống văn bản luật về phòng chống bạo lực gia đình
1.1.3.1 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại
hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những

thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp
năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.
Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Điều 52: “ Mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật”
Điều 63: “ Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ”
Điều 71: “ Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm công dân”
1.1.3.2 Luật tố tụng hình sự Số: 19/2003/QH11
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc
tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều 5. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo
pháp luật.

Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của
công dân.
Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài
sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng
như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của
pháp luật.
1.1.3.3 Luật dân sự
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách
ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình
đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội.
Điều 609 quy định “ Người nào xâm phạm tính mạng, sưc khoẻ, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.Thiệt hại về sức khoẻ được tính toán bồi thường
theo điều 613; thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được bồi thường theo điều
614; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại được bồi thường
theo điều 615”
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
1.1.3.4 Luật phòng chống bạo lực gia đình số 02/2007
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phòng ngừa bạo lực

gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân,
gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi
phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có sáu chương với 46 điều đã
được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 21-11-2007 và Chủ
tịch nước ký lệnh công bố ngày 5-12-2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-
2008.
Điều 2. Các hành vi bạo lực gia đình
1. Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến
sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị,
em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư
hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của
các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính
quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra
tình trạng phụ thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
2. Hành vi bạo lực quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng
đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không

đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn
chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông
tin khác theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện
hành vi bạo lực gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động
bạo lực gia đình.
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình,
người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc
thực hiện hoạt động trái pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của
pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình
Điều 19. Biện pháp ngăn chặn, bảo vệ
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
1. Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ
nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu
quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm:
a) Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình;

b) Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình;
c) Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi
bạo lực gia đình;
d) Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng
điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn
nhân (sau đây gọi là biện pháp cấm tiếp xúc).
2. Người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức
độ của hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các
biện pháp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
3. Thẩm quyền, điều kiện áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp quy
định tại điểm c khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự.
4. Việc áp dụng biện pháp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này được
thực hiện theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật này.
Điều 26. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình
1. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình là nơi chăm sóc, tư vấn,
tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia
đình.
2. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:
a) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
b) Cơ sở bảo trợ xã hội;
c) Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình;
d) Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình;
đ) Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
3. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn hoạt động trợ giúp nạn
nhân của các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình.
1.1.3.5 Luật hôn nhân và gia đình 2010
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi

trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt.Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và
phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, để
nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng,
củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam; Kế thừa và phát triển pháp
luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam.Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.Luật này quy định chế độ hôn
nhân và gia đình.
Điều 4. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly
hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi.
Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh,
chị, em và các thành viên khác trong gia đình.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được
xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có
thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng
Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền

vững.
Điều 19. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình.
Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
1. Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho
nhau.
2. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của nhau.
1.1.3.6 Luật bình đẳng giới nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Luật này quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn
nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và gia đình.
Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình.
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ
khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản
chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và
quyết định các nguồn lực trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa
chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian
nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện

như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công
việc gia đình.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng bạo lực gia đình trên thế giới
Bạo lực gia đình đặc biệt là bạo lực đối với phụ nữ ở khắp mọi nơi
trên thế giới với nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da,
tầng lớp, lứa tuổi, trình độ văn hoá, địa vị xã hội.Ngay ở những nước được
coi là phát triển và văn minh ở Châu Âu, Châu Mĩ vẫn có không ít người
phải chịu đựng nạn này.
Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn 1/2 triệu phụ nữ Mĩ (588.490 phụ
nữ) chết do bạo lực gia đình bởi người chồng của họ.Có khoảng 85% nạn
nhân của bạo lực gia đình là nữ và chỉ xấp xỉ 15% nạn nhân là nam.Trong
năm 2001, bạo lực gia đình gây tội nghiêm trọng của chồng đối với vợ tăng
20%, số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3% trong tổng số các vụ
nghiêm trọng đối với đàn ông.Trung bình mỗi ngày có hơn 3 phụ nữ bị giết
bởi chồng hoặc bạn trai của mình.
Ở Pháp điều tra mới đây cho thấy tỉ lệ phụ nữ bị chồng ngược đãi là
2,5% tức là khoảng 1,5 triệu người.Theo “ Liên đoàn đoàn kết phụ nữ quốc
gia Pháp” nhận định: Chỉ riêng tại Paris , Kinh đô ánh sáng của văn minh
nhân loại có 60 phụ nữ bị chồng hay người tình đánh giết mỗi năm”.Trên cả
nước Pháp có 450 phụ nữ chết do bạo lực thể xác hay bạo lực tinh thần trong
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
gia đình.Trong tài liệu công bố tại hội nghị Châu Âu lần thứ nhất về phòng
chống thương tích và nâng cao an toàn tại Viên, Áo từ ngày 25-27/6/2000
cũng đưa ra những số liệu đáng quan tâm về nạn bạo lực gia đình: bạo lực
giữa các đôi lứa chiếm 40%-70%, án mạng ỏ phụ nữ, cứ 4 phụ nữ thì có 1
phụ nữ đã từng bị bạo lực tình dục (tỉ lệ này là 1/20 ở nam) trong cuộc đời,
4%-6% người già sống trong gia đình đã từng bị đối xử tệ.
Các số liệu cho thấy bạo lực gia đình thực sự là một vấn đề có tính

toàn cầu và đòi hỏi 1 cáh tiếp cận đa ngành để giải quyết triệt để.
1.2.2 Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam (2010)
1.2.2.1 Bạo lực thể xác do chồng gây ra
32% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã phải chịu bạo lực thể xác
trong đời và 6% đã từng trải qua bạo lực thể xác trong vòng 12 tháng trở lại
đây.
Hình 1.1 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây ra bạo lực thể xác chia theo độ
tuổi ở Việt Nam; 2010 (N = 4561)
[14; 14]
Có sự khác biệt giữa các khu vực và trình độ học vấn và với phụ nữ có
trình độ văn hóa thấp hơn thì tỷ lệ bị bạo lực thể xác cao hơn so với phụ nữ
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
có trình độ học vấn cao hơn và trong số những phụ nữ bị bạo lực cao hơn thì
mức độ nghiêm trọng của những hành vi bạo lực cũng cao hơn.
Trong số những phụ nữ đã từng mang thai, tỷ lệ bị bạo lực thể xác
trong ít nhất một lần mang thai là 5% và tỷ lệ bị bạo lực khi đang mang thai
cao nhất ở những phụ nữ chưa từng đến trường.
1.2.2.2 Bạo lực tình dục do chồng gây ra
Phụ nữ gặp khó khăn hơn khi tiết lộ những trải nghiệm bạo lực tình
dục so với những trải nghiệm bạo lực thể xác. Tương tự như vậy, việc nói về
bạo lực tình dục trong hôn nhân được xem như một chủ đề không phù hợp.
Tuy nhiên, trong các buổi phỏng vấn có 10% phụ nữ từng kết hôn cho biết
họ đã từng bị bạo lực tình dục trong đời và 4% trong 12 tháng qua. Đáng chú
ý là bạo lực tình dục hiện tại không thay đổi nhiều ở những nhóm tuổi khác
nhau (tới 50 tuổi) và trình độ học vấn của phụ nữ.
1.2.2.3 Bạo lực tinh thần và kinh tế do chồng gây ra
Bạo lực tinh thần và kinh tế cũng không kém phần quan trọng so với
bạo lực tình dục và thể xác và thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn bạo
lực tình dục và thể xác. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuộc khảo sát thì
khó có thể xác định những loại hình bạo lực này và câu hỏi đặt ra chỉ bao

phủ một số giới hạn các hành vi lạm dụng có thể xảy ra đối với phụ nữ. Tuy
vậy, kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ bị bạo lực tinh thần rất cao: 54% phụ nữ cho
biết đã phải chịu bạo lực tinh thần trong đời và 25% cho biết đã bị bạo lực
tinh thần trong 12 tháng qua. Tỷ lệ bị bạo lực về kinh tế trong đời là 9%.
1.2.2.4 Kết hợp bạo lực thể xác, tình dục và tinh thần do chồng gây ra
Tỷ lệ bạo lực thể xác và tình dục là chỉ tiêu quan trọng về bạo lực do
chồng gây ra và được sử dụng để so sánh quốc tế.
Tại Việt Nam cũng như nhiều nước khác phụ nữ cho biết bị bạo lực
tình dục cũng cho biết bị bạo lực thể xác. Tỷ lệ bạo lực tình dục hoặc thể xác
hoặc cả hai trong đời và hiện thời trên toàn quốc lần lượt là 34% và 9%.
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
Hình 1.2 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây bạo lực thể xác hoặc bạo lực
tình dục chia theo vùng Việt Nam; 2010 (N = 4561)
[14; 15]
Tỷ lệ bạo lực trong cuộc đời khác nhau theo vùng và giữa các nhóm
dân tộc và thay đổi từ 8% đến 38%.
Hình 1.3 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây bạo lực thể xác và tình dục
chia theo nhóm dân tộc Việt Nam; 2010 (N = 4561)
[14; 15]
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
Khi kết hợp ba loại bạo lực chính: thể xác, tình dục và tinh thần do
chồng gây ra đã có hơn nửa phụ nữ (58%) trả lời từng bị ít nhất một trong ba
loại bạo lực này trong cuộc đời. Tỷ lệ này trong 12 tháng qua là 27%. Có sự
liên hệ chặt chẽ giữa ba loại bạo lực và đánh giá sự đan xen chỉ ra rằng luôn
có một phụ nữ vừa bị bạo lực tình dục hoặc thể xác vừa bị lạm dụng tinh
thần.
Hình 1.4 Bạo lực chồng chất trong đời , bạo lực thể xác, bạo lực
tình dục và bạo lực tinh thần do người chồng gây ra đối với phụ nữ đã
lập gia đình ở Việt Nam; 2010 (N = 4561)
[14; 17]

CHƯƠNG II
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149
Chỉ thể
xác 3,6%
Tình dục
+ thể xác
0,1%
Chỉ tình
dục 0,9%
Tình dục +
tinh thần 2,5%
Thể xác + tình dục +
tinh thần 6,8%
Chỉ bạo lực
tinh thần
23,5%
Thể xác +
tinh thần
20,1%
THỰC TRẠNG PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI XÃ NGỌC
QUAN – ĐOAN HÙNG – PHÚ THỌ
2.1 Khái quát về địa bàn xã Ngọc Quan - Đoan Hùng - Phú Thọ
2.1.1 Lịch sử hình thành xã Ngọc Quan
Ngọc Quan là xã nằm ở phía Tây của huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú
Thọ.Trải qua các thời kì lịch sử, địa danh tỉnh, huyện cũng như xã Ngọc
Quan có nhiều thay đổi.Thời Vua Hùng dựng nước xã Ngọc Quan thuộc bộ
Văn Lang, bộ chủ của nhà nước Văn Lang- nhà nước đầu tiên của dân tộc
Việt. Đời nhà Trần xã Ngọc Quan thuộc huyện Tây Lan châu Tuyên Quang,
lộ Tam Giang. Đến thời nhà Lê, nhà Nguyễn, xã Ngọc Quan thuộc huyện
Ngọc Quan, phủ Đoan Hùng, lộ Thao Giang, trấn Sơn Tây.Khi thực dân

Pháp xâm lược nước ta, chính quyền đô hộ thực hiện chính sách “ cai để trị”
tiếp tục chia cắt và điều chỉnh lộ giới một số xã, huyện trong tỉnh.Ngày
8/9/1891, tỉnh Hưng Hoá được thành lập, Ngọc Quan thuộc phủ Đoan Hùng,
tỉnh Hưng Hoá.Ngày 5/5/1903 tỉnh Hưng Hoá đổi tên thành tỉnh Phú Thọ
gồm phủ Đoan Hùng, các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Sơn Vi (Lâm
Thao), Thanh Ba, Hạ Hoà, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạc Trì và hai châu Thanh
Sơn, Yên Lập, xã Ngọc Quan lúc đó thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú
Thọ.Cách mạng tháng 8 thành công, nước ta quyết định xoá bỏ cấp tổng,
phủ, châu, mở rộng phạm vi cấp xã và thay tên gọi làng bằng thôn.Ngọc
Quan nằm trong liên xã Tây Sơn gồm các xã Tây Quan, Ngọc Lũ, Tây Côc,
Ca Đình, Yên Kiện.Thời kì này Ngọc Quan có 9 làng: Làng Cả, làng Chanh,
làng Da, làng Ngọc Lũ, làng Đẫu, làng Mây.Tháng 10/1953, do địa bàn của xã
Tây Sơn quá rộng, công tác quản lí và chỉ đạo gặp khó khăn, cấp trên cho tách
xã Tây Sơn thành 3 xã: Yên Kiện, Tây Sơn và Thăng Long, Ngọc Quan lúc đó
mang tên xã Tây Sơn.Tháng 8/1964 xã Tây Sơn được đổi thành xã Ngọc
Quan cho tới nay.Ngày 26/11/1968 Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định sát
nhập hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú, xã Ngọc Quan
thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Vĩnh Phú.Tháng 7/1977, hội đồng chính phủ
SVTH: Vũ Thị Thảo – MSSV 5709149

×