Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần may trường giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.67 KB, 99 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, Toàn cầu hoá và thương mại hoá nền kinh tế đang diễn ra với tốc
độ ngày càng cao trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế như thuơng mại, tổ chức sản
xuất và đầu tư trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, Việt Nam cũng như nhiều nước
khác, đều cố gắng hoà nhịp với dòng chảy chung của thế giới. Nhu cầu phát triển
kinh tế, xây dựng đất nước không cho phép chúng ta đứng ngoài xu thế, cuộc
chơi chung của nhân loại. Biểu hiện tích cực mới đây nhất thể hiện sự chủ
động hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới là việc chúng ta chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Việc gia nhập
WTO đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành may mặc nói riêng
rất nhiều cơ hội và thách thức. Những cơ hội về thị trường, dỡ bỏ hạn ngạch, khả
năng tiếp cận vốn và công nghệ hiện đại sẽ luôn đi kèm với những thách thức về
cạnh tranh gay gắt và nguy cơ đánh mất thị phần ngay trên sân nhà. Trước bối
cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, yếu tố quyết định đến thành
công hay thất bại của ngành may mặc chính là năng lực cạnh tranh thực sự của
ngành. Mỗi doanh nghiệp để đảm bảo cho sự tồn tại của mình đã đưa ra những
chiến lược cạnh tranh táo bạo nhằm không ngừng tăng cường khả năng cạnh
tranh cho mình. Mặt khác, các doanh nghiệp không bao giờ tự thỏa mãn với thị
trường chiếm lĩnh được nên luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Chỉ
bằng cách phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành công nghiệp
may mặc Việt Nam mới có thể đứng vững trên đôi chân của mình, đón nhận
những cơ hội và hạn chế những thách thức do quá trình hội nhập mang lại.
Hoà đồng với xu hướng chung này, Công ty Cổ phần may Trường Giang
với hơn 30 năm tồn tại và phát triển mặc dù đã trải qua gian nan vất vả nhưng đã
thu được nhiều thắng lợi bằng nhiều biện pháp khác nhau, công ty đã từng bước
tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, sản phẩm
của công ty được người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là công ty đã tự hài lòng với thắng lợi của mình. Vì trong tương lai thắng lợi đó
1
luôn luôn bị đe doạ. Các đơn vị may mặc cả trong và ngoài nước luôn tìm mọi


cách để cạnh tranh với Trường Giang và mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt hơn. Do đó việc việc nâng cao năng lưc cạnh tranh của công ty là một tất
yếu.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng của ngành công nghiệp
may mặc đối với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta
đã là thành viên của WTO, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế trong thời gian
thực tập tại Công ty Cổ phần may Trường Giang tôi đã chọn đề tài: “Một số giải
pháp nhm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần may Trường
Giang” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của công ty trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phân tích và đánh giá thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
công ty, qua đó tìm hiểu được mức độ ảnh hưởng của môi trường đến sự tồn tại
và phát triển của công ty. Tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và
đe doạ của nó trong khả năng cạnh tranh của công ty.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Công ty Cổ phần may Trường
Giang, Quảng Nam.
- Về thời gian: Được nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2014.
4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Đề tài sẽ trình bày những lý luận cơ bản về cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh, nghiên cứu thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh
2
tranh của Công ty Cổ phần may Trường Giang và đề ra một số giải pháp nhằm

nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập thông tin: Tiến hành thu thập số liệu và thông tin
cần thiết thông qua sổ sách, chứng từ, tư liệu… từ các phòng kế toán, phòng kế
hoạch, phòng nhân sự tại công ty. Phương pháp tìm kiếm thông tin trên sách báo,
Internet…
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, đánh giá
và rút ra nhận xét.
5. Đóng góp của đề tài
Giúp hệ thống hóa các kiến thức về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
Những nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cùng với các nhà quản trị của
công ty đề xuất những phương án khả thi để nâng cao năng lực cạnh tranh tại
doanh nghiệp. Từ đó, đảm bảo cho May Trường Giang luôn có được những công
cụ cạnh tranh vững chắc để tạo nên thương hiệu “May Trường Giang” ngày càng
vững mạnh hơn trong thời gian tới.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài cũng tạo điều kiện cho bản thân được trao
dồi kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng về viết báo cáo, khóa luận… làm nên nền
tảng cho những nghiên cứu sau này.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung kết cấu báo cáo gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Chương 2: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ phần may
Trường Giang.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công
ty cổ phần may Trường Giang.

B. PHẦN NỘI DUNG
3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ CẠNH TRANH VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1. Cơ sở khoa học về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều
lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao,
thường xuyên được nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng
như các phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối
tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về
cạnh tranh, cụ thể như sau:
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành
động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục
đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh,
các phần thưởng hay những thứ khác.
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất
với người tiêu dùng như: Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn
mua rẻ, giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, giữa những
người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận
trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả
giá cả có thể giảm đi. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một
doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành.
4

Vậy Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá
thể có chung một môi trường sống khi cùng quan tâm tới một đối tượng nào đó.
Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà
sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn trong sản xuất,
tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh
tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra giữa
người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa với
giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh mang lại
nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để
làm ra sản phẩm có chất lượng hơn đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ
tri thức khoa học, công nghệ cao hơn Để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách
hàng. Cạnh tranh làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt
tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật áp dụng những
tiến bộ, những nghiên cứu mới nhất vào sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức
sản xuất, quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
1.1.1.2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh hầu như
không tồn tại giữa các doanh nghiệp. Tại thời điểm này, các doanh nghiệp hầu
như được Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả
khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước.
Vì vậy, vô hình dung Nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh doanh, một thói
quen trì trệ và ỷ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có
khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực
cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn. Từ khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có
vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người
tiêu dùng cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
5
a. Đối với nền kinh tế quốc dân

Đối với nền kinh tế, cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực của
sự phát triển nói chung mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ
xã hội, là điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Ngoài ra,
cạnh tranh còn góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự
xuất hiện của những sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người
ngày càng được nâng cao về mọi mặt. Bên cạnh đó, cạnh tranh cũng góp phần
thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, bảo đảm sự phân công lao động xã
hội ngày càng sâu và rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh
tranh đem lại thì nó vẫn mang lại những hậu quả tiêu cực như cạnh tranh không
lành mạnh tạo sự phân hoá giàu nghèo, dẫn đến những mối làm ăn vi phạm pháp
luật như trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém phẩm chất, kinh
doanh trái phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
b. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động
kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng
vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh
tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh
để giành lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng, làm cho
khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị
hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ
kèm theo với mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và
phát triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác Marketing bắt
đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? Sản xuất như thế
nào? Và sản xuất cho ai? Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định được
nhu cầu thị trường và chỉ bán những gì mà thị trường cần chứ không bán những
gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản
phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy, các
6

doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình
SXKD, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân,
cử các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ
tạo cho doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường, tăng thêm uy tín cho
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng SXKD, tái sản xuất xã hội,
tạo đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.
c. Đối với ngành
Hiện nay, đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành dệt may nói riêng
cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển. Cạnh tranh bình
đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà vững chắc cho mọi ngành nghề phát triển.
Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác
lợi thế và điểm mạnh của ngành.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô hoạt
động lớn hay nhỏ, dù hoạt động đó ở tầm vĩ mô hay vi mô thì không thể thiếu sự
có mặt và vai trò quan trọng của yếu tố cạnh tranh.
d. Đối với sản phẩm
Nhờ có cạnh tranh, sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về chất
lượng, phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và kích cỡ, tăng thêm lợi ích
cho người tiêu dùng. Nhờ có cạnh tranh các doanh nghiệp sẽ không ngừng cải
tiến những sản phẩm cũ, thiết kế ra những sản phẩm mới để đáp ứng những nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng không chỉ trong nước mà còn cung cấp cho thị
trường quốc tế.
Như vậy, ta có thể thấy rằng cạnh tranh không thiếu sót ở bất cứ lĩnh vực
nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ tạo ra những nhà doanh nghiệp giỏi
và đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã
hội. Do đó, cạnh tranh là một yếu tố rất cần có sự hỗ trợ và quản lý của Nhà nước
để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển theo đúng quy luật vận động của kinh tế thị trường.
1.1.1.3. Các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh được phân loại theo các căn cứ khác nhau:

7
a. Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình. Người
bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận còn người mua muốn mua
với giá thấp nhất nhưng chất lượng vẫn đảm bảo và mức giá cuối cùng vẫn là
mức giá thoả thuận giữa hai bên.
Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở
quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này hàng
hoá trên thị trường sẽ khan hiếm, để đạt được nhu cầu mong muốn người mua
sẵn sàng mua với mức giá cao hơn, do vậy mức độ cạnh tranh diễn ra gay gắt
hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả hàng hoá tăng lên, những người bán
sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi những người mua bị thiệt thòi cả về giá cả và
chất lượng. Nhưng trường hợp này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và
xảy ra ở một số nơi khi diễn ra hoạt động bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh gay go
và quyết liệt nhất khi trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn sức cầu. Nó
có ý nghĩa sống còn đối với các chủ doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa những người
bán điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi cung một hàng hoá nào đó
lớn hơn cầu thì cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả hàng hoá đó
giảm xuống, chỉ những doanh nghiệp nào đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang
bị kỹ thuật, phương thức quản lý và giá thành sản phẩm mới có thể tồn tại. Kết
quả để đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là tăng
lợi nhuận, tăng doanh số và thị phần. Trong nền kinh tế thị trường, việc cạnh
tranh là hiện tượng tất yếu không thể tránh khỏi đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Thực tế cho thấy cạnh tranh giữa những người bán với nhau sẽ đem lại lợi ích
cho người mua và trong quá trình ấy những doanh nghiệp nào không có chiến
lược cạnh tranh thích hợp sẽ bị gạt ra khỏi thị trường và đi đến phá sản nhưng
cũng sẽ có những doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ nắm chắc “Vũ khí”
cạnh tranh và dám chấp nhận “Luật chơi” phát triển.


8
b. Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình thức đơn giản
của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không đủ lớn để tác
động đến giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị trường này chỉ có
cách thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị trường được tự do hình
thành, giá cả do thị trường quyết định.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh phổ
biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi phối
được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại, các dịch
vụ trước, trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà
phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn
hiệu và đặc tính riêng biệt, dù xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản
phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Loại hình
cạnh tranh không hoàn hảo hiện nay rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ thể có
ảnh hưởng lớn có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản phẩm với
giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả thị trường. Có 2 loại
cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền mua. Độc quyền bán tức
là trên thị trường có rất ít người bán và nhiều người mua, lúc này người bán có
thể tăng giá hoặc ép giá khách hàng nếu họ muốn lợi nhuận thu được là tối đa.
Còn độc quyền mua tức là trên thị trường có ít người mua và nhiều người bán,
khi đó khách hàng được coi là “Thượng đế”, được chăm sóc tận tình và chu đáo
nếu không những người bán sẽ không thể lôi kéo được khách hàng về phía mình.
Trong thực tế sẽ có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay
thế sản phẩm độc quyền hoặc khi các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền
gây trở ngại cho sự phát triển và làm thiệt hại đến người tiêu dùng. Vì vậy, hiện
nay ở một số nước đã có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên minh độc
quyền giữa các nhà kinh doanh.

Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số ngành
sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất, lúc này cạnh tranh sẽ xảy ra
9
giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp phải
nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số lượng
mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường. Một sự thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng
đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Những doanh
nghiệp tham gia thị trường này là những doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh,
vốn đầu tư lớn. Do vậy, việc thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh
thường là rất khó.
c. Căn cứ vào phạm vi kinh tế
Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một loại sản phẩm. Trong cuộc cạnh
tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp
để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm
chi phí cá biệt của hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả là
trình độ sản xuất ngày càng phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng sẽ bị
thu hẹp hoạt động thậm chí còn có thể bị phá sản.
Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế khác
nhau nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Như vậy giữa các ngành kinh tế do điều
kiện kỹ thuật và các điều kiện khác như môi trường kinh doanh, thu nhập, nhu
cầu, thị hiếu của khách hàng… nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có
thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ngành khác. Điều đó dẫn đến tình
trạng nhiều người SXKD ở những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng
chuyển dịch sang những ngành thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Kết quả là
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút ngày càng nhiều đối thủ tham
gia vào ngành này dẫn đến cung vượt quá cầu làm cho giá cả hàng hoá có xu
hướng giảm xuống, làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Ngược lại, những ngành có tỷ
suất lợi nhuận thấp khiến cho một số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh vực

khác làm cho quy mô sản xuất của ngành này giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn cầu,
kết quả là giá cả hàng hoá tăng và tăng tỷ suất lợi nhuận.
10
1.1.1.4. Các công cụ cạnh tranh
Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là tập hợp các yếu tố, các
kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh nghiệp sử
dụng nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thỏa
mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu lại
lợi nhuận cao. Nghiên cứu các công cụ cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp lựa
chọn những công cụ cạnh tranh phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh
doanh và thị trường của doanh nghiệp. Từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng
công cụ, việc lựa chọn công cụ cạnh tranh có tính chất linh hoạt và phù hợp
không theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào. Dưới đây là một số công cụ cạnh
tranh tiêu biểu và quan trọng mà các doanh nghiệp thường dùng đến.
a. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm thể
hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định phù hợp với công
dụng của sản phẩm.
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan
trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là
mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng
khả năng trong thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, mức sống của người dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có
khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã
và sẽ có xu hướng vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều
kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở
nhiều mặt khác nhau tính cơ lý hoá đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng
màu sắc hấp dẫn. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, tuy nhiên vấn đề đặt ra là
doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng sản

phẩm. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng
lợi trong cạnh tranh, nói một cách khác chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn
11
đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn được đảm bảo, không thoả mãn
nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
tăng khả năng cạnh tranh thể hiện trên các giác độ.
Chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng tăng đựơc khối
lượng hàng hoá tiêu thụ, tăng uy tín sản phẩm mở rộng thị trường, từ đó tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp đã
đề ra. Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở hiện
tại và cả tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết. Nâng cao
chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay đổi công nghệ
chế tạo, đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau khi tiêu
dùng. Hay nói cách khác, nâng cao chất lượng sản phẩm là việc cải tiến sản phẩm
để tạo ra những sản phẩm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
dùng. Điều này làm cho khách hàng cảm nhận lợi ích mà họ thu được ngày càng
tăng lên khi duy trì tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Điều đó sẽ làm tăng
lòng tin và sự trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp. Do vậy, cạnh
tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng và cần thiết.
b. Cạnh tranh bằng giá cả
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung
ứng hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của
giá trị hao phí lao động sống và lao động vật hoá để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường có sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khách hàng được tôn vinh là “Thượng đế”, họ
có quyền lựa chọn những gì họ cho là tốt nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với
chất lượng tương đương nhau thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn để

lợi ích họ thu được từ sản phẩm là tối ưu nhất. Do vậy mà từ lâu giá cả đã trở
thành một biến số chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp
thành công trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự khéo léo, tinh tế
12
chiến thuật giá cả. Giá cả thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc
định giá sản phẩm:
Định giá ngang bằng với giá thị trường: Giúp doanh nghiệp đánh giá được
khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá mà chất lượng sản
phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh
cao và lợi sẽ thu được nhiều hơn.
Định giá thấp hơn mức giá thị trường: Chính sách này được áp dụng khi
cơ sở sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu hồi vốn và lời nhanh.
Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng chính sách định giá thấp. Họ
chấp nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để sau này chiếm được cả
thị trường rộng lớn với khả năng tiêu thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp doanh
nghiệp ngay từ đầu có một chỗ đứng nhất định để định vị vị trí của mình từ đó
thâu tóm khách hàng và mở rộng thị trường.
Định giá cao hơn giá thị trường: Là ấn định giá bán sản phẩm cao hơn giá
bán sản phẩm cùng loại trên thị trường hiện tại khi lần đầu tiên người tiêu dùng
chưa biết chất lượng của sản phẩm ấy. Đó chính là đánh vào tâm lý của người
tiêu dùng rằng những hàng hoá giá cao thì có chất lượng cao hơn các hàng hoá
khác. Doanh nghiệp thường áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị trường lớn
hơn cung hoặc khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc đối
với những mặt hàng cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và thành
công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kĩ lưỡng xem
mình đang ở tình thế nào (thuận lợi hay không thuận lợi) nhất là phải nghiên cứu
xu hướng tiêu dùng và tâm lý của khách hàng đồng thời phải xem xét các chính
sách giá mà đối thủ đang sử dụng.
c. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối

Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực
bởi nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng. Để hoạt động
tiêu thụ của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt thì doanh nghiệp cần phải lựa
chọn các kênh phân phối hợp lý, thường xuyên nghiên cứu thị trường để nắm bắt
13
được nhanh chóng và kịp thời các nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối
sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Kênh phân phối là con đường mà hàng hóa được lưu thông từ nhà sản xuất
đến người tiêu dùng. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được
những khác biệt về thời gian và địa điểm giữa người sản xuất với người tiêu dùng
các hàng hóa, dịch vụ. Về lý thuyết có hai loại kênh phân phối cơ bản là:
Kênh trực tiếp: Là loại kênh phân phối trong đó hàng hóa được chuyển đưa
thẳng từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Kênh gián tiếp: Là loại kênh trong đó có sự tham gia của các trung gian.
Tùy theo từng loại mặt hàng kinh doanh, tùy theo vị trí đị lý, tùy theo nhu
cầu của người tiêu dùng và người bán, tùy theo quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp mà sử dụng các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý.
d. Cạnh tranh bằng các chính sách xúc tiến bán hàng
Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng doanh nghiệp có thể tiến hành
một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng, tổ
chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế Ngày nay, nghệ
thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí quyết định đến
sự sống còn của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi vì nó tác động đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh sau:
Tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự quan tâm của
khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp.
Cải thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường (thương hiệu, chữ
tín của doanh nghiệp).
Mở rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với các

chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả.
1.1.1.5. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, ở đâu có nền
kinh tế thị trường thì ở đó có kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp mình
14
tồn tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do
tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày
càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người được nâng lên. Con người
không chỉ cần có nhu cầu “Ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “Ăn
ngon mặc đẹp”. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng
điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp nào
bắt kịp thời và đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính
vì vậy cạnh tranh là rất cần thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:
Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh
doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Làm cho
khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp nhất
với thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền
kinh tế thị trường hiện nay.
Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển: Ngày nay trong kinh tế
thị trường, cạnh tranh là điều kiện và là một trong yếu tố kích thích kinh doanh.
Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, sản xuất hàng hóa
ngày càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra nhiều, số lượng người cung ứng ngày
càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cạnh tranh là loại bỏ những công ty
kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và ngược lại thúc đẩy những công ty
làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại thì doanh nghiệp phải
cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng
tốt nhu cầu khách hàng.
Doanh ngiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu: Bất kỳ một doanh

nghiêp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều có những
mục tiêu nhất định. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp đặc ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong giai đoạn đầu
khi mới thực hiện kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là muốn khai thác
thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai đoạn này
doanh nghiệp thu hút càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn giai đoạn trưởng
15
thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận và giảm chi phí. Giai đoạn gần như bảo hòa thì mục tiêu của doanh nghiệp
chủ yếu là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách là thực hiện trách
nhiệm đối với nhà nước, đối với công cộng, củng cố lại niềm tin của khách hàng
đối với doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh tranh,
chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện
pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng ngững
dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách ngày càng tăng. Chỉ
có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Trong giai đoạn nền kinh tế thế giới hội nhập, năng lực cạnh tranh đựoc coi
là một nền tảng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc gia
cũng như các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là tập hợp các
thể chế, chính sách và các yếu tố tác động đến năng suất lao động của quốc gia
đó, nhân tố đảm bảo thu nhập, sự phát triển bền vững của quốc gia và là nhân
tố cơ bản xác định tăng trưởng ổn định và lâu dài của nền kinh tế. Tồn tại khá
nhiều quan điểm về năng lực cạnh tranh:
Theo quan điểm cổ điển: “Khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm thể
hiện qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, sự dồi dào và phong phú của các yếu
tố đầu vào và năng suất lao động để tạo ra sản phẩm đó. Các yếu tố chi phí sản
xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh”.
Theo quan điểm tổng hợp thì “Năng lực cạnh tranh là khả năng tạo ra,

duy trì lợi nhuận và thị phần trong và ngoài nước. Các chỉ số đánh giá năng suất
lao đông, tổng năng suất của các yếu tố về sản xuất, công nghệ về sản xuất, sự
vượt trội về công nghệ, năng suất lao động, sự dồi đào về nguyên vật liệu đầu
vào…”.
Theo quan điểm Alan V.Deardorff: “Năng lực cạnh tranh thường dùng để
nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách hiệu quả với các
hãng khác về chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ trong so sánh quốc tế”.
16
1.1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, có một số chỉ tiêu:
a. Thị phần
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác, trong thị phần là một chỉ tiêu
thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là thị trường mà doanh nghiệp
chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó, thị phần của doanh nghiệp
được xác định
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng doanh thu toàn ngành

Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp
càng rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức hoạt
động của doanh nghiệp có hiểu quả hay không bởi doanh nghiệp có một mảng thị
trường lớn thì chỉ số đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu
tiên thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì
chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi đối
thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả
năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
b. Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả SXKD và

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi thông qua năng suất lao động ta có thể
đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ khoa học công nghệ
của doanh nghiệp.
c. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng
vào hoạt động SXKD. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao
chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp.
Căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận doanh nghiệp có thể đánh giá được khả
17
năng cạnh tranh của mình so với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp cao, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và ngược lại.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Tổng lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận =
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng
của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, doanh nghiệp
kinh doanh chưa hiệu quả. Đồng thời chỉ tiêu này cũng nói lên rằng đã có quá
nhiều đối thủ thâm nhập vào thị trường này, do đó doanh nghiệp phải không
ngừng mở rộng thị trường để nâng cao sức cạnh tranh. Nếu chỉ tiêu này cao tức
là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng doanh thu, doanh nghiệp kinh doanh
có hiệu quả, chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp
cần phát huy lợi thế của mình một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ
cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do
sức hút lợi nhuận cao.
1.1.2.3. Các nhân tố môi trường ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
a. Môi trường bên trong
Các nhân tố môi trường bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến

kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty bởi vậy mà nó
được coi là các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của công ty.
Khả năng tài chính: Vốn là điều kiện vật chất cần thiết cho mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Bất cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối đều phải
xem xét đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực
lớn về tài chính sẽ rất thuận lợi cho việc huy động vốn đầu tư, mua sắm MMTB
và đổi mới công nghệ cũng như có điều kiện đãi ngộ và đào tạo nhân sự. Những
thuận lợi đó sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên môn, tay
nghề cho CBCNV, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí, nâng cao sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
18
Nếu doanh nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có điều kiện mua
sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh toán,
khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao cho khách hàng, từ đó hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả và doanh nghiệp dễ dẫn
đến nguy cơ phá sản. Như vậy, khả năng tài chính là yếu tố quan trọng đầu tiên
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nguồn lực vật chất kỹ thuật: Nguồn lực vật chất kỹ thuật phản ánh thực lực
của doanh nghiệp đối với đối thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận
dụng và khai thác trong quá trình hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Nguồn lực vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị, máy móc, công nghệ
hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được đảm bảo về chất
lượng.
Hệ thống MMTB hiện đại sẽ đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá, giúp
cho khả năng thu hồi vốn được diễn ra nhanh hơn, giảm bớt các sản phẩm sai
hỏng từ đó góp phần hạ giá thành sản phẩm. Ngày nay do tác động của cuộc cách
mạng KHCN, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh
về trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành mà còn có thể xác lập tiêu

chuẩn mới cho từng ngành. Mặt khác, khi việc bảo vệ môi trường đang trở thành
vấn đề toàn cầu như hiện nay thì những doanh nghiệp nào có trình độ công nghệ
cao, MMTB hiện đại nhất định sẽ giành được ưu thế trong cạnh tranh.
Nguồn nhân lực: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của mọi
hoạt động kinh doanh. Bởi vậy, doanh nghiệp phải chú ý đến việc sử dụng con
người, phát triển nhân sự, xây dựng môi trường văn hoá tổ chức, có chính sách
đào tạo và đãi ngộ lao động hợp lý. Đồng thời doanh nghiệp phải quan tâm đến
các chỉ tiêu rất cơ bản như số lượng lao động, trình độ tay nghề, năng suất lao
động, thu nhập bình quân, năng lực của cán bộ quản lý…
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất của
doanh nghiệp bởi chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng tạo ra sản
19
phẩm, chỉ có con người mới biết và khơi dậy được nhu cầu của khách hàng, mới
tạo được uy tín và hình ảnh cho doanh nghiệp mà tất cả những yếu tố này hình
thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người, từ những người
lao động đến nhà quản trị cấp cao nhất bởi mỗi người đều có một vai trò quan
trọng trong sự phát triển chung của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi, tài
tình và sáng suốt thì ở đó công nhân viên rất yên tâm để cống hiến hết mình, họ
luôn có cảm giác là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát triển, trách
nhiệm và quyền lợi của họ được bảo đảm, được nâng đỡ và phát huy. Và doanh
nghiệp nào có nhân viên nhiệt tình, sáng tạo, có trách nhiệm cao thì doanh nghiệp
đó phát triển vững chắc bởi những quyết định mà ban lãnh đạo đưa ra được thực
hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì
những người trong doanh nghiệp phải có ý thức và trách nhiệm về công việc của
mình. Muốn vậy khâu tuyển dụng, đào tạo và chính sách đãi ngộ nhân sự phải
được quan tâm đúng mức, phải có kế hoạch và chiến lược một cách cụ thể và
khoa học.
Uy tín của công ty

Uy tín là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng, nhiều
đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng trung thành với doanh nghiệp.
Mục tiêu của các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần, lợi nhuận… Nhưng để đạt
được các mục tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín trên thị trường, tạo vị
thế cao trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của
doanh nghiệp là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đủ lớn đảm bảo để duy trì
và phát triển hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên
uy tín của doanh nghiệp đó là “Con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp
đó phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ
20
nhân viên giỏi về tay nghề và kỹ năng làm việc, có tinh thần trách nhiệm và nhiệt
tình trong công việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh có vai trò to lớn trong quá trình tổ chức quản lý sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh
doanh hàng năm, hoạch định nguồn nhân lực, định hướng chiến lược phát triển,
mở rộng các nguồn lực và các chính sách kinh doanh.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đã vạch ra hướng đi cụ thể trong
một thời gian dài theo những trật tự hoạt động nhất định nhằm ổn định sự mở
rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà quản lý dựa
vào chiến lược mà thực hiện những điều chỉnh và cải cách nhất định trong hoạt
động nhằm đạt được những hiệu quả cao trong kinh doanh và nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Môi trường bên ngoài
Các nhân tố môi trường bên ngoài doanh nghiệp có liên quan và ảnh hưởng
đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp. Các nhân tố môi
trường bên ngoài bao gồm:
Môi trường vĩ mô

Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng
thể các nhân tố cơ bản: Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhân tố xã
hội, nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi nhân tố này tác động và chi phối
mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ
hội hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am
hiểu về các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù hợp đối với những đòi
hỏi những biến động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế
thì vấn đề này cần được coi trọng.
Môi trường kinh tế
21
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan
trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Một nền kinh tế tăng
trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng
nghĩa với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc độ tích luỹ vốn
đầu tư trong nền kinh tế cũng tăng lên, mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ
tăng lên cao, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng
đây chính là cơ hội tốt cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự
hoàn thiện mình, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng
chính là thách thức đối với những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng,
không có chiến lược hợp lý. Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các
doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong
nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt động ở thị trường nội địa hay thị trường
nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế bị suy thoái, bất ổn định, tâm lý người
dân hoang mang, sức mua của người dân giảm sút, các doanh nghiệp phải giảm
sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm
theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại càng trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối
đoái cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.

Môi trường văn hóa - xã hội
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên
đôi khi khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà bất cứ
doanh nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có
muốn sống hay không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm: Lối sống, phong tục, tập
quán, thái độ tiêu dùng, trình độ dân trí, ngôn ngữ, tôn giáo…
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản
phẩm, dịch vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu
muốn tồn tại trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng
đề cao sản phẩm nội địa như Ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ
kém khả năng cạnh tranh so với các doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt
về xã hội sẽ dẫn đến việc liệu sản phẩm của doanh nghiệp khi xuất sang thị
22
trường nước ngoài đó có được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc
liệu doanh nghiệp đó có đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu của thị trường mới
hay không. Vì vậy các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã
hội tại thị trường mới cũng như thị trường truyền thống để từ đó tiến hành phân
đoạn thị trường, đưa ra được những giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất
yêu cầu của thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Môi trường chính trị - pháp luật
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh
nghiệp nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và
pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong
nước hay nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định,
phát triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp
đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ
thống pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính
trị ổn định là môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh

nghiệp. Đặc biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu
chịu ảnh hưởng của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế
Các doanh nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa
các quốc gia. Sự khác biệt này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp những điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính
sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp
cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi
trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân,
tổ chức trong nền kinh tế.
Môi trường nhân khẩu học
Phân đoạn nhân khẩu học của môi trường vĩ mô liên quan đến dân số, cấu
trúc tuổi, phân bố địa lý, cộng đồng các dân tộc và phân phối thu nhập. Chẳng
23
hạn, cấu trúc trúc tuổi già đi ở các nước phát triển do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ
có khuynh hướng tăng. Cho thấy các cơ hội của các dịch vụ chăm sóc người già,
các dịch vụ bảo hiểm. Nhưng cũng tiềm ẩn một đe dọa với các doanh nghiệp về
vấn đề nguồn lao động. Đối với những nước đang phát triển cơ cấu dân số trẻ, là
cơ hội để các doanh nghiệp tìm đến nguồn lao động trẻ. Song sự tăng dân số
nhanh chóng mặt đang làm xói mòn khả năng phát triển bền vững ở các quốc gia
này.
Sự thay đổi kết cấu dân số là một nhân tố của môi trường kinh tế vĩ mô mà
nó cũng có thể tạo ra các cơ hội lẫn đe dọa.
Môi trường kỹ thuật – công nghệ
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được
sản xuất ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất
đó sẽ quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của
từng doanh nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một

cách chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát
thông tin một cách chính xác, đầy đủ nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ
cạnh tranh. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường
doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Môi trường toàn cầu
Khi phân tích môi trường toàn cầu cần chú ý đến các vấn đề: Các thị trường
toàn cầu có liên quan, các thị trường hiên tại đang thay đổi, các sự kiện chính trị
quốc tế quan trọng, các đặc tính thể chế và văn hóa cơ bản trên thị trường toàn
cầu,… Toàn cầu hóa các thị trường kinh doanh tạo ra cơ hội lẫn đe dọa cho các
doanh nghiệp. Ngoài ra, cần nhận thức về các đặc tính khác biệt văn hóa xã hội
và thể chế của các thị trường toàn cầu.
24
Môi trường tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung
tâm công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành
nghề hay các trục đường giao thông quan trọng sẽ tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp phát triển, giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng
lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với
các nguồn lực có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đổi
quyết định và các biện pháp hoạt động liên quan.
Môi trường vi mô
Nhà cung cấp: Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan
trọng, nó đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn
định theo kế hoạch đã định trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân
thành ba loại chủ yếu: Loại cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu, cung cấp nhân
công, cung cấp tiền và các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi doanh

nghiệp cùng một lúc có quan hệ với nhiều nguồn cung cấp phải đầy đủ về số
lượng, kịp thời về thời gian, đảm bảo về chất lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự
sai lệch trong quan hệ trong với nhà cung cấp đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, điều đó làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía nhà cung cấp, các doanh nghiệp
phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với phương
châm là đa dạng hóa các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “Không bỏ tiền
vào một ống”. Mặt khác trong quan hệ này, doanh nghiệp nên tìm cho mình một
nhà cung cấp chính có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc, cần
phải xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy, doanh nghiệp cần phải
thiết lập mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp để họ cung cấp đầy đủ về số
lượng.
Khách hàng: Khách hàng là người đang mua và sẽ mua hàng của doanh
nghiệp. Đối với doanh ngiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết định của
25

×