Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.94 KB, 112 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Đóng góp của đề tài 2
6. Cấu trúc của chuyên đề 3
Trong nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến những
khái niệm khác nhau về ngân hàng: 5
- Theo Peter Rose trong cuốn “ Quản trị ngân hàng thương mại” thì:
“Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ than toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế” 5
- Theo từ điển tài chính ngân hàng thì: “NHTM là tổ chức chịu sự điều
tiết về luật lệ của một nước hoặc pháp luật của một nước và thuộc sở hữu
của các cổ đông. Ngân hàng có nhiệm vụ thu nhận tiền gửi, cấp tín dụng và
một số loại dịch vụ tài chính khác” 5
- Theo từ văn bản pháp luật gần đây nhất của Chính phủ Việt Nam:
Điều 20 Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “NHTM
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước”. 6
Như vậy có thể hiểu NHTM là tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt
động kinh doanh tiền tệ với hoạt động chính là nhận tiền gửi, sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và cung cấp các
dịch vụ ngân hàng khác như: bảo lãnh, bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, bảo
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
quản vật có giá, môi giới chứng khoán, uỷ thác và tư vấn đầu tư, quản lý


ngân quỹ… Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, các hoạt động của ngân
hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, NHTM trở thành một
định chế tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. 6
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các
NHTM trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt,
không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng
hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật
khách hàng (KH), tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. 6
Đối với các NHTM, cạnh tranh là sự tranh đua giữa các ngân hàng
thông qua rất nhiều phương thức, yếu tố, hành động để giành phần thắng
trên thị trường trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, xây dựng
uy tín, thương hiệu…nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận cao nhất cho ngân
hàng. 6
Các NHTM cạnh tranh với nhau trong tất cả các hoạt động: huy động
vốn, cho vay, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Và đối thủ cạnh tranh của một
NHTM là tất cả các tổ chức kinh tế cung cấp sản phẩm dịch vụ giống với
ngân hàng, chủ yếu là các NHTM, tổ chức tín dụng khác và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng. 6
1.2.2 Đặc trưng cạnh tranh giữa các NHTM 6
- Đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các
đối thủ cạnh tranh có số lượng giới hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số
lượng này là rất khó khăn và hạn chế, do việc cho phép một tổ chức được
tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân
thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với những điều kiện ngặt nghèo từ
phía nhà nước, nhằm tránh cho nền kinh tế và công chúng khỏi những tổn
thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch của các tổ chức
này mang lại và làm cho thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn. 6
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các nguyên tắc, luật lệ
thế giới: Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế giới theo một
quỹ đạo chung trên cơ sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh vực
ngân hàng rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt
động và ảnh hưởng rộng trong khu vực và thế giới, nên các NHTM muốn
hoạt động lành mạnh và phát triển bền vững phải ký kết và tuân thủ những
nguyên tắc này. 7
- Công nghệ là nhân tố trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM:
Sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng
được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra
một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh
tranh với các NHTM khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên,
muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu
về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động
được. Như vậy, cạnh tranh giữa các NHTM đòi hỏi và chịu sự chi phối
mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông
tin đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi hàng ngày phương
thức hoạt động, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các NHTM. Các
NHTM phải thấy được hai khả năng công nghệ có thể là nhân tố giúp ngân
hàng sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh riêng, mặt khác có thể giúp các đối thủ
vuợt trước, dẫn đến nguy cơ tụt hậu cho ngân hàng mình, để có chiến lược
phát triển cho mình. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại hình
cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình
kinh doanh nào khác. 7
- Các NHTM cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau:
Sự dễ thay đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ
ngân hàng có tính tương đồng, tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là
nguyên nhân làm cho cạnh tranh giữa các NHTM trở lên quyết liệt. Mặt

khác thị trường dịch vụ ngân hàng rất đặc biệt, không ngân hàng nào có thể
hoạt động bình thường nếu không có sự liên kết bình đẳng và minh bạch
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
với các đối thủ. Các điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ của các ngân
hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao đòi
hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong quá trình tác nghiệp. Đây là sự
liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều kiện
hội nhập sự hợp tác giữa các NHTM sẽ càng được mở rộng cả về quy mô
và chất lượng. 7
- Cạnh tranh giữa các NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh,
tránh rủi ro hệ thống: Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan
đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông
qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại
hình dịch vụ (DV) tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh
của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ
các đối tượng khách hàng chung. Như vậy, hành vi cạnh tranh của các
NHTM có tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi ích, hoạt động của mỗi ngân
hàng có ảnh hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống các quyền lợi khác
nhau trong xã hội: người gửi tiền, người vay tiền, các ngân hàng, tổ chức
tín dụng khác. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh
doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như
tất cả các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây là mối lo thường trực của cơ quan công
quyền có chức năng quản lí cạnh tranh ở mọi quốc gia và là điều mà các
NHTM không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các NHTM trong kinh
doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn
phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh vì mục
tiêu tạo an toàn hoạt động cho toàn hệ thống. 8
- Cạnh tranh giữa các NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên

ngoài: Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy
cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm
lý, truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ
nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh
doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ
thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng
thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế
và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM
vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị phần, nhưng
cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp
pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM
khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to
lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây
chuyền. 8
- Các NHTM cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng
Trung ương: Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ
thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động
của các NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung
ương (NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa
ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những
bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị
trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ làm
suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong hệ
thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như
các loại hình KD khác trong nền kinh tế. Trong thị trường dịch vụ ngân
hàng, mặc dù Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh nhưng vì mục tiêu giữ
ổn định nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi của công chúng, Nhà nước có thể

can thiệp vào quá trình cạnh tranh bằng việc thực thi những chính sách đặc
thù như chính sách tiền tệ hay chính sách kiểm soát đặc biệt. Sự can thiệp
này có thể khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường
dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp, ảnh hưởng đến sự vận hành bình
thường của quy luật cạnh tranh. 8
- Cạnh tranh giữa các NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính
quốc tế: Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không
chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
các hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường
pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… Điều
đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết
phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ
của các nước Như vậy, sự mở rộng quan hệ hợp tác và phạm vi hoạt động
của các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng ra thị trường
quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu sự ảnh hưởng
từ phía đối tác, đồng thời gắn chặt với các diễn biến về tỷ giá, lãi suất của
thị trường tài chính quốc tế. Các NHTM phải có các chính kinh doanh và
cạnh tranh thích ứng với những diễn biến của thị trường tài chính quốc tế. 9
1.2.3 Nội dung cạnh tranh của các NHTM 9
* Cạnh tranh về uy tín, thương hiệu: Các NHTM luôn cạnh tranh nhau
về uy tín, thương hiệu vì giữ được chữ tín, tạo dựng được lòng tin, thương
hiệu mạnh trong kinh doanh ngân hàng là những lợi thế rất lớn để giữ
khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngân hàng. 11
1.2.4 Mô hình SWOT trong xác định chiến lược đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh của NHTM 11
Bảng 1.1: Mô hình phân tích SWOT 12

Đơn vị: tỷ đồng 50
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Danh sách các NHTM mới thành lập tại Việt Nam gần đây Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Danh sách các chi nhánh của các NH lớn nằm trong khu vực cùng
cạnh tranh về địa bàn Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Tình hình huy động vốn của chi nhánh Đông Đô giai đoạn 2006 – 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.4: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của BIDV chi nhánh Đông Đô
giai đoạn 2006 -2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.5 Tình hình đầu tư vào tài sản của BIDV Đông Đô .Error: Reference source
not found
giai đoạn 2006 – 2010. Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ trong
tổng VĐT nâng cao năng lực cạnh tranh của các NH trên địa bàn Q.Đống Đa – Hà
Nội Error: Reference source not found
Bảng 2.7: Vốn đầu tư cho phát triển sản phẩm, dịch vụ của . Error: Reference source
not found
chi nhánh Đông Đô giai đoạn 2006-2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.8: Chi phí cho đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ của một số chi nhánh
Ngân hàng cạnh tranh với BIDV Đông Đô Error: Reference source not found
Bảng 2.9 Số lượng cán bộ BIDV Đông Đô năm 2006 – 2010 Error: Reference
source not found
Bảng 2.10 Vốn đầu tư cho hoạt động đào tạo và đào tạo lại lao động của chi nhánh
Đông Đô 2006 – 2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.11: Vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực của BIDV Đông Đô
giai đoạn 2006 –2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.12: Vốn đầu tư nghiên cứu thị trường, phát triển thương hiệu và Marketing

của BIDV chi nhánh Đông Đô và VCB Thành Công giai đoạn 2006 – 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.13: Huy động vốn của BIDV Đông Đô và các chi nhánh trên địa bàn từ năm
2006 đến 2010 Error: Reference source not found
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Bảng 2.14: Tình hình tín dụng của BIDV Đông Đô và các ngân hàng khác trên địa
bàn giai đoạn 2006 – 2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.15: Kết quả thu dịch vụ của BIDV chi nhánh Đông Đô giai đoạn 2006 –
2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.16: Kết quả doanh thu và lợi nhuận của chi nhánh Đông Đô giai đoạn 2008 -
2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.17: Tổng giá trị tài sản của chi nhánh Đông Đô . Error: Reference source not
found
Bảng 2.18: Chất lượng số lượng đào tạo năm 2010 Error: Reference source not
found
Bảng 2.19: Thống kê số lượng thẻ ghi nợ nội địa SUCCESS phát hành được của chi
nhánh Đông Đô Error: Reference source not found
Bảng 2.20: Thị phần xét theo doanh thu so với toàn ngành ngân hàng Error:
Reference source not found
Bảng 2.21: Chỉ tiêu doanh thu tăng thêm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh trong năm nghiên cứu của chi nhánh Error: Reference source not found
Bảng 2.22: Chỉ tiêu lợi nhuận tăng thêm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh trong năm nghiên cứu của chi nhánh Error: Reference source not found
Bảng 2.23: Hệ số huy động tài sản cố định Error: Reference source not found
Bảng 2.24: Mức thu nhập tăng thêm so với vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
trong năm nghiên cứu của chi nhánh Error: Reference source not found
Bảng 2.25: Đóng góp của chi nhánh Đông Đô qua các năm vào NSNN Error:
Reference source not found
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 : Mô hình tổ chức hoạt động của chi nhánh Error: Reference source not
found
Hình 2.2: Cơ cấu huy động vốn của BIDV Đông Đô so với các Ngân hàng trên địa
bàn Error: Reference source not found
Hình 2.3 Thị phần huy động vốn của BIDV Đông Đô và các ngân hàng trên địa bàn
năm 2010 Error: Reference source not found
Hình 2.4: Cơ cấu nhóm nợ của BIDV Đông Đô giai đoạn 2006 – 2010 Error:
Reference source not found
Hình 2.5: Số chỗ việc làm tăng thêm trên một đồng vốn đầu tư của BIDV Đông Đô
giai đoạn 2006-2010 Error: Reference source not found
Hình 3.1: Sơ đồ mạng nhện Error: Reference source not found
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại
hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; đó là loại hình kinh doanh tiền tệ và các
dịch vụ tài chính có liên quan. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động ngân
hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì hoạt động ngân hàng là một
trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh
tranh là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường hiện nay, có thể thấy qua việc hàng loạt các ngân hàng đang tích cực tăng
thêm số lượng các chi nhánh: ngân hàng ACB và các ngân hàng mới được cấp phép
hoạt động đang đẩy mạnh thành lập các chi nhánh và phòng giao dịch mới, nhiều
ngân hàng thương mại cổ phần khác sau một thời gian dài “im hơi, lặng tiếng”, thì
nay đang thành lập thêm các chi nhánh và phòng giao dịch mới như: Ngân hàng Đại
Á, Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Sài Gòn, Ngân hàng Phương Nam, Ngân hàng
Techcombank,…. Rõ ràng, sự cạnh tranh trong lĩnh vực NH đang diễn ra hết sực sôi

động và quyết liệt.
Ngân hàng đầu tư và phát triển là một trong nhưng ngân hàng lớn trong hệ
thống NHTM ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1957 ngân hàng có một hệ thống
các chi nhánh trên toàn quốc. Chi nhánh Đông Đô là một chi nhánh được thành lập
năm 2004, và đang từng bước ổn định, triển khai hoạt động với chiến lược phát
triển, kế hoạch kinh doanh nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu
sản phẩm dịch vụ ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng loạt các
chi nhánh của các ngân hàng đang được mở ra và đó là thách thức không nhỏ đối
với chi nhánh ngân hàng BIDV Đông Đô. Muốn đứng vững và phát triển, chi nhánh
ngân hàng BIDV Đông Đô luôn phải tìm mọi cách để có thể thu hút được khách
hàng nhằm tăng lợi nhuận.
Không những vậy, chi nhánh ngân hàng BIDV Đông Đô cũng phải đối mặt
với sự cạnh tranh ngay chính nội bộ các chi nhánh khác nhau của ngân hàng BIDV.
Để là một trong những chi nhánh đi đầu về phát triển lượng khách hàng nhằm tăng
lợi nhuận, và làm tăng thêm được vị thế của mình so với các chi nhánh khác của
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
BIDV. Đòi hỏi chi nhánh luôn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình một
cách tốt nhất.
Dựa trên những phân tích trên, tôi chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô”.
Chuyên đề đi sâu vào tình hình hoạt động đầu tư và thực trạng năng lực cạnh
tranh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô, trên cơ sở
đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra
những kiến nghị mong muốn góp phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và
hoàn thiện chi nhánh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý thuyết về năng lực cạnh tranh của NHTM.

- Phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của BIDV
Đông Đô, những điểm mạnh và những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế.
- Hình thành giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
BIDV Đông Đô phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của NHTMCP
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng năng lực cạnh tranh của BIDV Đông Đô
giai đoạn 2006 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với
các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, thu thập và xử lý số
liệu, so sánh, biện luận…nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
Tự do hóa tài chính đang diễn ra và có những tác động mạnh mẽ tới hoạt động
của ngành ngân hàng nước ta, đặt các ngân hàng vào thế tự chủ trong hoạt động
kinh doanh theo cơ chế của kinh tế thị trường với những áp lực cạnh tranh lớn từ
phía các ngân hàng nước ngoài, áp lực về các rủi ro thị trường Điều này đòi hỏi
các ngân hàng phải có năng lực thực sự, thể hiện ở năng lực cạnh tranh vững mạnh.
Chính vì vậy với nghiên cứu này tôi mong muốn đóng góp cho BIDV Đông Đô và
các NHTM khác những nhận thức nhất định về tính tất yếu phải nâng cao năng lực
cạnh tranh và một số những ý kiến về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
ngân hàng, với mong muốn ngành ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả và
ngày càng vững mạnh.
6. Cấu trúc của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và các danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương, như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong

Ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại
BIDV Đông Đô.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh tại BIDV Đông Đô.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm về cạnh tranh và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể tham gia
sản xuất, kinh doanh với nhau nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất, kinh doanh, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ để từ đó thu được nhiều
lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu
dùng (Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu
dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có
những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh:
cạnh tranh giá cả (giảm giá ) hoặc phi giá cả (quảng cáo ).
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong
điều kiện của kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
thừa nhận cạnh tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh (KD)
phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan
trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế,
quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Vì vậy, các tổ chức
đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và
trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần

vào sự phát triển kinh tế. Cụ thể:
+ Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ
thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản
xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng
cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu
hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
+ Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản
xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn để đáp ứng
với thị hiếu của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có
chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối
ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn
về mặt xã hội. Cụ thể:
+ Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải,
phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không
lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do
trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội,
sự can thiệp của nhà nước.
+ Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành
mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn
thuế, tung tin phá hoại, ) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo,
tổn hại môi trường sinh thái.
1.1.2 Khái niệm về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một bộ phận cơ bản của đầu tư phát
triển, đó là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm
tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị ) và tài sản trí tuệ
(tri thức, kỹ năng ), gia tăng năng lực sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với
các đối thủ, làm duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2 Cạnh tranh trong hoạt động của NHTM
1.2.1 Khái niệm NHTM
Trong nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến những khái niệm
khác nhau về ngân hàng:
- Theo Peter Rose trong cuốn “ Quản trị ngân hàng thương mại” thì: “Ngân
hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất
- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ than toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
- Theo từ điển tài chính ngân hàng thì: “NHTM là tổ chức chịu sự điều tiết về
luật lệ của một nước hoặc pháp luật của một nước và thuộc sở hữu của các cổ đông.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Ngân hàng có nhiệm vụ thu nhận tiền gửi, cấp tín dụng và một số loại dịch vụ tài
chính khác”
- Theo từ văn bản pháp luật gần đây nhất của Chính phủ Việt Nam: Điều 20
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “NHTM là ngân hàng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của
Nhà nước”.
Như vậy có thể hiểu NHTM là tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt động
kinh doanh tiền tệ với hoạt động chính là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác
như: bảo lãnh, bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, môi giới chứng
khoán, uỷ thác và tư vấn đầu tư, quản lý ngân quỹ… Cùng với sự phát triển kinh tế,

xã hội, các hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú,
NHTM trở thành một định chế tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM
trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các
NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên
thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng (KH), tăng thị phần tín dụng
cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Đối với các NHTM, cạnh tranh là sự tranh đua giữa các ngân hàng thông qua rất
nhiều phương thức, yếu tố, hành động để giành phần thắng trên thị trường trong việc
thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, xây dựng uy tín, thương hiệu…nhằm đạt
được mục tiêu lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng.
Các NHTM cạnh tranh với nhau trong tất cả các hoạt động: huy động vốn, cho
vay, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Và đối thủ cạnh tranh của một NHTM là tất cả các
tổ chức kinh tế cung cấp sản phẩm dịch vụ giống với ngân hàng, chủ yếu là các
NHTM, tổ chức tín dụng khác và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
1.2.2 Đặc trưng cạnh tranh giữa các NHTM
- Đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các đối thủ
cạnh tranh có số lượng giới hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số lượng này là rất khó
khăn và hạn chế, do việc cho phép một tổ chức được tham gia hoặc rút lui khỏi thị
trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với
những điều kiện ngặt nghèo từ phía nhà nước, nhằm tránh cho nền kinh tế và công
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
chúng khỏi những tổn thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch của
các tổ chức này mang lại và làm cho thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn.
- Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các nguyên tắc, luật lệ thế giới:
Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế giới theo một quỹ đạo chung trên
cơ sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm đối với

nền kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng rộng trong khu vực
và thế giới, nên các NHTM muốn hoạt động lành mạnh và phát triển bền vững phải
ký kết và tuân thủ những nguyên tắc này.
- Công nghệ là nhân tố trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM: Sự cạnh
tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của
hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một NHTM mở ra một loại hình dịch vụ
cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác đang
hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện
thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì
không thể hoạt động được. Như vậy, cạnh tranh giữa các NHTM đòi hỏi và chịu sự
chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông
tin đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi hàng ngày phương thức hoạt động, mang
lại nhiều cơ hội phát triển cho các NHTM. Các NHTM phải thấy được hai khả năng
công nghệ có thể là nhân tố giúp ngân hàng sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh riêng, mặt
khác có thể giúp các đối thủ vuợt trước, dẫn đến nguy cơ tụt hậu cho ngân hàng
mình, để có chiến lược phát triển cho mình. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các
NHTM loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ
loại hình kinh doanh nào khác.
- Các NHTM cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau: Sự dễ thay
đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ ngân hàng có tính
tương đồng, tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là nguyên nhân làm cho cạnh
tranh giữa các NHTM trở lên quyết liệt. Mặt khác thị trường dịch vụ ngân hàng rất
đặc biệt, không ngân hàng nào có thể hoạt động bình thường nếu không có sự liên
kết bình đẳng và minh bạch với các đối thủ. Các điều kiện về vốn, mạng lưới, công
nghệ của các ngân hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày
càng cao đòi hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong quá trình tác nghiệp. Đây
là sự liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều kiện hội
nhập sự hợp tác giữa các NHTM sẽ càng được mở rộng cả về quy mô và chất lượng.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A

7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Cạnh tranh giữa các NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh, tránh rủi ro
hệ thống: Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức
kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền
gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ (DV) tài chính khác; đồng
thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho
nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Như vậy, hành vi cạnh tranh
của các NHTM có tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi ích, hoạt động của mỗi ngân
hàng có ảnh hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống các quyền lợi khác nhau
trong xã hội: người gửi tiền, người vay tiền, các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác.
Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ,
thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, không những
thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây là mối lo thường
trực của cơ quan công quyền có chức năng quản lí cạnh tranh ở mọi quốc gia và là
điều mà các NHTM không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các NHTM trong
kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn
phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh vì mục tiêu tạo
an toàn hoạt động cho toàn hệ thống.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài: Kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi
rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi
một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và
mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù
là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong
của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng
thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân
chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh
tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh
tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ

của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì
những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính
NHTM này do tác động dây chuyền.
- Các NHTM cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương:
Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt
động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước đều có sự
giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi
ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn
biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính –
tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong
hệ thống các NHTM không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các
loại hình KD khác trong nền kinh tế. Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù
Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh nhưng vì mục tiêu giữ ổn định nền kinh tế và
bảo vệ quyền lợi của công chúng, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh
tranh bằng việc thực thi những chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ hay chính
sách kiểm soát đặc biệt. Sự can thiệp này có thể khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa
các đối thủ trên thị trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp, ảnh hưởng đến sự
vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa các NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính quốc tế:
Hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm
vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế
đối ngoại; do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các
nước, các thông lệ quốc tế… Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống
các NHTM trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh
doanh tiền tệ của các nước Như vậy, sự mở rộng quan hệ hợp tác và phạm vi hoạt

động của các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng ra thị trường quốc tế
làm cho hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu sự ảnh hưởng từ phía đối tác,
đồng thời gắn chặt với các diễn biến về tỷ giá, lãi suất của thị trường tài chính quốc
tế. Các NHTM phải có các chính kinh doanh và cạnh tranh thích ứng với những diễn
biến của thị trường tài chính quốc tế.
1.2.3 Nội dung cạnh tranh của các NHTM
* Cạnh tranh về chất lượng dịch vụ: Ngày nay, chất lượng hàng hoá là nhân
tố quan trọng nhất trong quyết định tiêu dùng của khách hàng. Các doanh nghiệp
muốn đạt mục tiêu kinh doanh phải nỗ lực nâng cao chất lượng hàng hoá. Hàng
hoá mà NHTM cung cấp là các dịch vụ ngân hàng, nên nâng cao chất lượng dịch
vụ là nội dung chính các ngân hàng sử dụng để tăng khả năng cạnh tranh cho sản
phẩm dịch vụ. Công nghệ phát triển các ngân hàng đều có cơ hội để nâng cao chất
lượng dịch vụ, và khách hàng có nhiều thông tin, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
nên nâng cao chất lượng dịch vụ là nhân tố quyết định hướng khách hàng quan
tâm, sử dụng dịch vụ của ngân hàng, tạo ưu thế cạnh tranh. Đây là phương thức
cạnh tranh lành mạnh và an toàn nhất cho các NHTM.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng do khách hàng sử dụng đánh giá chủ yếu trên
các mặt: sự đa dạng, các tiện ích đi kèm, tính nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện
lợi của dịch vụ, thái độ phục vụ…Có nghĩa là để nâng cao chất lượng dịch vụ, ngân
hàng phải thực hiện những công việc để tạo ra những dịch vụ có các tính chất trên
tốt hơn so với đối thủ, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các
ngân hàng cũng cần quan tâm tới tính độc đáo, riêng biệt của dịch vụ ngân hàng.
Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tạo dựng được cơ sở công nghệ ngân hàng tốt, đội
ngũ nhân lực ưu tú, kết hợp chiến lược thị trường và chiến lược kinh doanh phù
hợp, đúng lúc.
* Cạnh tranh về giá cả: Giá cả dịch vụ ngân hàng chính là lãi suất huy động
vốn, lãi suất cho vay, phí dịch vụ ngân hàng. Yếu tố giá cả, nhất là lãi suất tác động

mạnh đến tâm lý tiêu dùng của khách hàng, hơn nữa đây là lĩnh vực rất nhạy cảm,
sự dịch chuyển nhỏ của giá cả có thể tác động lớn tới quyết định sử dụng dịch vụ
của khách hàng. Do đó cạnh tranh về giá cả là nội dung cạnh tranh có thể tăng
cường rất tốt khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
Trong việc xác định mức lãi suất và phí các NHTM phải đối mặt với mâu
thuẫn: nếu ngân hàng quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì
các mức lãi suất và phí phải thấp so với mặt bằng trên thị trường, điều này có nghĩa
là thu nhập của ngân hàng sẽ thấp, thậm chí thua lỗ. Ngược lại nếu ngân hàng chú
trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao đáp ứng được mục tiêu
tăng thu nhập, điều này lại dẫn đến mức giá cả không cạnh tranh. Trong khi đó mục
tiêu của mọi tổ chức kinh tế trong kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, để đạt được
điều đó cần tối thiểu hoá chi phí và tối đa hóa thu nhập. Như vậy cạnh tranh về giá
cả có nhiều hạn chế, vì nó làm giảm bớt thu nhập của các ngân hàng.
* Cạnh tranh phát triển hệ thống phân phối: Nội dung cạnh tranh này
là việc các ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để
tiếp cận, thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại
lý, tăng cường hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Phát triển kênh phân phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet banking, E
Banking…các kênh phân phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch thấp, tốc độ
thực hiện nhanh, đang dần trở thành xu hướng chung trong kinh doanh ngân hàng.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, giới thiệu, cung cấp thông tin về sản
phẩm ngân hàng đến với khách hàng. Thiết lập các kênh thông tin giúp khách hàng
tiếp cận và tìm hiểu về sản phẩm dịch vụ tài chính dễ dàng hơn.
Dịch vụ ngân hàng có đặc tính nhanh bão hoà, không thể lưu trữ nên việc xây
dựng các kênh phân phối rất quan trọng trong kinh doanh ở các NHTM, để nhanh
chóng tiếp cận, đưa dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, giúp nắm bắt kịp thời

nhu cầu và phản ứng của khách hàng, nhằm chủ động hoàn thiện sản phẩm dịch vụ.
* Cạnh tranh về loại hình dịch vụ ngân hàng: Đa dạng hoá dịch vụ tạo ra
nhiều lựa chọn, thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Qua đó tạo cho ngân hàng
lợi thế cạnh tranh. Ngày nay kinh tế, xã hội phát triển nhu cầu dịch vụ ngân hàng
gia tăng nhanh chóng và thường xuyên thay đổi, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng là
nội dung cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng phải quan tâm.
* Cạnh tranh về công nghệ ngân hàng: Đây là nội dung cạnh tranh vô cùng
quan trọng, quyết định tính thành bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công
nghệ làm tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt
khác nâng cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho
khách hàng. Vì thế các ngân hàng rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân
và đối thủ để có chiến lược đầu tư phát triển hợp lý.
* Cạnh tranh về uy tín, thương hiệu: Các NHTM luôn cạnh tranh nhau về uy
tín, thương hiệu vì giữ được chữ tín, tạo dựng được lòng tin, thương hiệu mạnh
trong kinh doanh ngân hàng là những lợi thế rất lớn để giữ khách hàng cũ, thu hút
khách hàng mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.4 Mô hình SWOT trong xác định chiến lược đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của NHTM
Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60-70 tại Viện nghiên cứu Stanford, Hoa
Kỳ. Đây là phương pháp đánh giá năng lực của doanh nghiệp thông qua việc xác
định, phân tích những điểm mạnh- Strengths và điểm yếu - Weaknesses, là các yếu
tố nội tại của doanh nghiệp; cơ hội – Opportunities và thách thức - Threats, là các
nhân tố bên ngoài của một doanh nghiệp. SWOT cũng được áp dụng phân tích sức
mạnh của đối thủ cạnh tranh. Từ đó giúp cho việc lập kế hoạch, xây dựng chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Điểm mạnh: là các công việc ngân hàng làm tốt hơn so với các đối thủ. Đó có
thể là những điểm mạnh dễ nhận biết như thị phần chi phối, vốn lớn, công nghệ

hiện đại, nhân lực chất lượng cao…và những điểm mạnh chỉ có thể cảm nhận như
khả năng thích ứng, thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên, uy tín thương hiệu
- Điểm yếu: là những hạn chế của ngân hàng, những việc ngân hàng làm không
tốt so với các đối thủ. Những điểm này có thể nhận biết hoặc không dễ nhận biết, ở
dạng tiềm ẩn. Có thể nhận biết chính xác nguyên nhân và tác động của các điểm
yếu đến hoạt động kinh doanh sẽ giúp NHTM khắc phục hiệu quả hơn.
- Cơ hội: Có những cơ hội có thể đến môi trường khách quan mang lại, hoặc do
chính ngân hàng tạo ra nhờ vào các điểm mạnh. Các ngân hàng luôn luôn phải
phân tích, tìm kiếm, tận dụng tốt các cơ hội cũng như tạo ra các cơ hội để thúc đẩy
hoạt động kinh doanh ngân hàng phát triển bền vững.
- Thách thức: là các yếu tố, các nguy cơ tiềm ẩn, những rủi ro mà các ngân
hàng có thể gặp phải làm hoạt động của ngân hàng trở lên khó khăn. Những thách
thức này có thể phát sinh từ bên trong, hoặc bên ngoài ngân hàng.
Mô hình SWOT thường đưa ra 4 chiến lược cơ bản: SO - các chiến lược dựa trên
ưu thế của doanh nghiệp để tận dụng các cơ hội thị trường; WO - các chiến lược dựa
trên khả năng vượt qua các yếu điểm để tận dụng cơ hội thị trường; ST- các chiến lược
dựa trên ưu thế của của doanh nghiệp để tránh các nguy cơ của thị trường; WT - các
chiến lược dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của doanh
nghiệp để tránh các nguy cơ của thị trường, mô tả trong bảng sau:
Bảng 1.1: Mô hình phân tích SWOT
Các điểm mạnh Các điểm yếu
Các

hội
Phân tích S-O
Phát huy các điểm mạnh như
thế nào để tận dụng tối đa các cơ
hội
Phân tích W- O
Khắc phục các điểm yếu như thế

nào để tận dụng tốt các cơ hội
Các
thách
thức
Phân tích S-T
Sử dụng điểm mạnh như thế
nào để chống lại các thách thức và
thực hiện mục tiêu, nắm bắt các
cơ hội
Phân tích W-T
Khắc phục điểm yếu như thế nào
để chống lại các thách thức đối với
việc thực hiện mục tiêu và theo đuổi
cơ hội
Việc áp dụng phương pháp SWOT để trong xác định chiến lược đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng, cũng như giúp cho nhà quản lý ngân hàng
xây dựng chiến lược cạnh tranh hiệu quả, đòi hỏi chất lượng hoạt động phân tích,
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
đánh giá các năng lực hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính, công nghệ của
ngân hàng và các đối thủ, cũng như các yếu tố môi trường phải tốt, chính xác.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong
NHTM
1.2.5.1 Các nhân tố ảnh hưởng bởi môi trường vĩ mô
a) Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ý nghĩa đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Nếu coi
hệ thống ngân hàng như một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì
hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không lại phụ thuộc vào cơ thể sống đó. Cụ
thể, bất kỳ một ngân hàng nào cũng thường quan tâm tới một số chỉ tiêu như: Tốc

độ phát triển kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Một nền kinh tế có
tốc độ phát triển cao sẽ tạo cơ hội cho đầu tư mở rộng hoạt động ngân hàng và
ngược lại. Mức lãi suất sẽ quyết định cho mức cầu của doanh nghiệp. Chính sách
tiền tệ và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, có
thể đem lại cho ngân hàng một vận hội kinh doanh tốt hoặc cũng có thể là nguy cơ
phá sản. Tỷ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thông qua việc
ảnh hưởng tới sự nhiệt tình của các nhà đầu tư đối với các dự án. Nghiên cứu các
chỉ tiêu môi trường kinh tế cũng như chiều hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế
là cơ sở quan trọng để các nhà chiến lược ngân hàng hoạch định về chiến lược đầu
tư, đổi mới của mình.
b) Môi trường văn hóa xã hội
Một số yếu tố về văn hóa – xã hội có thể ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
của ngân hàng thương mại, cụ thể nó ảnh hưởng thông qua việc tác động tới nhu
cầu và nguồn nhân lực.
Những đặc điểm xã hội ảnh hưởng tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân
hàng, đó là: lòng tin của nhân dân đối với các ngân hàng, thói quen tiêu tiền và tiết
kiệm của người dân, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân
hàng, mức thu nhập của người dân
Có thể nói ngân hàng là ngành kinh doanh “lòng tin”. Ngân hàng là người
giữ tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, ngân hàng chính là người giữ
hầu bao của nền kinh tế. Nếu ngân hàng không tạo được niềm tin trong dân chúng
thì chắc chắn hoạt động ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Thói quen tiêu dùng của
người dân ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là tập quán
sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quen sử dụng tiền mặt nhiều thì rõ ràng ngân
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
hàng sẽ bị hạn chế trong kinh doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng
ảnh hưởng đến nguồn cung ứng tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí càng
cao thì khả năng phổ biến các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và

có cơ hooị để đổi mới của ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập của người dân
là yếu tố quyết định tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, một số đặc điểm văn hóa – xã hội ảnh hưởng tới nguồn
nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng như: quan điểm về doanh nhân và kinh doanh,
quan điểm về sự giàu có, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp, quan điểm về rủi ro
và thất bại
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp. Một đất nước phải coi trọng
doanh nghiệp, doanh nhân thì các doanh nghiệp nước đó mới có điều kiện thuận lợi
để phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng còn là một ngành dịch vụ đòi hỏi nguồn nhân
lực phải có trình độ nhất định, sự thành công của ngân hàng đòi hỏi phải có những
cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng tiến.
c) Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có thể nói ảnh hưởng tới mọi hoạt động của con
người, cũng như vậy, ngân hàng là ngành chịu ảnh hưởng bởi yếu tố này. Môi
trường tự nhiên bao gồm: môi trường khí hậu, sinh thái, dân số, vị trí địa lý – nơi
mà ngân hàng có trụ sở.
Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và đời sống của cá nhân, tổ chức – khách hàng của ngân hàng, từ đó
ảnh hưởng tới chính hoạt động của ngân hànglkuh v jkf nm m.,.
Dân số cũng là một yếu tố rất đáng quan tâm, các thông tin về tổng dân số
tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân số sẽ giúp ngân hang có thể dự đoán về thị trường
hiện tại cũng như tương lai của ngân hàng. Căn cứ vào những thông tin trên, ngân
hàng xác định được đoạn thị trường mục tiêu của mình để có những chiến lược,
chính sách cụ thể cho phù hợp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng đó.
Vị trí các ngân hàng cũng rất quan trọng, vì một trong những đặc tính của
ngành dịch vụ là sản phẩm không nhìn thấy, chất lượng sản phẩm dịch vụ đó như
thế nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố, cái mà khách hàng nhìn thấy đầu tiên đó là cơ
sở hạ tầng của ngân hàng và vị trí địa lý của nó là một yếu tố rất đáng quan tâm.
Một ngân hàng đóng tại vị trí trung tâm sẽ được nhiều khách hàng biết đến và
chiếm được cảm tình ban đầu của họ.

d) Các thể chế chính trị
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Chính phủ có vai trò quan trọng đối với bất kỳ một ngành nào, đặc biệt là
ngành ngân hàng - người thủ quỹ của toàn bộ nền kinh tế.
Chính phủ tác động đến sự phát triển của ngân hàng trước hết với vai trò
của người quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống thông qua vai trò của ngân hàng trung
ương. Sự hoạt động an toàn và lành mạnh của các NHTM sẽ là điều kiện tiên quyết
để phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Do mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ
thống NHTM, sự sụp vỡ của một ngân hàng thường gây ra những hậu quả to lớn và
có khả năng gây ra hiệu ứng lan truyền trong toàn bộ hệ thống. Hơn nữa ngành ngân
hàng có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, sự đổ vỡ
ngành ngân hàng sẽ gây khó khăn cho tất cả các ngành đó, vì vậy hoạt động của các
NHTM phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước
nói chung và của Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Ngoài chức năng của một người quản lý, giám sát các hoạt động của hệ
thống ngân hàng, chính phủ còn là chủ sở hữu, là “con nợ” và “chủ nợ” lớn, thậm
chí lớn nhất của các NHTM. Chính phủ cũng đồng thời là người hoạch định đường
lối phát triển chung của toàn ngành và điều phối nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống
ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ có thể có những chính sách tác
động đến cung - cầu, đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, đến các điều kiện nhân tố sản
xuất, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi
cũng như có thể kìm hãm sự phát triển của ngành ngân hàng.
1.2.5.2 Các nhân tố ảnh hưởng bởi môi trường vi mô
a) Nhân tố ảnh hưởng từ phía khách hàng
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành ngân hàng là tất cả các cá
nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là các ngân hàng khác
cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa là người
bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản phẩm thông qua các

hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận
được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những người mua sản phẩm (vay vốn) lại
muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng sẽ
phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân
được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều này đặt
ra cho ngân hàng nhiều khó khăn trong định hướng cũng như phương thức hoạt
động trong tương lai.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Về đặc điểm của khách hàng: Khách hàng của NHTM không phải là
khách hàng luôn “trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao
dịch. Mức độ trung thành của khách hàng phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM
với họ, mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với ngân
hàng. Khách hàng có thể ngay lập tức thay đổi quan hệ với ngân hàng để tìm mối
lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà họ nhận được cao (nếu là sản phẩm bán)
và mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua) so với ngân hàng họ quan hệ. Như
vậy, sự cạnh tranh của ngân hàng cũng được nhân lên do đặc điểm khách hàng
rất dễ thay đổi quan hệ với ngân hàng.
b) Nhân tố ảnh hưởng từ các ngân hàng thương mại
Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong kinh doanh. Đối thủ
cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của NHTM trong tương lai. Ngoài
ra, sự có của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải thường xuyên quan
tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng để chiến thắng
trong cạnh tranh.
c) Nhân tố ảnh hưởng từ nội bộ ngân hàng
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các
Ngân hàng thương mại, trên thực tế, nhóm nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống
NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các NH này. Chúng
bao gồm:

- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng: Nếu NHTM nào có ban
lãnh đạo sáng suốt thì ngân hàng đó sẽ phát triển đạt được nhiều thành tựu.
- Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM: Điều này có ảnh hưởng
rất lớn tới việc mở rộng quy mô của NHTM trong tương lai.
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng: Công nghệ cho ngành ngân hàng
ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng
trong việc xử lý các giao dịch.
- Chất lượng nhân viên ngân hàng: Nguồn nhân lực của ngân hàng luôn là
vấn đề đặt ra đối với bất kỳ NHTM nào. Để ngân hàng có thể phát triển tốt thì cần
phải có một bộ máy nhân sự chất lượng.
- Cấu trúc tổ chức: Tổ chức của bộ máy trong ngân hàng có ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt động của các ngân hàng. Một bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh động, có
khoa học sẽ thúc đẩy được sự phát triển của ngân hàng trong hiện tại và tương lai.
SVTH: Nguyễn Hữu Thái Lớp: Đầu tư 50A
16

×