Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Giải pháp kiềm chế lạm phát Đưa ra một số giải pháp thực hiện để kiểm chế lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.2 KB, 47 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay
gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh
tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn
đề của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề kinh tế nổi cộm hiện nay là
lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một
vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể
mong muốn đạt kết quả khả quan. Kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ của
Chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời
sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Ở Việt Nam hiện nay, kiểm soát lạm
phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong bài tiểu luận này để làm rõ các vấn đề lạm phát cũng như ảnh
hưởng của nó tới nền kinh tế trong nước và những biện pháp biện pháp mà
Chính phủ đã đề ra để kiềm chế lạm phát. Tôi chia bài làm ra làm ba phần:
Phần I : Lý luận chung :
Trong phần này tôi đưa ra những vấn đề lí thuyết về lạm phát, nguyên
nhân gây ra nó.
Phần II : Thực trạng về ảnh hưởng của lạm phát :
Trong phần này tôi đưa ra một số vấn đề liên quan đến tình trạng lạm
phát của nền kinh tế trong những năm gần đây.
Phần III : Giải pháp kiềm chế lạm phát : Đưa ra một số giải pháp thực
hiện để kiểm chế lạm phát.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Đem lại một cái nhìn tổng thể về lạm phát và ảnh hưởng của nó tới
nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây.
2. Đưa ra một số giải pháp thực hiện để kiềm chế lạm phát để góp
phần tăng trưởng và phát triển kinh tế.
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG
1.Khái niệm:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá


chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền.
Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ
của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu
tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế
của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một
loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai
thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ
mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một
chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định”.
2. Đo lường và phân loại lạm phát:
2.1. Đo lường:
- Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá
cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông
thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các
liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả
trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số
giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung
bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua
chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so
với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá
cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích
thước của nó.
- Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì
giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng
hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó
được thực hiện.
Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:

- Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt
của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được
giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay
không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này
được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều
chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả
của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách
rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua
bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc
gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số
này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này
thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động
mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ
lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh
giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo
sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế
(và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI
là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được
bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh
toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất
kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này
cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày
mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ
số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các
dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán
buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số

này rất giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một
cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử
dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả
vàng và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc
nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá
trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so
sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là
phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng
tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục
Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và
các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát
của mình.
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo
chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-
Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee
(FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của
mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá
nhân".
2.2.Phân loại lạm phát phân theo mức độ:
Phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế
thường phân biệt 4 loại lạm phát: thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm
phát phi mã) và siêu lạm phát.
a.Thiểu phát
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp.
Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô
Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm
phát.Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm
trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ

lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy
nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất
không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm
một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được
coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4
phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là
thiểu phát.
b. Lạm phát thấp:
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 13 %/ năm.
c. Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc
ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn
siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi
mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ
gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ
bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho
các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất
động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm
phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
d. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả
tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về
siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm
phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng
tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo
định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát.
Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế
chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên

đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác
cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá
đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu
cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những
nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát:
1. Các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền
pháp định.
2. Nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian
sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách
Chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng
nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu
lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm
phát, đó là:
(1) Người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền.
(2) Giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà
bằng một ngoại tệ ổn định.
(3) Các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là
rất ngắn.
(4) Lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm
phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
3. Nguyên nhân
3.1. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức
toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ
đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ
khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn
tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên

để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
3.2. Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền
và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể
giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó
mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, nghĩa là lạm phát.
3.3. Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí
nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng
giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
3.4. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người
lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng
tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát
nảy sinh vì điều đó.
3.5. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản
phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy
sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
3.6. Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu.
Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong
trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống
giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi
mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7. Lạm phát tiền tệ

Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ
vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng
hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến
cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới
đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu
trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
PHẦN II : THỰC TRẠNG VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT
1. Thực trạng từ 2007 đến nay.
- Sau khi chuyển mục tiêu ưu tiên từ tăng trưởng cao sang kiềm
chế lạm phát

, tốc độ tăng giá đang có xu hướng giảm dần và tăng trưởng
kinh tế cả năm ước đạt 6,5 - 7%.
- Cụ thể, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 chỉ tăng 0,18%, tỷ giá và lãi
suất cơ bản phù hợp, xuất khẩu trong 9 tháng qua tăng 39% so với cùng kỳ
năm ngoái, nhập siêu giảm nhanh, đầu tư nước ngoài tăng cao, vấn đề an sinh
xã hội được đảm bảo.Tuy nhiên, nhìn nhận và đánh giá nghiêm túc tình hình,
hiện Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.Vì vậy
Chính phủ sẽ không được chủ quan và thỏa mãn với kết quả đã đạt được.
- Tại Việt Nam trong tháng 6 đã giảm xuống 3,9% so với cùng kỳ năm
ngoái và có khả năng sẽ giảm sâu hơn, xuống mức dưới 3% trong những
tháng tới, nếu giá năng lượng và thực phẩm vẫn tiếp tục duy trì như hiện nay.
Đó là những nhận định trong bản báo cáo mới đây về kinh tế Việt Nam của
Ngân hàng Standard Chartered. Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích của
Standard Chartered cho rằng, dù lạm phát không còn là mối đe dọa trước mắt
nhưng vẫn phải theo dõi chặt chẽ diễn biến từ nay đến cuối năm.
Thâm hụt thương mại tiếp tục tăng.

- Nền kinh tế tăng trưởng 3,9% trong nửa đầu năm 2009 và theo ước
tính tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý 2/2009 sẽ vào khoảng
4,4%. Mặc dù năm 2009 sẽ là một năm đầy thử thách đối với nền kinh tế
trong nước và khu vực, nhưng các chuyên gia phân tích của Standard
Chartered vẫn giữ vững quan điểm về triển vọng phát triển trung hạn đối với
thị trường Việt Nam.
- Trong tương lai gần, một vài yếu tố về mặt cấu trúc sẽ thúc đẩy sự phát
triển của Việt Nam, trong khi một số khác vẫn sẽ giữ nguyên ngay cả khi tốc
độ tăng trưởng chậm ở một nền kinh tế đang trên đà đi lên.Kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam giảm 10% trong nửa đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm
ngoái, trong khi sản lượng công nghiệp vẫn ở mức thấp. Các chuyên gia của
Standard Chartered cho rằng, điểm mạnh của nền kinh tế lúc này là dịch vụ
bán lẻ.Trong năm 2009, những ngành kinh tế phát triển vượt trội là ngành xây
dựng, vận tải, truyền thông và môi giới tài chính, thị trường bán lẻ và bán
buôn. Tuy nhiên, những ngành khác như: nông nghiệp, sản xuất, khách sạn và
bất động sản đang có dấu hiệu đi xuống.Cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn
là mối quan tâm của các nhà đầu tư. Việc thiếu các thông tin cập nhật cũng là
một vấn đề cần lưu ý. Mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang ở vào khoảng
20 tỷ USD, tương đương với giá trị kim ngạch nhập khẩu của 4 tháng là tương
đối thấp trong khu vực. Thâm hụt thương mại trong nửa đầu năm 2009 ở mức
2,1 tỷ USD, đã cải thiện hơn nhiều so với con số 14,2 tỷ USD cùng kỳ năm
2008. Cùng với việc hạ giá cả hàng hóa và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế,
nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam tại Dung Quất đã giúp giảm bớt kim
ngạch nhập khẩu dầu tinh (một hạng mục đóng góp đáng kể vào con số thâm
hụt thương mại cao năm 2008).
- Với những diễn biến trên, ông Tai Hui, Trưởng bộ phận nghiên cứu khu
vực Đông Nam Á của Standard Chartered (Singapore), dự đoán tình hình kinh
tế như hiện nay sẽ còn kéo dài từ nay đến cuối năm và thâm hụt thương mại
của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng nhưng ở mức độ cho phép.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm có khả năng khiến cho

lượng kiều hối và FDI đổ về Việt Nam thấp hơn so với năm ngoái. Điều này
đồng nghĩa với việc dự trữ ngoại hối sẽ bị hạn chế.
2. Nguyên nhân
- Con số lạm phát cao kỷ lục 12,3% của năm 2007 Thủ tướng Chính
phủ đã kết luận có nguyên nhân tiền tệ, cụ thể là
Thứ nhất, trong những tháng đầu năm 2007 việc đưa tiền ra mua
ngoại tệ nhưng chưa rút về kịp thời.
Thứ hai, tăng trưởng tín dụng ở mức cao so với những năm
trước và mục tiêu đề ra.
Thứ ba, hai yếu tố này đã kéo theo tổng phương tiện thanh toán cũng
tăng ở mức cao so với mục tiêu đề ra.
3. Ảnh hưởng của lạm phát
- Lạm phát không kiểm soát nổi sẽ đưa đến tình trạng giá thành các
mặt hàng tăng cao. Giá hàng hóa lên cao sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ. Hàng
hoá trở nên dư thừa và ế ẩm. Để sống còn, công ty sản xuất phải chịu lỗ, hạ
giá bán và thu nhỏ hoạt động lại. Một số hãng xưởng sẽ phải đóng cửa và
công nhân bị sa thải ra làm nhu cầu chung về tiêu thụ lại càng giảm nữa. Đến
đây bắt đầu giai đoạn giảm phát. Hàng hoá sẽ xuống giá cho đến khi nào tìm
được một sự quân bình mới giữa cung cầu. Lúc đó kinh tế đi vào giai đoạn
suy thoái và tiêu chuẩn sống (standards of livings) của người dân bị giảm sút.
Sự tác hại của lạm phát đối với kinh tế sau một thời gian âm ỉ có tính
cách bùng nổ như một cơn bệnh cấp tính. Điển hình nhất là cơn đại khủng
hoảng kinh tế 1929 tại Mỹ. Chỉ trong một một ngày, giá trị thị trường chứng
khoán Mỹ bị mất đi gần một nửa và kinh tế Mỹ bước vào một giai đoạn suy
thoái thảm não kéo dài gần hai thập niên sau đó.
3.1. Lạm phát và lãi suất
Từ những thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các
nhà kinh tế cho rằng: lạm phát cao và triền mien có ảnh hưởng xấu đến mọi
mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.
- Tác động đầu tiên của lạm phát là lãi xuất

Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng
phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của
mình , tức là luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng, lãi
suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng
cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên
cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà
nền kinh tế phải gánh chịu là suy thái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
3.2. Lạm phát và thu nhập thực tế
- Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy
ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Với 600.000 đồng tiền
lương một tháng hiện nay, một công nhân sẽ mua dược 2 tạ gạo ( với giá gạo
3000đ/1kg). Vào năm sau, nếu tiền lương của công nhân này không đổi,
nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm 50% so với
năm trước, tức là giá gạo đã tăng lên 450đ/1kg, thì với số tiền lương nhận
được trong một tháng, người công nhân này chỉ có thể mua được 133,3kg
gạo.
- Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài không
có lãi (tức tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn tài sản có lãi, tức là làm giảm thu
nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. điều đó xảy ra là do chính sách
thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát
tăng cao, điều đó làm cho số thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp
tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập
ròng (thu nhập sau thuế), thực chất khoản (sau khi đã loại trừ tác động của
lạm phát) mà người cho vay nhận được bị giảm đi.
- Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao
động trở lên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với chính
phủ và những hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra.
Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số CPI nói chung đã tăng lên tới hơn
148%, và chỉ số giá lương thực, thực phẩm nói riêng đã vọt tới 172% từ năm
2005 đến cuối năm nay.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, giám đốc IDS nhận xét: “Người nghèo sử
dụng hầu hết phần thu nhập khiêm tốn của mình cho lương thực và hàng hoá
thiết yếu, nên họ trở thành đối tượng bị tổn thương đầu tiên và mạnh nhất do
ảnh hưởng của lạm phát”.
Theo ngân hàng Thế giới, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam vẫn có thể tiếp
tục giảm xuống còn 12,4% năm 2009 từ mức 13,1% năm 2008, kể cả khi kinh
tế chỉ tăng trưởng ở mức 5% trong năm tới. Như vậy, tỷ lệ đói nghèo ở Việt
Nam đã giảm xuống rất nhanh từ mức 58,2% của năm 1993, một tốc độ đáng
khâm phục xét trên bình diện quốc tế.
Tuy vậy, quyền trưởng đại diện ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cảnh
báo: “Mặc dù tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm, song không có cơ sở nào để Việt
Nam tự hài lòng. Không nên phấn khởi trước tốc độ giảm nghèo nhanh chóng
mà quên đi thực tế là vẫn có tới 13,5 triệu người đang sống trong cảnh nghèo
khổ tại Việt Nam, trong đó có 5 – 6 triệu người nghèo lương thực”.
Trong khi đó, bộ Lao động thương binh và xã hội cho biết, ngân sách
nhà nước bố trí cho chương trình Giảm nghèo quốc gia còn thấp với 677 tỉ
đồng trong vòng ba năm qua, chỉ bằng 31% của kế hoạch năm năm.
Bộ này đã cầm một danh sách dài 61 huyện nghèo đói nhất cả nước đến
hội nghị Thủ tướng gặp đại diện 104 tập đoàn và tổng công ty nhà nước đầu
tháng này ở Hà Nội với hy vọng nhận được trợ giúp của các doanh nghiệp nhà
nước hùng mạnh này. Tuy vậy, tại hội nghị chỉ duy nhất có PetroVietnam
cam kết hỗ trợ một huyện ở Quảng Ngãi, nơi tập đoàn này chuẩn bị vận hành
nhà máy lọc dầu Dung Quất.
3.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
- Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm
phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là
người được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng
giữa người đi vay và ngươi cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những
người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy
càng tăng thêm nhu cầu tiền cho vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.

- Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có,
dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hóa, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện,
tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng
hóa trên thị trường, giá cả hang hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuôi cùng,
những người dân vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí
không mua nổi những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ
đầu cơ đã vét sạch hàng hóa và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát
như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng
cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
3.4. Lạm phát và nợ quốc gia
- Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh
vào người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn.
Chinh phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là
vì lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá
nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
3.5. Lạm phát và tăng trưởng
- L

m phát và tăng trưởng có
mối
quan h

khăng khít với nhau.Qua
b

ng
số li

u dưới đây,
chúng ta có th


th

y rõ được
mối
quan h

đó.
3.6. Lạm phát và hiệu quả kinh tế
- Lạm phát làm biến dạng cơ cấu đầu tư : Khi xảy ra lạm phát các
doanh nghiệm không muốn đầu tư vào những dự án có khoảng thời gian thu
hồi vốn dài. Tác động này có thể làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực của
nền kinh tế trong dài hạn. Sự giảm sút năng lực sản xuất có thề làm cho
đường tổng cung AS dịch chuyển sang trái cùng với mực giảm của sản lượng
tiềm năng
- Lạm phát làm sai lệch tín hiệu giá : giá là tín hiệu quan trọng đề giúp
người mua và người bán có được quyết định tối ưu nhất. Trong thời kì lạm
phát cao, giá cả tăng nhanh làm cho mọi người không kịp nhận biết mức giá
tương đối giữa các hàng hóa thay đổi ra sao, do đó làm giảm tính hiệu quả khi
ra quyết định mua bán.
- Lạm phát làm phát sinh chi phí điều chỉnh giá : các hãng kinh doanh
phải tốn thêm chi phí để điều chỉnh giá như : chi phí sửa giấy báo giá, sửa lại
giá trên máy tính tiền, sửa thực đơn … Các công ty kinh doanh lớn còn tốn
kém cả chi phí cho những cuộc họp về điều chỉnh giá.
4 . Vai trò của lạm phát trong kinh tế
4.1. Các hiệu ứng tích cực
- Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ
lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng
từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát
vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào

lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản
xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm
- Lạm phát khó có thể là một điều tốt lành cho nền kinh tế trừ trường
hợp ở mức độ nhẹ và trong tầm kiểm soát của chính phủ. Ví dụ, hàng năm
Chính phủ có thể phát hành thêm một lượng tiền mới để tiêu xài cho những
chương trình công cộng hoặc giải quyết thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền
được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy cao tổng sản lượng quốc
dân GDP (Gross Domestic Product) lên thêm một mức. Dĩ nhiên nếu quá đà
sẽ có nguy cơ gây ra lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát và làm các hoạt động
kinh tế sẽ bị tê liệt.
- Nhiều người quan niệm việc Chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho
phép của nền kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính phủ sử dụng
khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hi vọng sang năm kinh tế tiếp
tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn.
- Một chút lạm phát cũng khiến doanh nghiệp kiếm thêm lợi nhuận vì
thông thường từ khâu nhập nguyên liệu (giá trước lạm phát) đến lúc hoàn
thành sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho doanh vụ.
- Ngoài những trường hợp kể trên, bao giờ lạm phát cũng có ảnh hưởng
xấu đối với kinh tế. Tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải cũng tùy thuộc vào
tình hình phát triển kinh tế của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng
quốc gia khác nhau. Theo lẽ thông thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở
mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó, các quốc gia đang ở
giai đoạn kinh tế cất cánh (tỉ lệ phát triển xấp xỉ 10%) có thể chấp nhận một tỉ
lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ phát triển dưới 5%).
4.2 Các hiệu ứng tiêu cực
a. Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây
ra những tổn thất cho xã hội:
- Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người

giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát
nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ
cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã
dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất
tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với
không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong
trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh
chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn
phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở
nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân
bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém
hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
-Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái
với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng
của lạm phát. Ví dụ: Trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không
thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp
thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập
thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: Đồng tiền được sử dụng để
làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước
này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định
của mình.
b .Đối với lạm phát không dự kiến được
- Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của
cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng
thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người
đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn

dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát
không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất
lớn.
- Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác
động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do
lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm
phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã
hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc
đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy Chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách
chống lại loại lạm phát này.
5 . Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam
- Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu
giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm mọi
cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông.
- Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền
thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân
Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và
sau đó để nuôi máy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an
toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam
phải chịu giá sinh hoạt từ 1939-1945 bình quân 25 lần.
- Thời kỳ 1946-1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng
Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của
của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược
Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước.

×