Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Luận văn thanh tra khiếu nại hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.69 KB, 116 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dỡng con ngời, là môi tr-
ờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nớc ta đã thiết
lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình
phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nớc ta đợc thể hiện rất rõ trong các Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nớc bảo hộ hôn nhân và
gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con
cái thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và
chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nớc và xã hội không thừa nhận việc
phân biệt đối xử với các con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và
tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng nh BLHS
năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần
ngăn chặn, hạn chế và từng bớc xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong
kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hớng gia tăng,
diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả
trong lĩnh vực HN&GĐ. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không
1
có xu hớng gia tăng, nhng tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây
d luận xấu trong xã hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ và hôn
nhân gia đình cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm


cho xã hội không cao, nhng có ảnh hởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên
thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài
hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vớng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải
nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận nh: khái niệm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong
pháp luật hình sự Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất
nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
và gia đình - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học", mang tính
cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy
cảm cao, phức tạp, đã đợc một số nhà luật học trong nớc quan tâm nghiên cứu.
ThS. Bùi Anh Dũng đã có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do
dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb
Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đã có các công trình: "Một số
vấn đề cần lu ý khi áp dụng các quy định tại chơng các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý,
Trờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc
trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát,
số 4/2002, "Về tội ngợc đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con
cháu, ngời có công nuôi dỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm
sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình
sự mới của nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
2
Minh, 2001, trong đó có đề cập chơng XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với ngời cha thành
niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trơng Thị Hòa

có công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xa và nay, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2000
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của
nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhng cha có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dới góc độ pháp
lý hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, đề xuất những giải pháp
mang tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội
phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; phân tích các quy định của pháp luật hình
sự một số nớc trên thế giới về loại tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này; dự báo tình tội phạm này trong những năm tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
3
Đối tợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dới góc độ pháp
lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian từ năm 1997 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nớc và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học,
luật hình sự, tâm lý học, xã hội học
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê
của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phơng pháp: hệ thống,
phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phơng pháp khác
nh so sánh, điều tra xã hội
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội dung sau
đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của các tội phạm này trong
pháp luật hình sự hiện hành.
4
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ trong pháp luật hình sự một số nớc trên thế giới nhằm rút ra những
giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp
đợc đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
6. ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ ở nớc ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác
giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về tội
phạm học, luật hình sự, cũng nh vào cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội
phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự,
tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan
Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chơng, 9 mục.
5
Chơng 1
Các tội Xâm Phạm Chế Độ HÔN NHÂN Và GIA Đình
Trong luật hình sự việt nam
1.1. khái lợc sự hình thành và phát triển những quy định
về các tội Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật
hình sự Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945
Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con ngời, gia đình là nền tảng
của xã hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh vực đ-
ợc Nhà nớc rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nớc ta - Bộ Hình th, đợc ban
hành năm 1042 dới thời Lý Thái Tông, vấn đề HN&GĐ chiếm giữ một vị trí
quan trọng và đợc quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trng chủ yếu của
các quy định này là quyền uy tập trung trong tay ngời chồng, mà mọi thành
viên có bổn phận phục tùng; ngời chồng đợc phép bỏ vợ trong trờng hợp ngời

vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn ngời vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm
khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị trừng phạt.
Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là trách
nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59].
Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và
quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mời tội ác (thập ác) đã đợc quy định tại
Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến HN&GĐ, đó là các tội:
4. ác nghịch, là đánh và mu giết ông bà, cha mẹ, bác chú,
thím, cô, anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha
mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy
6
chồng, vui chơi ăn mặc nh thờng; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà
không cử ai (tang lễ); nói dối là ông bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những ngời trong họ phải để
tang 3 tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ
hàng từ tiểu công trở lên
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đơng chức tại
nhiệm, giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại
vui chơi ăn mặc nh thờng, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chơng hộ hôn (hôn
nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những trờng
hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là các trờng hợp:
đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cới vợ, khi ông bà,
cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng Ví dụ: Điều 317 quy định:
"Ngời nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cới vợ
thì xử tội đồ, ngời khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba t và đôi vợ
chồng mới cới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này còn có một số quy định
thể hiện t tởng phong kiến coi khinh nghề hát xớng nh quy định tại Điều 323:
"Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xớng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử

phạt 70 trợng, biếm ba t; con cháu các quan viên mà lấy những phụ nữ nói
trên, thì xử phạt 60 trợng; về đều phải ly dị" [36, tr. 123].
Dới thời thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, Việt Nam vẫn là một nớc thuộc
địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến vẫn
duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa nhận sự c-
ỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ (đa thê),
duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Điều thứ 128
Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Ngời vợ hay vợ lẽ hiện đơng
có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt giam từ ba tháng
7
đến hai năm và phạt bạc từ bốn mơi đồng đến bốn trăm đồng, ngời gian phu bị
phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn quy định:
Ngời vợ hay vợ lẽ hiện đơng có chồng, cha tuyên cáo sự ly
hôn, mà đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm
năm và phạt bạc từ năm đồng đến hai trăm đồng.
Ngời có vợ cha tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác,
phải phạt giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến
một trăm đồng [55, tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội
phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ
luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một ngời đàn bà đã có chồng rồi mà
còn ân tình với một ngời đàn ông khác, còn đối với đàn ông có vợ thì hành vi
ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công cho đến trớc khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non
trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nớc vốn
đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên
tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tởng Giới Thạch mợn danh
nghĩa Đồng Minh vào tớc vũ khí quân Nhật, nhng dã tâm của chúng là giúp

bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ
phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam, quân đội Pháp đợc quân Anh
yểm trợ xâm lợc chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và
Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là
diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ
vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách
8
mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định
Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng
chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn
đó, Nhà nớc ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ HN&GĐ mới tiến bộ, từng b-
ớc xóa bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực dân, phong kiến đối với
phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung
quy định các tội phạm liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân nh
các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô , cho nên, trong giai
đoạn này, Nhà nớc ta cha có quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đợc ký kết, miền
Bắc hoàn toàn đợc giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ đợc ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ
đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp
luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm trọng, Trớc tình hình đó,
TANDTC đã có Thông t số 332-NCPL ngày 04-04-1966 hớng dẫn về xử lý
hình sự đối với 8 hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ, đó là các
hành vi: tảo hôn, cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ, yêu sách
của cải trong việc cới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc
ngợc đãi vợ, đánh đập hoặc ngợc đãi con, ngợc đãi bố mẹ. Đây là văn bản
pháp lý đầu tiên hớng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm
trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Thông
t số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã đề cập về từng hành vi vi phạm nh sau:

Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông t nêu rõ:
Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt, nếu có tình
tiết nghiêm trọng nh: đã đợc chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết
phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; hoặc đã gây ảnh hởng chính trị
xấu thì có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tù treo hay tù giam. Đối tợng
xử phạt có thể là cha mẹ của đôi trai gái, ngời có trách nhiệm nuôi
9
dỡng (nếu trai hoặc gái cha đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự), hoặc
cả đôi bên trai gái (nếu họ đã đến tuổi chịu TNHS: 15 tuổi [42, tr. 465].
Thứ hai, đối với hành vi cỡng ép kết hôn, Thông t nêu rõ:
Đối với hành động cỡng ép kết hôn, vi phạm quyền tự do kết
hôn, chủ yếu là giáo dục, cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng, có
thể phạt cảnh cáo, tù treo hay tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo tảo hôn; đã đợc
chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý
vi phạm; có kèm theo đánh đập tàn nhẫn; đã gây ảnh hởng chính trị
xấu; rõ ràng là nạn nhân vì bị cỡng ép kết hôn mà sự sát [42, tr.
467].
Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ, Thông t hớng dẫn:
Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến bộ, chủ yếu
là giáo dục, cá biệt nếu có tình tiết nghiêm trọng có thể phạt cảnh
cáo, tù treo, hay tù giam nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản trở hôn
nhân tự do và tiến bộ mà tự sát, cần phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo cỡng ép kết
hôn; đã đợc chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản
mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục hình tần
nhẫn; đã gây ảnh hởng chính trị xấu [42, tr. 468].
Thứ t, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cới hỏi, tức là sự đòi
hỏi về tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rợu trong việc cới hỏi của nhà gái đối
với nhà trai với ý nghĩa là điều kiện để đợc kết hôn, Thông t hớng dẫn: "Về

mặt hình sự, nếu việc yêu sách của cải trong việc cới hỏi gắn liền với tảo hôn,
hoặc cỡng ép kết hôn, hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ thì cần chú ý kết
hợp xem xét, đánh giá trong những trờng hợp phải xử lý nạn tảo hôn, cỡng ép
kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr. 469].
10
Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông t hớng dẫn:
Đối với ngời lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành
Luật HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và
chấm dứt. Cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt
cảnh cáo hoặc tù treo hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy
vợ lẽ). Nếu bị cáo đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không
chịu cắt đứt với ngời vợ lẽ thì phải phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã đợc giáo dục, giải
thích mà vẫn cố tình vi phạm; đã đợc Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn
là bất hợp pháp mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có
tính chất lừa dối cơ quan, đoàn thể, lừa dối vợ trớc hoặc vợ sau; gây
ảnh hởng, tác hại xấu, d luận phản đối [42, tr. 470].
Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục
bất chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với ngời khác (dù là ngời
này đã có hoặc cha có vợ, có chồng), Thông t nêu rõ:
Trong tình hình xã hội miền Bắc nớc ta hiện nay, không thể
coi thông gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có
những tình tiết nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian là một
tội phạm đã xâm phạm đến quan hệ HN&GĐ đợc pháp luật bảo vệ,
đến thuần phong mỹ tục và đến trật tự xã hội.
Đờng lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là:
biện pháp ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan,
đoàn thể cần tăng cờng công tác giáo dục quần chúng về đạo đức,
xã hội mới, chống những t tởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc
do xã hội cũ để lại.

Trong một số ít trờng hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp t
pháp để làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trờng
hợp cần thiết đó là:
11
- Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những ngời vì
nhiệm vụ công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phơng
xảy ra nhiều vụ thông gian, làm ảnh hởng đến tinh thần công tác của
ngời chồng.
- Thông gian có tính chất nghiêm trọng nh: thông gian một
cách trắng trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc
của nhiều gia đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể hoặc
sự phản đối của gia đình ngời chồng, của ngời vợ, của kẻ ngoại tình
và bị quần chúng công phẫn đòi hỏi phải trừng phạt.
- Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng
nh gây ra án mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những
hành động phạm pháp nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngợc đãi vợ, tức là những hành
động của ngời chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với ngời vợ, xâm hại
đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của ngời vợ, Thông t hớng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thờng xuyên quan điểm
bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhng cần xử lý về
hình sự để hỗ trợ cho công tác giáo dục trong một số trờng hợp cần
thiết nh:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng nh làm
chết ngời, gây thơng tích nặng hoặc thơng tật lâu ngày, dẫn đến tự
sát, do bọn can phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung
ác hoặc dùng thủ đoạn thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình
tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngợc đãi cha gây tác hại nghiêm
trọng của những ngời chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh

cáo. Trờng hợp có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn,
12
có thể xử phạt cảnh cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần
thiết [42, tr. 473].
Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngợc đãi con, ngợc đãi bố mẹ,
Thông t hớng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nớc
chúng ta đòi hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dỡng cha
mẹ". Tuy nhiên, thỉnh thoảng còn xảy ra trờng hợp con cái ngợc đãi,
hắt hủi, không nuôi dỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô
đạo đức của con cái đã làm cho bố mẹ tự sát. Trong những trờng
hợp nghiêm trọng trên, cần đa ra xét xử điển hình một vài vụ để
giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dỡng bố mẹ già yếu
[42, tr. 474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông t số 332-NCPL ngày
04-04-1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phơng châm, đờng lối chung đối
với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ
là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu, kết hợp biện
pháp trừng trị đối với những trờng hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật
HN&GĐ.
1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến trớc
khi ban hành Bộ luật hình sự 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của Đảng,
nhân dân ta đã giành đợc những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực, cải
biến đợc một phần cơ cấu của nền kinh tế - xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên
cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm nh chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh
tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện đợc mục tiêu đã đề ra là ổn định
13

một cách cơ bản tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Mặt khác,
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện đợc toàn
diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nớc ta. Vì vậy, việc ban hành
BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lợc là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ
9, Quốc hội nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII, đã thông qua BLHS, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là BLHS 1985).
BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự
Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong thời gian trớc năm 1985 và dự báo đợc tình hình
tội phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm
xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng
nhất của các tàn tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc hậu
nh: cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, vi phạm chế độ một
vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngợc đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ
cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng, gia đình là thiết chế xã hội có
trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái, nhất là con cha
thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia đình,
nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các
tội phạm đối với ngời cha thành niên vào Chơng V của BLHS 1985, từ Điều
143 đến Điều 149 và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung.
BLHS 1985 đã quy định tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 144),
tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều 146), tội ngợc
đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái (Điều 147). T tởng
chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội xâm phạm chế độ
14
HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục tuân thủ pháp luật,

kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với những trờng hợp vi
phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể chia các tội
phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
bao gồm: tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi
phạm chế độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội loạn luân
và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao gồm: tội ngợc đãi nghiêm
trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái.
Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đánh
dấu sự trởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nớc ta.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
trong BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội
này nh sau:
Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ thờng phải có các tình tiết nghiêm trọng nh dùng các thủ đoạn thô bạo,
xảo quyệt nh hành hạ, ngợc đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách bằng của cải.
Thứ hai, đối tợng đợc bảo vệ chủ yếu là ngời cao tuổi, phụ nữ và con
cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hởng của tàn d t tởng phong kiến
trọng nam, khinh nữ và gia trởng xâm phạm.
Thứ ba, mức hình phạt đợc quy định đối với các tội này không cao:
mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy nhất
tội loạn luân có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Nh vậy, theo quy định
tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều
đợc coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo đã giành đợc những thành tựu quan
15
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nớc đã có nhiều khởi sắc, đợc nhân dân ta và bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích

cực, mặt trái nền kinh tế thị trờng cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực,
trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình đó, BLHS
1985, dù đã đợc sửa đổi, bổ sung 4 lần, nhng còn nhiều điểm bất cập cần phải
đợc sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, việc sửa đổi toàn diện BLHS
1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để phục vụ
đợc yêu cầu đề ra, ngày 21-12-1999, Quốc hội nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua BLHS (sau đây gọi tắt là BLHS 1999),
thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2000.
Về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, BLHS 1999 có những điểm
mới cơ bản nh sau:
Thứ nhất, Chơng XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân gia đình đợc xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chơng V của
BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội
phạm đối với ngời cha thành niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy là BLHS
1999, đã có điều chỉnh phạm vi của chơng này theo hớng thu hẹp lại chỉ còn
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội phạm đối với ngời cha thành niên,
đặc biệt là trẻ em đợc điều chuyển sang các chơng thích hợp khác.
Nh vậy, Chơng XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152).
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội
phạm, BLHS mới đã bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký kết hôn
16
trái pháp luật (Điều 149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng
(Điều 152).
Trong chơng này có một tội duy nhất vẫn đợc giữ nguyên nh quy định
của BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150).
Thứ ba, BLHS 1999 đã bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP)

của một số tội phạm theo hớng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với các
tội này. Trong lĩnh vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết
phục và hành chính để giải quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những trờng hợp
thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, hành chính tỏ ra không
có hiệu quả.
Thứ t, về tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
đợc quy định tại Điều 146.
Về cơ bản, tội này vẫn đợc giữ nguyên cấu trúc và hình phạt nh quy
định tại Điều 143 BLHS 1985, nhng có hai điểm mới là:
- Đợc bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với
tội phạm này. Điều đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại tội
phạm này.
- Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng từ
1 năm theo quy định trớc đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS 1999.
Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng đợc quy định tại
Điều 147 BLHS 1999.
Điều luật này đợc bổ sung, sửa đổi theo hớng bổ sung thêm chủ thể
của tội phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể nh sau:
- Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ ngời nào đang có vợ, có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống nh vợ chồng với ngời khác mới phải chịu
TNHS về tội này. Trên thực tế, không ít trờng hợp ngời cha có vợ, cha có
17
chồng lại kết hôn hoặc chung sống nh vợ chồng với ngời mà mình biết rõ là
đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi nguy hiểm xâm phạm chế độ một
vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của ngời khác mà cha bị pháp luật
trừng trị.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý về
hình sự cả trờng hợp ngời cha có vợ, cha có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống nh vợ chồng với ngời mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.

- Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử lý
về hình sự đối với tội này. Đó là:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hình chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn đợc quy định tại Điều 148
BLHS 1999
Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn đợc giữ nguyên nh tr-
ớc đây, nhng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "Đã bị xử phạt hành
chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự.
Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ đợc tăng từ 1 năm lên 2 năm.
Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật đợc quy định tại Điều 149
BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới đợc bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa
và trừng trị những hành vi của ngời có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn
đã biết rõ là ngời xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho
ngời đó. Tinh thần chung là chỉ xử lý về hình sự khi đã áp dụng các biện pháp
hành chính, kỷ luật mà ngời vi phạm vẫn không chịu sửa chữa lỗi lầm của
mình, tiếp tục vi phạm.
Thứ tám, về tội ngợc đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con
cháu, ngời có công nuôi dỡng mình đợc quy định tại Điều 151 BLHS 1999
18
Tội phạm này cơ bản vẫn đợc giữ nh quy định trớc đây, nhng có một
số điểm bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xã hội ta
còn xảy ra những trờng hợp hành hạ, ngợc đãi không chỉ giữa cha mẹ, vợ
chồng, con cái mà cả giữa những ngời thân thích khác trong gia đình nh giữa
cháu với ông bà, giữa cháu với cô, chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành hạ, ngợc
đãi ngay cả với ngời đã từng có công nuôi dỡng mình khôn lớn. Đây là những
hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm thô bạo đến đạo đức xã
hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình Việt Nam. Tuy
nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những ngời là cha mẹ,

vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những ngời khác trong gia đình nh đã nêu
trên thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS 1985 về tội hành hạ
ngời khác. Đây là điều không hợp lý, vì cũng là một loại hành vi phạm tội
(hành hạ, ngợc đãi) do cùng một loại chủ thể thực hiện (những ngời thân thích
trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối tợng (những ngời thân thích khác
trong gia đình) nhng lại bị xử lý ở các điều luật khác nhau. Vì thế, BLHS 1999
đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp nh sau:
- Bổ sung thêm đối tợng bị ngợc đãi, hành hạ là: ông bà, cháu và ngời
có công nuôi dỡng ngời phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tợng phải áp
dụng theo quy định của điều luật này.
- Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc xử lý
về hình sự đối với hành vi này.
- Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ đợc tăng từ 1 năm lên 3 năm.
Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng đợc quy
định tại Điều 152 BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới đợc bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng trị
những ngời có nghĩa vụ cấp dỡng theo pháp luật mà cố tình không thực hiện
nghĩa vụ đó mặc dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó, đã bị xử
19
lý hành chính hoặc gây hậu quả làm cho ngời đợc cấp dỡng lâm vào tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc những hậu quả nghiêm trọng khác.
1.2. Những quy định của bộ luật hình sự 1999 về các tội
Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ tr-
ớc hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ.
Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tợng xã hội luôn đợc các nhà
triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn
nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp

hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nớc và xã hội.
C.Mác và Ph. ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ
là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và
tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ.
Hôn nhân là hiện tợng xã hội - là sự liên kết giữa ngời đàn ông và ngời
phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và đợc biểu hiện
ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là
quan hệ giữa hai ngời khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong
việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu
tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể nói, sản xuất ra cuộc
sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống nòi là nhờ
sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối
quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội đợc xác định bởi các
quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ
thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện
20
vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có
chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân
phong kiến; xã hội t bản có chế độ hôn nhân t sản, còn xã hội XHCN có chế
độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những ngời thuộc giai cấp bị
bóc lột thờng khó có thể có quan hệ hôn nhân với những ngời thuộc giai cấp
thống trị.
Dới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự
nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa
ngời đàn ông và ngời phụ nữ, trên cơ sở yêu thơng, quý trọng lẫn nhau, bảo
đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng nh thỏa mãn
nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -16].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đa ra khái niệm hôn nhân nh sau: hôn

nhân là sự liên kết giữa một ngời đàn ông và một ngời phụ nữ trên cơ sở
nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung
sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu nh hôn nhân là
sự liên kết giữa một ngời đàn ông và một ngời phụ nữ, thì gia đình là sự liên
kết của nhiều ngời có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi d-
ỡng. Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát
triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy,
gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình
thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái
đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình của các chế độ xã
hội trớc đó. Dới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia
đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.
Nh vậy gia đình là sự liên kết của nhiều ngời dựa trên cơ sở hôn nhân,
huyết thống, nuôi dỡng, trong đó mọi ngời cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về
21
vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dới sự giúp đỡ của
Nhà nớc và xã hội.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế
độ HN&GĐ
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy
nó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm,
phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện
khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý:
tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là
hành vi do ngời có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách
có lỗi [30, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đa ra khái
niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.

Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật hình sự do
ngời có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định
thực hiện bằng lỗi cố ý gây thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và
gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự gây thiệt hại này thể hiện
đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trờng Đại học
Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành
vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam" [57, tr. 405].
Trên cơ sở các quan điểm đợc trình bày ở trên, tôi xin đa ra khái niệm
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nh sau nh sau: Các tội xâm phạm chế độ
22
hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật
hình sự, do ngời có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dới hình
thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN.
Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh
của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách
nhiệm của công dân, Nhà nớc và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ
Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều
chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên
khác trong gia đình nh giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản,
quyền sở hữu Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay
tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông
qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tơng
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó nh: tội vi phạm chế độ

một vợ một chồng, tội cỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ
cấp dỡng
Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đợc quy định
tại chơng XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội
cụ thể sau: tội cỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến
bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức
tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái pháp luật
(Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngợc đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu, ngời có công nuôi dỡng mình (Điều 151); tội hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, ngời có công nuôi dỡng mình (Điều 151); tội từ chối
nghĩa vụ cấp dỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng (Điều 152).
Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng đợc cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt
khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận
23
thức một cách sâu sắc nội dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ,
cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói trên.
Trớc hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ là một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, bởi nó là các quan hệ xã hội đợc luật hình sự bảo
vệ, bị các hành vi phạm tội xâm hại.
Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản
thiết lập chế độ HN&GĐ mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam,
các nguyên tắc này là: hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ
chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các
tôn giáo, giữa ngời theo tôn giáo với ngời không theo tôn giáo, giữa công dân
Việt Nam với ngời nớc ngoài đợc tôn trọng và pháp luật bảo vệ; vợ chồng có
nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có
nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn
kính trọng, chăm sóc, nuôi dỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng
dỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc,

giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền
tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách thể của tội phạm đều có thể
bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính nhng không có
hiệu quả.
Nếu nh khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đợc luật hình
sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì việc
gây nên những thiệt hại đó bao giờ cũng đợc thực hiện bởi hành vi cụ thể tác
động vào đối tợng bị tác động làm thay đổi trạng thái bình thờng của quan hệ
xã hội đó. Sự tác động đó có thể đợc thực hiện bằng hành động hoặc không
hành động, bằng các công cụ, phơng tiện khác nhau để gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hành vi khách
quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về hình thức thể
24
hiện, nhng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp
cho các quan hệ HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức thể hiện của
hành vi khách quan có thể là:
- Hành vi cỡng ép kết hôn.
- Hành vi cản trở kết hôn.
- Hành vi kết hôn hoặc chung sống nh vợ chồng với ngời khác (mặc dù
đang có vợ có chồng hoặc cha có vợ, có chồng nhng biết rõ ngời mà mình kết
hôn hoặc sống chung đang có vợ, có chồng)
Các hành vi khách quan này, nhìn chung đợc thực hiện bằng hình thức
hành động. Các tội phạm này có thể đợc thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác
nhau, nhng nó chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu đợc quy định cụ thể trong từng
CTTP.
Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị
xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều147,
Điều 151 và Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt
hành chính hoặc xử lý kỷ luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu khác
đợc mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà

còn vi phạm đợc hiểu là trớc đó đã có lần vi phạm, đã bị các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính nh cảnh cáo, phạt
tiền nhng cha hết thời hạn đợc coi là cha bị xử phạt hành chính mà lại có vi
phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi đợc liệt kê
trong điều luật tơng ứng đó. Cần lu ý rằng, việc xử phạt hành chính chỉ có hiệu
lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy ra sau thời hạn
một năm kể từ ngày bị xử phạt, thì không đợc coi là một trong những dấu hiệu
để truy cứu TNHS.
Tội phạm bao giờ cũng đợc thực hiện bởi những con ngời cụ thể, bởi vì
chỉ có con ngời cụ thể mới có thể thực hiện đợc hành vi nguy hiểm cho xã hội
25

×