Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh THPT trong môn Ngữ Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.88 KB, 20 trang )

Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
MỤC LỤC
Phần Tên đề mục Trang
I
Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài. 2
II.Mục đích nghiên cứu 2
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 2-3
IV.Thời gian nghiên cứu. 3
V.Phương pháp nghiên cứu. 3
VI.Bố cục. 3
II
Giải quyết vấn đề
A. Cơ sở lí luận 4
B. Thực trạng của vấn đề 4
C. Các gải pháp thực hiện: Một số kinh
nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt
cho học sinh THPT trong môn Ngữ văn.
5
I. Rèn luyện ngôn ngữ nói. 5
II. Rèn luyện ngôn ngữ viết. 5
1.Bước 1: Chỉ ra những lỗi sai cơ bản cần
tránh trong diễn đạt.
6
2.Bước 2: Hướng dẫn học sinh một số cách
diễn đạt hay, hiệu quả.
7
3.Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn,
trong đó chủ yếu là các đoạn văn.
10


III
Kết luận
I.Kết quả thực hiện 12
II.Bài học kinh nghiệm. 12
III.Ý kiến đề xuất 13
IV.Lời cảm ơn. 13
Tài liệu tham khảo. 14
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
1
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I.Lí do chọn đề tài:
1.1.Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người đọc cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác
phẩm văn học trước hết là qua cách diễn đạt của nhà văn. Những người yêu văn
chương ai mà chẳng một lần rung động trước những ngôn từ đẹp, giàu hình ảnh,
giàu sức biểu cảm, ai mà chẳng muốn thuộc lòng những câu văn hay, những bài thơ
đặc sắc. Thậm chí có người còn cất giữ chúng như thứ tài sản quý báu của mình.
Tâm lý đọc văn và học văn của học sinh THPT không nằm ngoài quy luật đó.
1.2. Tuy nhiên, trong quá trình học môn Ngữ văn, học sinh (HS) thường gặp trở
ngại trong khâu diễn đạt. Các em cho rằng: Ngữ văn là môn học rất hay nhưng rất
khó chinh phục. Nguyên nhân một phần là do nhiều em lĩnh hội được kiến thức,
phát hiện ra vấn đề nhưng lại không biết cách diễn đạt hoặc trình bày vấn đề rất
vụng về, lộn xộn. Quá trình để khắc phục hạn chế này lại rất lâu dài. Điều này dễ
dẫn đến tâm lý chán nản, bỏ cuộc đối với người học.
1.3. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, HS có nhiều cơ hội thuận lợi để
phát triển ngôn ngữ. Bên cạnh đó, các em cũng tiếp xúc và bị ảnh hưởng không ít
bởi thứ ngôn ngữ “lệch chuẩn” đang phổ biến trong học đường hiện nay. Một bộ
phận không nhỏ học sinh tỏ ra rất hào hứng với thứ ngôn ngữ này. Các em không
hề băn khoăn khi viết sai chính tả, cố tình phát âm méo mó hoặc sử dụng những từ

ngữ kém văn minh, lịch sự và mặc nhiên coi đó là ngôn ngữ “hiện đại”, “hợp mốt”.
Thậm chí nhiều HS còn có tâm lý xem thường, hoặc thờ ơ, chống đối với ngôn ngữ
học đường chính thống.
Làm thế nào để khắc phục những bất cập nói trên? Trong quá trình dạy học, tôi đã
tìm tòi và áp dụng một số biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh với
tinh thần coi đây là một khâu then chốt tháo gỡ khó khăn cơ bản đầu tiên đối với
các em trong quá trình học môn Ngữ văn.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
2
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
II.Mục đích nghiên cứu:
- Tổng hợp lại những kinh nghiệm cá nhân để tiếp tục áp dụng trong thực tiễn dạy
học.
- Gợi ra một vấn đề về phương pháp để cùng trao đổi, đánh giá với bạn bè, đồng
nghiệp.
- Đem đến cho học sinh một số cách thức rèn luyện khả năng diễn đạt trong môn
Ngữ văn.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh thuộc các khối lớp mà tôi được phân công giảng dạy từ năm 2007, cụ
thể như sau:
+ Lớp 10A1, 11A5, 11A7, 11A8 năm học 2007 – 2008.
+ Lớp 11A9, 12A2, 12A5, 12A7 năm học 2008 – 2009.
+ Các lớp A1, A2, A3, B2 ở các năm học: 2010 – 2011 và 2011- 2012.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Chương trình SGK Ngữ văn 10, 11,12 hiện hành.
IV. Thời gian nghiên cứu:
- Từ tháng 9/2007 đến tháng 3/2012.
V. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học, giao bài tập cho học sinh,
hướng dẫn học sinh luyện tập và kiểm tra, đánh giá).
VI. Bố cục:
Phần I: Mở đầu.
Phần II: Nội dung
A. Cơ sở lí luận.
B. Thực trạng của vấn đề.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
3
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
C. Các giải pháp thực hiện: Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng
diễn đạt cho học sinh THPT trong môn Ngữ văn.
Phần III. Kết luận.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
4
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Cơ sở lí luận:
Phát triển ngôn ngữ trước hết là phát triển tư duy. Ngôn ngữ phong phú tạo điều
kiện thuận lợi để biểu lộ tư duy một cách rành mạch, thấu đáo. Dạy học Ngữ văn
không thể coi nhẹ việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh (HS). Điều này vừa
giúp cho các em có thể giải mã được ý nghĩa sâu xa của ngôn từ nghệ thuật vừa học
hỏi cách diễn đạt trong văn chương để biểu đạt chính xác, thấu đáo và hấp dẫn ý
tưởng của mình. Khi bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của ngôn từ nghệ thuật, HS dễ
dàng đồng sáng tạo với tác giả văn học hoặc có nhu cầu sáng tạo độc lập.
B. Thực trạng của vấn đề:
1. Về phía học sinh:
Trong thời đại mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế như hiện nay, phát triển ngôn

ngữ cho học sinh có vai trò đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ không chỉ là phương
tiện giao tiếp trong đời sống mà còn là công cụ đắc lực cho các em trong quá trình
tìm kiếm cơ hội việc làm trong tương lai, là một trong những bí quyết đem đến
thành công cho những người năng động.
Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy có thể tạm phân loại khả năng diễn đạt của học
sinh theo một số đối tượng như sau:
- Đối tượng thứ nhất là những học sinh có khả năng tiếp thu tốt, ngôn ngữ nói rất
thành thạo nhưng ngôn ngữ viết lại hạn chế. Số học sinh này chiếm đa số ở các
trường THPT hiện nay.
- Đối tượng thứ hai là những học sinh có khả năng tư duy tốt, ngôn ngữ viết khá
hoàn thiện nhưng ngôn ngữ nói lại hạn chế. Điều này quả là bất lợi cho các em
trong học tập và giao tiếp.
- Đối tượng thứ ba là những học sinh còn nói tiếng địa phương, phát âm sai dẫn đến
viết sai.
2. Về phía giáo viên:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
5
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Ở nhiều trường THPT hiện nay, có thể nhận thấy một xu thế dạy học mang tính
thực dụng đang phổ biến: dạy để thi. Nhiều giáo viên chỉ chú ý tới việc cung cấp
kiến thức, ôn luyện các dạng đề mà coi nhẹ khâu rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh. Nhiều giáo viên chỉ chăm chút cho những học sinh khá, giỏi mà thờ ơ với
những đối tượng còn lại. Việc dạy học như vậy không phải không có hiệu quả
nhưng “ăn xổi ở thì”, chưa tạo được gốc rễ lâu bền cho người học.
Trên đây những cơ sở then chốt giúp tôi phát triển đề tài này và áp dụng vào quá
trình dạy học.
C.Các giải pháp thực hiện:
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh THPT
trong môn Ngữ văn.


Rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh là một quá trình khổ luyện của cả thầy và
trò. Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ xin trình bày ngắn gọn một số cách rèn luyện
ngôn ngữ nói và viết cho học sinh từ kinh nghiệm cá nhân.
I.Rèn luyện ngôn ngữ nói:
Để rèn luyện ngôn ngữ nói cho học sinh, tôi thường phân loại đối tượng để có cách
hướng dẫn phù hợp.
1. Đối với những học sinh có thiên bẩm về ngôn ngữ, có khả năng trình bày tốt
hoặc có giọng đọc hay, tôi thường áp dụng các biện pháp sau:
- Gọi HS đọc bài và nhận xét, điều chỉnh.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
6
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
- Gọi HS trả lời những câu hỏi hóc búa, cần đến khả năng tư duy tốt và diễn đạt phù
hợp.
- Giao cho các em nhiệm vụ phát biểu trong những sinh hoạt tập thể của lớp hoặc
nhà trường.
- Đôi khi, tôi yêu cầu các HS này đưa ra những cách diễn đạt khác nhau trước một
vấn đề để các HS khác tham khảo.
2. Đối với những học sinh nói tiếng địa phương hoặc còn nhút nhát, lúng túng khi
nói, tôi thường áp dụng các biện pháp sau:
- Gọi HS đọc bài và uốn nắn những cách phát âm chưa chuẩn.
- Gọi những HS nhút nhát phát biểu thường xuyên. Số lần phát biểu tăng dần theo
mức độ, câu hỏi cũng tăng dần về độ khó. Nếu HS lúng túng, chưa tìm được từ để
diễn đạt, tôi có thể gợi dẫn bằng một vài từ ngữ để các em trình bày.
- Giao bài tập về nhà hoặc những phần kiến thức cụ thể cho những học sinh này tìm
hiểu trước và yêu cầu các em trình bày lại trên lớp. Biện pháp này, tôi thường áp
dụng trong các giờ ôn tập hoặc tự chọn.
- Tranh thủ trong những giờ ra chơi, tôi thường gọi những học sinh này lên hỏi han,

trò chuyện để tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một vài lời khuyên cho các em trong
cách diễn đạt.
II.Rèn luyện ngôn ngữ viết:
Việc rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh, xét đến cùng là việc rèn giũa cách
dùng từ, đặt câu, triển khai đoạn văn. Trong quá trình dạy học, để làm tốt các khâu
này, tôi thường hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Chỉ ra những lỗi sai cơ bản cần tránh trong diễn đạt.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh một số cách diễn đạt hay, hiệu quả.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn, trong đó chủ yếu là các đoạn văn
thường gặp như: đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn tổng phân hợp.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
7
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Thời gian áp dụng chủ yếu là các tiết tự chọn, các buổi dạy phụ đạo. Cụ thể như
sau:
1. Bước 1. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai cơ bản trong diễn đạt, tìm ra
nguyên nhân và cách sửa.
- Tôi thường đưa ra một số lỗi sai cơ bản của học sinh trong quá trình viết bài, phân
tích và sửa mẫu cho học sinh, sau đó ra bài tập tương tự để các em thực hành và
chấm điểm.
a. Lỗi dùng từ:
- Dùng từ thiếu chính xác do không hiểu nghĩa từ hoặc đặt từ sai văn cảnh, dùng
sai thuật ngữ chuyên ngành.
Ví dụ 1: Bài thơ “Trao duyên” của Nguyễn Du
- Lỗi sai: dùng sai từ bài thơ do không hiểu thuật ngữ chuyên ngành.
- Sửa lại: đoạn trích.
Ví dụ 2: Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thật là nồng hậu.
- Lỗi sai: dùng từ nồng hậu sai văn cảnh, từ này thường chỉ dùng để chỉ tình cảm
giữa con người với con người.

- Sửa lại: nồng nàn hoặc tha thiết.
- Lỗi lặp từ, thừa từ:
Ví dụ: Trong các tác phẩm hay của nhà thơ Huy Cận, có rất nhiều tác phẩm nổi bật
và được bạn đọc yêu thích hơn cả là tác phẩm “Tràng giang”.
- Lỗi sai: lặp từ tác phẩm, các từ thừa, rườm rà: hay, nổi bật
- Sửa lại: Trong những bài thơ hay của Huy Cận,“Tràng giang” được bạn đọc yêu
thích hơn cả.
b. Lỗi ngữ pháp:
- Viết câu thiếu thành phần chính.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
8
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Ví dụ: Chiếc áo mà mẹ tôi mới may.
- Lỗi sai: thiếu vị ngữ.
- Sửa lại: Chiếc áo mà mẹ tôi mới may rất đẹp.
- Lỗi về liên kết câu.
Ví dụ: Nguyễn Trãi là một nhà chính trị tài ba. Thơ của ông rất đặc sắc.
- Lỗi sai: thiếu liên kết về ý, câu đầu đang giới thiệu về tài chính trị của Nguyễn
Trãi. Câu sau lại bàn về giá trị thơ Nguyễn Trãi.
- Sửa lại: Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ
xuất sắc với nhiều tác phẩm để đời.
c. Lỗi chính tả:
- Viết hoa tuỳ tiện, viết tắt, viết số không đúng quy định, nhầm lẫn phụ âm: s, x, d,
r, gi, ch, tr
Ví dụ: 2 câu thơ đầu là những rai điệu chầm bổng Làm say Đắm lòng người.
- Lỗi sai: viết số (2), viết hoa tuỳ tiện (Làm, Đắm), nhầm lẫn các phụ âm (r, ch)
- Sửa lại: Hai câu thơ đầu là những giai điệu trầm bổng làm say đắm lòng người.
d. Lạm dụng văn nói trong bài làm văn.
Ví dụ: Ôi! Trái tim nhà thơ thật tuyệt! Nó trao gửi yêu thương qua những lời thơ

mới hấp dẫn làm sao!
- Sửa lại: Nhà thơ trao gửi yêu thương qua những vần thơ đẹp.
+ Họ tập dượt quân sự ở đâu, lúc nào ta không cần biết làm gì, chỉ cần biết là khi ra
trận họ đã chiến đấu hết chê.
- Sửa lại: Không rõ họ đã tập luyện từ khi nào, nhưng khi ra trận, họ đã chiến đấu
như những người lính thực thụ.
2. Bước 2. Hướng dẫn học sinh một số cách diễn đạt hay, hiệu quả.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
9
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng này, tôi thường đưa ra một số ví dụ điển hình,
phân tích để các em học tập. Yêu cầu ban đầu sẽ dừng lại ở mức bắt chước sau đó
nâng dần mức độ, đòi hỏi học sinh phải có cách diễn đạt sáng tạo, hấp dẫn.
a. Dùng từ chính xác, có hình ảnh và phong phú, linh hoạt:
Ví dụ:
- Từ trong lãng quên sâu như vực thẳm, nổi lên hình bóng cô gái Ba Lan kiêu kỳ.
- Đức giám mục Mirien đem đến cho Giăng Vangiăng một bình minh đạo hạnh,
còn Coset đem đến cho ông một bình minh trìu mến.
- Những người nông dân ấy đã phải sống quằn quại trong lòng chảo bỏng rát của
xã hội xấu xa.
- Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết
cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con
người.
Đối với trường hợp này tôi thường hướng dẫn học sinh cách huy động các từ
đồng nghĩa, gần nghĩa khi diễn đạt để có thể lựa chọn từ ngữ thích hợp, ưng ý.
Ví dụ:
- Thay vì quên, có thể dùng quên lãng, chôn vùi, tro tàn nguội lạnh, thay vì cuộc
tranh luận quyết liệt hãy dùng: cuộc tranh luận toé lửa.
- Dùng một từ có ý nghĩa chờ đợi, có thể huy động một loạt các từ ngữ cùng trường

nghĩa như: mong, chờ, hy vọng gặp, đợi mỏi mòn, trông ngóng
- kỷ niệm có lúc dùng: hoài niệm, ký ức, khung trời xưa cũ
b. Sử dụng lối liên tưởng, so sánh để tăng hiệu quả diễn đạt:
Ví dụ:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
10
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
+ Tsêkhôp là con chim linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ vĩ đại nước Nga.
Ông là cái sáo diều vĩ đại trên đôi cánh âm vang tiếng nói của hiện thực và nhịp
thơ của lãng mạn.
+ V.Huygô là cây sồi già với tán lá xanh ngắt và cảm hứng nghệ thuật không bao
giờ vơi cạn.
+ Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng có một cái gì rất gần gũi với thần thoại,
cổ tích, truyện Tàu, lại giông giống như thế giới bão giông của những trường ca,
những thiên truyện ngắn lãng mạn, của M.Gorki hay tiểu thuyết của Huygô, trong
đó có sự đối lập dữ dội giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bão táp và nắng vàng, giữa
quỷ dữ và thiên thần, giữa địa ngục và lò lửa
c. Viết câu văn biến hoá, linh hoạt, kết hợp nhiều kiểu câu:
Ví dụ: Con đò mồ côi trong bài thơ "Bến đò xuân đầu trại" (Ức Trai thi tập) để lại
trong lòng ta nhiều ám ảnh. Giữa ngày mưa xuân, cả một vùng quê sắc cỏ mượt mà
"xanh như khói". Dòng sông nước dâng đầy, gió thổi, "sóng vỗ trời". Cả một không
gian bao la êm đềm tĩnh lặng, không một bóng người lại qua. Chỉ có con đò mồ côi
gối đầu lên bãi cát nằm nghỉ:
"Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách,
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi".
Mưa buồn, cảnh buồn, con đò mồ côi buồn. Một tâm hồn thanh cao đang trải qua
những ngày mưa buồn. Đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều mưa, thơ ông thấm đầy
mưa
- Để học sinh có thể học hỏi kiểu diễn đạt này, tôi gợi ý cho các em qua một hệ

thống câu hỏi:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
11
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
+ Trong đoạn văn trên, người viết đã sử dụng những kiểu câu nào?
+ Tác dụng của việc đan xen những kiểu câu đó là gì?
Từ đó các em có thể nắm bắt quy luật của hiện tượng để vận dụng.
d. Sử dụng kiểu câu trùng điệp:
Ví dụ:
Tình yêu thương đọng lại trong đôi mắt xanh ngời của thiếu phụ vượt cạn giữa
nạn đói ("Một con người ra đời"- M. Gorki) , trong cơn hấp hối tưởng đã cạn lời của
người cha bao dung (Giăng Vangiăng trong "Những người khốn khổ" - V. Huygô) :
"Trên đời chỉ có một điều ấy thôi. Đó là thương yêu nhau" , trong sự ăn năn chân
thành của một lão nông vì "đã trót lừa một con chó" (Lão Hạc - Nam Cao) , trong
bát cháo hành xoàng xĩnh của cô gái xấu như ma chê quỷ hờn mà lòng đầy trắc ẩn
(Thị Nở trong "Chí Phèo" - Nam Cao) Nẻo về yêu thương có muôn ngàn lối rẽ
nhưng đó là con đường rộng mở nhất, đã đi là sẽ đến. Nó không phải không có
chông gai, nhọc nhằn nhưng ở đó, con người có thể vượt lên lên sự bon chen phù
phiếm, đến với nhau bởi hai tiếng chân tình.
Đây là kiểu câu tương đối khó, để viết thành công học sinh cần phải có kiến thức
và vốn từ phong phú, khả năng tư duy mạch lạc, nếu không dễ rơi vào chỗ luẩn
quẩn. Để hướng dẫn học sinh, tôi thường sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở:
Câu hỏi 1. Theo em, phần bổ ngữ của câu văn trên được tạo thành bởi mấy vế ?
Câu hỏi 2. Cách sắp xếp các vế có gì đặc biệt(theo thứ tự tăng dần)? Nếu đảo vế
cuối lên vế đầu có được không?(không tương ứng về cách sắp xếp kiến thức, hai
nhân vật người mẹ và Giăng Vangiăng là kiến thức văn học thế giới)
Từ đó, học sinh có thể hiểu cách tạo câu này và học hỏi.
e. Sử dụng các câu văn biểu cảm để thể hiện cảm xúc:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1

12
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Ví dụ: Cảnh cũ, người xưa quen thuộc quá! Trái tim đứa con xa xứ nay trở về bỗng
thắt lại! Có cái gì vừa quen thuộc, thân thương, nồng ấm, xúc động vì được bao bọc
và chở che, được chào đón trong vòng tay giang rộng lại như có cái gì hối lỗi, ân
hận, xót xa, ngậm ngùi vì đã lâu lắm không về thăm quê mẹ.
h. Sử dụng các thành ngữ, quán ngữ, đề ngữ:
Ví dụ 1: Một không khí buồn đến nhức xương được gợi lên từ thân phận một con
người sống thì như trâu, như chó, chết thì như con giun, con dế ở một xó vườn
hoang (Văn - Bồi dưỡng HS giỏi – Nguyễn Đăng Mạnh – Đỗ Ngọc Thống - tập1).
Ví dụ 2: Như một bản tình ca bất tận, bài thơ gieo vào lòng người đọc những cảm
xúc nồng nàn, say đắm về tình yêu đôi lứa.
i. Tạo giọng điệu riêng và biến đổi linh hoạt theo từng đối tượng cụ thể:
Người học văn bao giờ cũng mong muốn thể hiện được cá tính qua cách diễn
đạt. Tôi thường định hướng cho học sinh tạo cho mình một giọng văn riêng, tuỳ
theo cá tính và khả năng diễn đạt của mỗi em, có thể đó là giọng nghiêm trang, có
thể là giọng văn dí dỏm, có thể là giọng văn thiết tha, hoặc giọng sôi nổi… Tuy
nhiên, tuỳ theo mỗi đối tượng mà điều chỉnh cho phù hợp, học sinh có thể mô
phỏng, bắt chước lối diễn đạt của một tác giả, tác phẩm nào đó khi phân tích .
Chẳng hạn, khi viết về Vũ Trọng Phụng nên tạo chất giọng hài hước, mỉa mai; khi
viết về Thạch Lam, nên tạo chất giọng điềm tĩnh, nhỏ nhẹ, thủ thỉ, tâm tình; viết về
thơ Tản Đà nên có chất giọng phóng túng pha chút kiêu bạc; viết về thơ Tố Hữu
nên có giọng sôi nổi, thiết tha, thương mến…
* * *
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
13
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Bên cạnh việc hướng dẫn các cách diễn đạt hay, tôi thường lưu ý học sinh nên

sưu tầm, ghi chép lại những câu thơ, câu văn đặc sắc để làm giàu thêm vốn từ và
cũng là để học hỏi cách diễn đạt của người khác.
h. Cách xưng hô:
Trong bài làm văn, tôi khuyến khích học sinh bộc lộ cá tính qua cách xưng hô.
Tuy vậy, cách xưng hô cần phải linh hoạt mới không tạo sự nhàm chán.
- học sinh có thể tự xưng: tôi, chúng ta, ta, người đọc, những người yêu văn
chương, hậu thế…
- xưng hô với tác giả: nhà thơ, thi sĩ, thi nhân, người thơ, người con của nghệ
thuật
- xưng hô với nhân vật: Chí Phèo: y gã, hắn, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tên
rạch mặt ăn vạ, kẻ cùng đinh( tha hoá), anh, anh ta, con người đáng thương ấy
- trong cách xưng hô, có thể tạo ra những cuộc tranh luận ngầm với người khác: tôi
nghĩ rằng, tôi cho rằng, thiết nghĩ, điều ấy đã rõ, như vậy, như thế, phải chăng,
dường như, hay chăng…
3. Bước 3. Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn:
Ở khâu này, tôi chủ yếu hướng học sinh viết một số kiểu đoạn văn phổ biến như
sau: đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn tổng phân hợp. Tôi thường đưa ra ví dụ cụ
thể, yêu cầu học sinh phân tích bằng một hệ thống câu hỏi để các em nắm được bố
cục và cách triển khai đoạn văn theo từng dạng, sau đó giao bài tập tương tự cho
các em và chấm điểm.
a. Đoạn diễn dịch:
Ví dụ: Đọc văn Nguyễn Du, tôi thường dừng lại bồi hồi về những bóng trăng trong
thơ ông. Trăng soi người biệt li “nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”; trăng gợi
một kỷ niệm tình cũ đau buốt “Mày ai trăng mới in ngần”. Lãng đãng trên các
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
14
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
trang Kiều, người ta vẫn gặp những vầng trăng xao xuyến lòng người. Ở nơi khác,
trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du vẫn nói về trăng có câu như sau đây:

Lá cùng đường trăng lại đến thăm ta
Ba mươi năm trăng theo ta suốt chân trời góc biển.
Đọc hai câu thơ trên, tôi bàng hoàng nghiệm ra rằng nếu không có ba mươi năm
“chân trời góc biển” kia thì làm sao có được vầng trăng ấy trong Truyện Kiều.
(Hoàng Phủ Ngọc Tường).
- Phân tích ví dụ bằng một hệ thống câu hỏi:
+ Câu văn nào là câu chủ đề?
+ Các câu văn còn lại có nhiệm vụ gì, có liên quan gì đến câu đầu?
+ Hãy nêu bố cục của một đoạn văn diễn dịch?
- Bài tập: Hãy viết một đoạn diễn dịch về chủ đề “đôi vai”.
b. Đoạn quy nạp:
Ví dụ : Khi đọc đến câu “Sống trong cát chết vùi trong cát”, tôi tưởng chừng nghe
lại câu nói ghê người của kinh thánh đạo Gia Tô: “Thân cát bụi trở về cát bụi”,
một câu nói đè nặng lên cuộc sống của hàng triệu triệu người trong hàng nghìn
năm và cũng đè nặng lên đời sống của tôi trong những năm dài thê thảm. Tôi có
cảm giác như lại sắp rơi vào vực thẳm của những tư tưởng chán chường, tuyệt
vọng. Tôi không ngờ tiếp theo đó lại là câu: “Những trái tim như ngọc sáng
ngời”. Bàn tay rất khoẻ của nhà thơ đã giữ tôi cùng đứng lại với anh trên miệng
vực. Thiếu nhiệt tình, thiếu lạc quan cách mạng, không thể đứng vững như thế này
ở nơi biên giới giữa thiên đường và địa ngục. (Hoài Thanh – Tạp chí nghiên cứu
văn học, số 8/1962)
- Phân tích ví dụ bằng một hệ thống câu hỏi:
+ Câu văn nào là câu chủ đề?
+ Các câu văn trước đó có nhiệm vụ gì, có liên quan gì đến câu chủ đề?
+ Hãy nêu bố cục của một đoạn quy nạp?
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
15
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
- Bài tập: Viết một đoạn văn quy nạp phân tích hai câu thơ sau:

Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
c.Đoạn tổng - phân - hợp:
Ví dụ: Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò của hai nguồn thi cảm. Thế Lữ đã băn khoăn
trước hai nẻo đường: nẻo về quá khứ với mơ mộng, nẻo đến tương lai và thực tế.
Đáng lẽ Thế Lữ nên rẽ nẻo thứ hai này. Sau một hồi mộng mị vẩn vơ, thơ Thế Lữ
như một luồng gió lạ xui người ta biết say sưa với cái sán lạn của cuộc đời thực
tế, biết cười cùng hoa nở chim kêu, biết yêu và biết yêu tình yêu. Thế Lữ đã làm
giáo sư dạy khoa tình ái cho cả một thời đại.(Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam).
- Phân tích ví dụ bằng một hệ thống câu hỏi:
+ Những câu văn nào có thể xem là câu chủ đề? Vai trò của mỗi câu trong đoạn
văn?
+ Các câu văn giữa có nhiệm vụ gì, có liên quan gì đến các câu chủ đề?
+ Hãy nêu bố cục của một đoạn tổng – phân – hợp?
- Bài tập: Viết một đoạn tổng phân hợp (chủ đề tự chọn).
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. Kết quả thực hiện:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
16
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Sau thời gian năm năm áp dụng các biện pháp nói trên, bước đầu tôi đã thu được
những kết quả khả quan. Cụ thể:
1. Những HS phát âm sai khi nói, đọc hoặc sai chính tả, ngữ pháp trong bài viết đã
dần có ý thức tự sửa chữa. Cá biệt có một vài em đã vượt lên chính mình, gần như
rất ít khi mắc lỗi.
2. Những học sinh hay nhút nhát khi nói trước tập thể cũng đã bớt lúng túng hơn và
dễ dàng biểu đạt ý tưởng khi trả lời câu hỏi của giáo viên.
3. Những học sinh có thiên bẩm về diễn đạt ngày càng hứng thú hơn với những
cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Các em coi đó cũng là một cách để thể hiện cá tính

của mình.
4. Dưới đây là khảo sát của một số lớp trước và sau khi tôi rèn luyện kỹ năng diễn
đạt cho học sinh năm học 2010 – 2011:
- Trước khi thực hiện:
Lớp Sĩ số Dưới TB TB Khá, giỏi
10A1 45 11(24%) 26(58%) 8(18%)
10A2 43 13(30%) 20(47%) 10(23%)
10A3 43 15(35%) 21(49%) 7(16%)
11B2 42 12(28%) 23(55%) 7(17%)
- Sau khi thực hiện:
Lớp Sĩ số Dưới TB TB Khá, giỏi
10A1 45 8(18%) 25(55%) 12(27%)
10A2 43 10(23%) 20(47%) 13(30%)
10A3 43 11(26%) 22(51%) 10(23%)
11B2 42 9(22%) 22(52%) 11(26%)
II.Bài học kinh nghiệm:
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
17
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
Qua quá trình thực nghiệm, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm quý báu cho việc rèn
luyện rèn luyện kỹ năng diễn đạt của học sinh như sau:
1. Các biện pháp trên có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh, ở nhiều cấp
học.
2. Muốn rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, bản thân thầy cô phải tự rèn giũa lời
ăn, tiếng nói, cách phát âm, cách đọc, lời giảng của mình để ngày càng đạt đến độ
mẫu mực.
3. Giáo viên cần định hướng rõ cho học sinh: không nên quá chú trọng khâu diễn
đạt mà bỏ quên sự mạch lạc về ý. Ngôn ngữ diễn đạt chỉ là phương tiện để triển
khai ý.

III.Ý kiến đề xuất:
- Cần có thêm một số tiết rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong chương
trình Ngữ văn THPT.
IV.Lời cảm ơn:
Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, còn nhiều hạn chế, bất cập. Tôi
rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, hội đồng khoa học của nhà trường
và những thông tin phản hồi từ học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới BGH nhà trường, tổ chuyên môn, các bạn bè đồng
nghiệp và học sinh ở nhiều khối lớp, nhiều khoá học trong những năm qua đã nhiệt
tình quan tâm, hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này./
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
18
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:
1. Ba bộ sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11,12 hiện hành – NXB Giáo dục.
2. Hai bộ SGK Ngữ văn 8 và 9 hiện hành – NXBGD.
Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
19
Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho
học sinh THPT trong môn Ngữ văn
3. Văn - Bồi dưỡng học sinh giỏi– Nguyễn Đăng Mạnh – Đỗ Ngọc Thống (tập
1) – NXB ĐHQG Hà Nội.
4. Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân.
5. Muốn viết được bài văn hay – Nguyễn Đăng Mạnh.
6. Các chuyên đề “Cách làm bài thi môn văn đạt điểm cao” của thạc sĩ Phạm
Hữu Cường trên báo điện tử “Tiền phong online”.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày10 tháng 4 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Pham Ngọc Hà

Phạm Ngọc Hà – THPT Nông Cống 1
20

×