Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

SKKN Rèn luyện kĩ năng tự học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10 – THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.74 KB, 87 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"RÈN LUYỆN KN TỰ HỌC CHO HS TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
LỚP 10 – THPT"

DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
1 BSL Bảng số liệu
2 CN Công nghiệp
3 CNTT Công nghệ thông tin
4 GV Giáo viên
5 HS Học sinh
6 KN Kỹ năng
7 PP Phương pháp
8 SĐTD Sơ đồ tư duy
9 THPT Trung học phổ thông
MỤC LỤC
Số
trang
MỞ ĐẦU 1
1.Đặt vấn đề 1
2.Mục đích, nhiệm vụ đề tài 3
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3
4.Phương pháp nghiên cứu 3
NỘI DUNG 5
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
LỚP 10 – THPT
5
1.1.Cơ sở lý luận 5
1.2.Cơ sở thực tiễn 6
II.RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG


DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 10 – THPT
9
2.1.Quy trình rèn luyện kĩ năng tự học 9
2.1.Tổ chức rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh qua môn Địa lí 10
2.2.1.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trên lớp 10
2.2.2.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ngoài lớp 39
2.2.3.Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở nhà 44
III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 66
3.1.Chuẩn bị thực nghiệm 66
3.2.Đánh giá thực nghiệm 66
KẾT LUẬN 71
KIẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề.
Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn: cách mạng khoa
học - công nghệ và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như
vũ bão với tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người, thúc đẩy nhiều lĩnh vực
có những bước tiến mạnh mẽ và đang mở ra những triển vọng lớn lao khi nhân loại
bước sang thế kỷ XXI. Nhưng, song hành với đó là nhiều thách thức mà loài người cần
vượt qua. Thực tế đó đòi hỏi con người, trong bất cứ môi trường nào cũng cần có đủ
năng lực, sáng tạo, tinh thần tự chủ, ý chí vươn lên, có KN vững chắc, ý thức nghề
nghiệp để giải quyết “trúng, nhanh, sáng tạo” các nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
Thời đại đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới nền giáo dục “biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, đây là quy luật cơ bản nhất để đạt được mục tiêu đào tạo.
Về triết học đó là sự biến tác động từ bên ngoài thành động lực tự thân vận động
trong nhân cách HS”
(1)
Đảng ta đã ý thức sâu sắc về sức mạnh nội lực của con người và coi việc giáo
dục phát triển nguồn lực con người là “quốc sách hàng đầu” như chủ Tịch Hồ Chí

Minh đã nói “Vì hạnh phúc mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng
người”. Đổi mới nền giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục mà quy
luật của chất lượng là phát huy tối đa nội lực. Trong các văn kiện Đại Hội VIII (12-
1995), Đảng đã xác định rõ “Đổi mới nội dung, chương trình, PP giáo dục theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tu
dưỡng đạo đức, tự tạo việc làm”. Nhằm thực hiện mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Để tạo ra “những con người lao động tự chủ, năng
động, sáng tạo” đáp ứng được yêu cầu của thời đại, có tri thức khoa học cao, có KN
hành động và tư duy thực tiễn, có PP tự học. Nghị quyết trung ương 2 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII ghi đậm những câu sau “Đổi mới mạnh mẽ PP giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học…Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo”. Điểm 2, điều 4,
chương I của Luật giáo dục có ghi “PP giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm tới phát huy “nội lực” của người học trong đó
lấy tự học làm cốt - đây là con đường cơ bản và đúng đắn, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp phát triển của đất nước. Ta cũng đã quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo tuy
nhiên, “bây giờ so với nhiều nước trong khu vực thì phải thừa nhận sự phát triển giáo
dục nước ta còn nhiều mặt thua kém, đang có nguy cơ tụt hậu. Kết quả thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, chương trình, PP đào tạo còn có những hạn chế”
(2)
.
Thực tế trong dạy học nói chung, dạy và học Địa lí lớp 10 –THPT nói riêng chưa phát
huy tốt nội lực của người học. HS vẫn học theo lối ghi máy móc, học thuộc, học nhồi
nhét, học thụ động, khả năng “tự học”- một nội lực phi thường ở HS vẫn tồn tại dưới
dạng tiềm năng. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng đó là nhiều
GV chưa chú ý hướng dẫn cho HS cách tự học, chưa chú trọng giáo dục rèn luyện KN
tự học cho HS.
Đặc trưng của môn Địa lí trong nhà trường phổ thông mang tính chất tổng hợp

và có tính liên ngành, kiến thức Địa lí rộng nhưng thời gian học trên lớp chỉ có giới
hạn. Vậy nên, việc rèn luyện cho HS KN tự học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp
giải quyết nghịch lý trên, làm khơi dậy tiềm năng đang ẩn trong từng con người
“giống như cây về mùa đông, tuy trụi lá nhưng nhựa sống vẫn còn đó, chỉ đợi hơi ấm
mùa xuân là sẽ vận chuyển trong cây, làm cho cây đâm trồi nảy lộc”
(3)
.
Đối với HS lớp 10, việc rèn luyện cho các em KN tự học nhằm biến “quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập môn Địa lí,
từ đó nâng cao “năng lực tự học”, phục vụ đắc lực không chỉ trong quá trình học tập
mà còn cho hoạt động lao động, sản xuất.
Như vậy, rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí cũng như những môn
học khác có vai trò quan trọng, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà
nước. Vậy nên, tôi lựa chọn đề tài: “Rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa
lí lớp 10 – THPT”. Với mong muốn góp sức mình vào việc rèn luyện kĩ năng tự học
của học sinh – cơ sở hình thành năng lực tự học.
2.Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
2.1. Mục đích.
Rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10 – THPT nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, góp phần nâng cao hiệu quả học tập
môn Địa lí ở nhà trường phổ thông.
2.2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn luyện KN tự học cho HS trong
dạy học Địa lí lớp 10.
- Đưa ra quy trình rèn luyện kỹ năng tự học.
- Tổ chức rèn luyện KN tự học cho HS trong dạy học Địa lí lớp 10.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm việc rèn luyện KN tự học cho HS.
- Từ kết quả đạt được đề tài đưa ra các kiến nghị, đề xuất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng.

Kỹ năng tự học Địa lí cho HS lớp 10 – THPT.
3.2. Phạm vi.
- Đối tượng là HS lớp 10 – THPT.
- Chương trình Địa lí lớp 10 (chương trình cơ bản).
- Tập trung nghiên cứu tự học của HS trên lớp, ngoài lớp và ở nhà.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin
Tài liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau như: SGK, sách tham khảo, khóa
luận tốt nghiệp, các trang web có nội dung liên quan, các tạp chí giáo dục…sau đó tiến
hành phân tích, so sánh, chọn lọc nội dung phù hợp để giải quyết các nhiệm vụ. Thời
gian tiến hành: từ 8/2/2013 – 3/3/2014.
4.2. Phương pháp quan sát, điều tra thực tế
Tổ chức điều tra thực tế bằng phiếu hỏi (150 phiếu hỏi được phát cho 150 HS lớp
12) và quan sát thực tế trong các tiết dự giờ. Nhằm đưa ra những luận chứng quan
trọng, khách quan, chính xác về thực trạng tự học của HS lớp 10
Địa điểm quan sát, điều tra: trường THPT Trần Quang Khải – tỉnh Hưng Yên,
trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình.
Thời gian thực hiện: từ 8/2/2013-29/3/2013 tại trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh
Thái Bình và từ ngày 12/1/2014 – 3/3/2014 tại trường THPT Trần Quang Khải – tỉnh
Hưng Yên.
5.3. Phương pháp toán học
Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lí các kết quả thu được từ thực
nghiệm sư phạm, điều tra, nhằm làm tăng tính chính xác, khách quan, tính thuyết phục
cho kết quả nghiên cứu.
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
PP được sử dụng để đánh giá tính khả thi của đề tài. Tác giả thực nghiệm tại
trường THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình từ ngày 8/2/2013 - 29/3/2013 và trường
THPT Trần Quang Khải – tỉnh Hưng Yên từ ngày12/1/2014 – 3/3/2014. Sau đó phân
tích cả định tính và định lượng kết quả thực nghiệm sư phạm và rút ra kết luận của đề
tài.

Kế hoạch thực hiện các phương pháp trên, đặc biệt là phương pháp thực
nghiệm tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 10 – THPT.
1.1.Cơ sở lý luận.
Khái niệm hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học.
Trên cơ sở các quan điểm về hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học của nhiều
chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước về lĩnh vực này, tác giả đưa ra quan điểm
của mình về hoạt động học, tự học, kĩ năng tự học.
- Hoạt động học: là hoạt động được tổ chức một cách độc đáo, được điều khiển
bởi mục đích tự giác nhằm lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kĩ xảo, những hành vi xác định
để hình thành khối lượng tri thức khoa học nhằm phát triển toàn diện nhân cách người
học.
- Tự học: cốt lõi của “học” là “tự học”, nhờ tự học mà “nội lực” được phát huy
mạnh mẽ. Tự học là quá trình cá nhân người học tự lực, tự giác, tích cực, độc lập,
nhằm chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm ở một lĩnh vực nào đó trong học tập nhằm hình
thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Tự học là một hình thức học tập có tính độc
lập cao và đậm sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội
dung của tự học rất phong phú, bao gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân
và có khi cả tập thể HS tiến hành ngoài giờ, hoặc do bản thân HS tiến hành ngay trong
giờ học trên lớp như: đọc sách, làm bài tập, làm thí nghiệm, tự suy nghĩ, tự “động
não”…
- Kỹ năng tự học: là hệ thống phương thức hành động thể hiện hành động tự
học, những thao tác tự học được người học sử dụng một cách có ý thức tự lực, độc lập
trên cơ sở lựa chọn và vận dụng những tri thức kinh nghiệm đã có để thực hiện có kết
quả mục tiêu học tập đề ra và phù hợp với những điều kiện cho phép.
Hệ thống KN tự học như: KN lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, đọc sách, ghi
chép, hệ thống hóa, KN làm các bài tập, tự kiểm tra đánh giá, KN ôn tập, kiểm tra, KN
vận dụng kiến thức vào thực tiễn…

KN Địa lí: là hệ thống phương thức hành động mà HS hoàn thành một cách có
ý thức, trên cơ sở những kiến thức Địa lí đã có.
Trong học tập bộ môn Địa lý ở nhà trường phổ thông có nhiều KN như:
+ Kỹ năng sử dụng BĐ, biểu đồ, BSL, tranh ảnh.
+ Kỹ năng đọc – ghi chép sách, tài liệu tham khảo.
+ Kỹ năng làm việc với các tài liệu tham khảo (sách, báo, tạp chí…).
+ Kỹ năng làm các bài tập Địa lý.
+ Kỹ năng lập kế hoạch.
+ Kỹ năng sử dụng CNTT.
+ Kỹ năng ôn tập – kiểm tra.
+ Kỹ năng trình bày thông tin Địa lí, xây dựng báo cáo Địa lí…
Rèn luyện kỹ năng tự học nhằm hướng tới cái đích cao hơn là hình thành năng
lực tự học, đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, giúp HS có thể học mọi lúc, mọi nơi,
mọi hoàn cảnh và tự học suốt đời như lời khẳng định của Lê nin “học, học nữa, học
mãi”.
Tác giả còn dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đổi mới phương
pháp dạy học ở nhà trường phổ thông nói chung; môn Địa lí nói riêng; mô hình “dạy –
tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn…làm cơ sở lý luận.
1.2.Cơ sở thực tiễn.
Ngoài cơ sở thực tiễn là mục tiêu, cấu trúc, nội dung chương trình Địa lí lớp 10 -
THPT; đặc điểm tâm, sinh lý, nhận thức của học sinh lớp 10; tác giả còn tiến hành dự
giờ tiết học, phát phiếu hỏi cho HS tại trường THPT Trần Quang Khải và trường
THPT Lê Qúy Đôn – tỉnh Thái Bình để thăm dò ý kiến và khảo sát kỹ năng tự học của
các em, kết quả nhận thấy:
Quan sát thấy trong các giờ học, GV còn ít áp dụng các PP, kĩ thuật dạy học hiện
đại, chủ yếu sử dụng PP diễn giảng; PP đặt câu hỏi được sử dụng nhưng với lượng thời
gian không nhiều.
Theo quan sát thấy: mỗi lần GV đặt câu hỏi, HS vội nhìn SGK tìm đúng chỗ GV
hỏi, để khi được gọi đứng lên thì đọc nguyên văn và không có ý kiến cá nhân, không
có sự sáng tạo. Tuy những câu hỏi mang tính chất tái hiện là không thể thiếu nhưng

không thể chỉ dừng lại ở đó. Tái hiện để làm gì? Đó mới là điều cần phải có. Với hệ
thống câu hỏi còn thiên về nêu, trình bày vấn đề, GV khó có thể tạo cho HS tính tích
cực, hứng thú học tập và khơi dậy óc sáng tạo, khó khuyến khích HS tự làm việc với
SGK, tự tìm hiểu qua những tư liệu liên quan đến bài học để hôm sau cùng cô giáo,
bạn bè tranh luận. Vì thế, GV càng khó hình thành cho các em ý thức tự học, tự đọc, tự
nghiên cứu bài học bằng khả năng của mình một cách khoa học và hệ thống.
Cũng qua quan sát thấy: sự trao đổi thảo luận giữa HS – GV, HS – HS còn hạn
chế. Chính điều này khiến HS thờ ơ với giờ học, hình thành thói quen ỷ lại, lười suy
nghĩ. GV chỉ đưa ra một câu hỏi chệch SGK đòi hỏi tư duy là nhiều em không trả lời
được. Trong trường hợp HS không trả lời được thì GV cần dẫn dắt các em để chính
HS tìm ra câu trả lời nhưng ngược lại, GV lại cho HS ngồi xuống và tự thuyết trình.
Kết quả này cốt lõi bắt nguồn từ việc người thầy chưa khơi dạy đúng nhu cầu và
nguyện vọng của HS để cuốn các em vào cuộc và khai thác được tiềm năng trong mỗi
người học.
Nghe và ghi chép là công việc chủ yếu của HS trong các giờ học, nhưng có em
cả giờ chỉ chép được những đề mục cô giáo ghi trên bảng. Các em không biết ghi gì
trong chuỗi lời giảng của thầy hoặc thầy đọc nhanh các em không kịp chép. Nắm được
bài học theo cách này đã khó, thì các em khó có hứng thú để tìm tòi, học hỏi, nghiên
cứu sâu hơn bài học của mình để mở rộng kiến thức.
Đối với những câu hỏi của GV đưa ra trong các giờ học, HS phần lớn được chỉ
định để trả lời. Sự miễn cưỡng khi phải đứng lên trả lời khiến các em trả lời qua loa và
chống đối. Không phải không có những HS xung phong phát biểu và trả lời xuất sắc.
Nhưng, những trường hợp đó gần như cá biệt, vào những câu hỏi tái hiện các em chỉ
việc đọc lại SGK. Còn những câu hỏi yêu cầu có sự suy nghĩ, tư duy, phân tích thì hầu
như các em đứng yên hoặc nếu có trả lời thì nhanh cho xong. Có lẽ GV chưa gợi được
hứng thú học tập cho các em, chưa tạo được tâm thế hứng khởi cho giờ học, chưa
khuyến khích được sự tích cực, năng động trong tư duy của HS. Các em chưa phát huy
hết khả năng sáng tạo và kinh nghiệm của mình trong tiếp nhận bài học .
HS lười học bài cũ, không chuẩn bị bài mới là trường hợp phổ biến. Có HS cho
biết chưa từng đọc trước bài. Nếu có học bài cũ thì cũng chỉ cần học thuộc phần GV

cho ghi…Một trong những nguyên nhân cũng xuất phát từ phía GV: khi soạn giáo án
chưa chú trọng tới “hoạt động nối tiếp” và cũng không hướng dẫn HS cách ghi nhớ, ôn
bài…
Cách dạy và học như vậy nên các KN tự học môn Địa lí của HS còn nhiều hạn
chế.
Bảng: Mức độ thực hiện các kỹ năng tự học
Đơn vị (%)
Các kỹ năng tự học Mực 4 Mức 3 Mức 2 Mức 1
Kỹ năng lập kế hoạch tự học 0 10 30 60
Kỹ năng đọc sách, tài liệu 0 30 50 20
Kỹ năng ghi chép bài 30 50 20 0
Kỹ năng sử dụng SĐTD 0 0 20 80
Kỹ năng ôn tập 20 50 20 10
Kỹ năng ghi nhớ 0 20 50 30
Kỹ năng hoàn thiện các bài tập 20 40 20 20
Kỹ năng làm đề cương bài học 10 40 20 20
Kỹ năng làm đề cương bài học 10 20 20 50
Kỹ năng thu thập tài liệu học tập 5 30 20 45
Kỹ năng sử dụng BĐ, biểu đồ, BSL 35 35 20 10
Kỹ năng sử dụng CNTT khi tự học 5 20 50 25
(Mức 4 là mức cao nhất)
Rất nhiều KN quan trọng nhưng các em vẫn chỉ dừng ở mức 1, mức 2 đặc biệt là
KN lập kế hoạch tự học, KN sử dụng SĐTD, làm đề cương bài học, thu thập tài liệu
học tập, sử dụng CNTT khi tự học…Nhiều em cho biết chúng em chưa bao giờ lập kế
hoạch tự học, cũng không biết SĐTD là sơ đồ như thế nào. Đối với môn Địa, khi kiểm
tra thì chỉ cần học thuộc trong vở cô cho ghi nên không phải lập đề cương ôn tập…Rất
ít HS có KN tự học môn Địa lí đạt ở mức 4.
Xét một cách tổng thể, dựa trên quan điểm dạy học hiện đại, dạy học tích cực lấy
HS làm trung tâm, từ khái niệm, tầm quan trọng của tự học trong việc phát huy nội lực
con người và thực trạng tự học của HS trong học tập môn Địa lý, kết hợp với nghiên

cứu đặc điểm tâm, sinh lý, đặc điểm học tập và nhận thức của HS lớp 10 – THPT…
Cho thấy tính khả thi và rất cấp thiết cần phải rèn luyện kỹ năng tự học cho HS thông
qua dạy học Địa lí lớp 10 - THPT để biến “quá trình đào tạo trong nhà trường thành
quá trình tự đào tạo”.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
ĐỊA LÍ LỚP 10 – THPT.
2.1. Quy trình rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh.
Theo từ điển Tiếng Việt “Rèn luyện là luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới
những phẩm chất hay trình độ vững vàng thông thạo”
Một kỹ năng được hình thành theo tác giả cần trải qua
nhiều giai đoạn: quan sát mẫu, làm thử và cuối cùng là tiến
hành luyện tập. Nói một cách khác, để có được một kỹ
năng, phải trải qua 3 giai đoạn: hình thành, phát triển, luyện
tập. Rèn luyện là một hoạt động tiến hành đan xen, đồng
thời với 3 giai đoạn này. Muốn hình thành một kỹ năng
nói chung, kỹ năng tự học nói riêng, HS phải làm thử, làm đi làm lại nhiều lần. Khi kỹ
năng bước đầu hình thành, tiến hành rèn luyện nhiều lần trong một thời gian nhất định
thì kỹ năng mới ổn định và phát triển. Sau đó, phải tiến hành rèn luyện thường xuyên,
đều đặn thì kỹ năng mới phát triển thuần thục, tạo cơ sở phát triển thành kỹ xảo. Việc
rèn luyện đạt kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự nỗ lực của
người học, gữa vai trò quyết định.
Từng kỹ năng tự học rèn luyện cho HS cần được cụ thể hóa thành các bước vì
chỉ khi rèn luyện theo các bước mới có cở sở để hình thành, phát triển và luyện tập kỹ
năng.
2.2. Tổ chức rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh qua môn Địa lí 10.
2.2.1.Rèn luyện kỹ năng tự học ở trên lớp.
Người dạy tổ chức cho HS tự lĩnh hội nền văn hóa xã hội chứ không làm thay
HS trong việc lĩnh hội đó. Sự giúp đỡ của GV đối với HS trong dạy học là giúp đỡ về
PP học, GV giúp HS về cách thức tự học. Như vậy, bản chất của hoạt động dạy học để
HS tự học là dạy cách học, các kỹ năng tự học.

Người thầy phải biết cách tổ chức các hoạt động học tập nhằm tích cực hóa tính
tự lực, sáng tạo, chủ động phát hiện và tìm ra kiến thức của người học. Muốn vậy
người thầy phải “đổi mới phong cách dạy”, điều này chỉ thực hiện được khi tích cực
hóa các PP, kĩ thuật, cách đánh giá theo quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước.
2.2.1.1.Rèn luyện kỹ năng tự học theo cá nhân.
Rèn luyện kỹ năng tự học theo cá nhân GV cần giảm tối đa PP độc thoại thuyết
trình “lấy người dạy là trung tâm”, thay vào đó là sử dụng các PP, kĩ thuật tăng cường
hoạt động độc lập nhận thức của bản thân từng HS để các em tích cực “động não”, tự
lực suy nghĩ phát hiện và giả quyết vấn đề.
 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Định nghĩa: “ PP đàm thoại gợi mở là PP GV
khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để HS trả lơi nhằm
gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới bằng sự
tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những
kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào
sâu, tổng kết, hệ thống hóa tri thức đã tiếp thu được nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá
và giúp HS tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kĩ xảo trong quá trình
học.” (4).
- Những yêu cầu cơ bản trong việc sử dụng PP đàm thoại.
(4) Đặng Văn Đức, (1999), trang 101, Kĩ thuật dạy học Địa lí ở trường THPT.
+ GV cần sử dụng linh hoạt các hình thức đàm thoại phù hợp với thời gian, không
gian, mục đích, nội dung giáo dục. Khi kết thúc đàm thoại, HS “có vẻ” như tìm ra chân
lý và chính khía cạnh này đã tạo ra cho người học niềm vui sướng của nhận thức, một
tình cảm tốt đẹp cần phát triển ở người học.
+ Kĩ thuật đặt câu hỏi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
 GV phải đạt câu hỏi như thế nào để đòi hỏi HS phải tích cực hóa tài liệu đã lĩnh
hội trước đây, vạch ra ý nghĩa cơ bản của tri thức đã học.
 Câu hỏi không đơn thuần đòi hỏi HS tái hiện tài liệu mà phải vận dụng những tri
thức đã nắm trước đây để giải quyết vấn đề mới. Điều này có nghĩa là theo
hướng phát triển trí thông minh, sáng tạo của HS thì GV nên chú trọng tăng

cường loại câu hỏi yêu cầu cao về mặt nhận thức (phải căn cứ trình độ nhận thức
của HS), song cũng không nên “coi thường” “câu hỏi yêu cầu ở mức độ thấp”.
 Câu hỏi phải hướng trí tuệ của HS vào mặt bản chất của sự vật, hiện tượng phải
nghiên cứu, phải hình thành tư duy biện chứng cho HS.
 Câu hỏi phải đặt như thế nào để đòi hỏi HS xem xét những sự vật, hiện tượng
trong mối liên hệ với nhau, nhìn sự vật, hiện tượng theo chỉnh thể toàn vẹn của
chúng.
 Đặt câu hỏi theo quy tắc logic.
 Việc diễn đạt câu hỏi phải phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm cá nhân, trình độ hiểu
biết và kinh nghiệm của HS.
 Câu hỏi có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu thống nhất, không thể có hai câu
trả lời đều đúng, về hình thức phải ngắn gọn, sáng sủa.
+ Yêu cầu đối với việc vận dụng PP đàm thoại.
 GV phải đặt câu hỏi cho toàn lớp rồi mới chỉ định HS trả lời. Khi một HS trả lời
xong, cần yêu cầu những HS khác nhận xét, bổ sung, sửa chữa câu trả lời nhằm
thu hút sự chú ý lắng nghe câu trả lời của bạn với tinh thần phê phán. Qua đó kích
thích hoạt động chung của cả lớp.
 GV cần lắng nghe khi HS trả lời, nếu cầu thiết đặt thêm câu hỏi phụ, câu hỏi mở
dẫn dắt HS để trả lời câu hỏi chính được tốt hơn.
 Cần tôn trọng ý kiến của HS: Có thái độ bình tĩnh khi HS trả lời sai hoặc thiếu
chính xác, tránh thái độ nôn nóng, vội vàng, cắt ngang ý kiến của HS khi không
cần thiết. Chú ý nhận xét, uốn nắn, nhận xét, bổ sung câu trả lời của HS, giúp
HS hệ thống hóa tri thức tiếp thu được trong quá trình đàm thoại.
 Không chỉ chú ý đến kết quả câu trả lời của HS mà còn chú ý đến cách diễn đạt,
đó là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy logic ở HS.
 Cần chú ý sử dụng mọi biện pháp thúc đẩy HS mạnh dạn nêu thắc mắc và khéo
léo sử dụng thắc mắc đó để tạo nên tình huống vấn đề và thu hút toàn lớp tham
gia thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề đó.
 Tạo ra không khí thoải mái trong lớp học để HS không quá lo ngại khi trả lời, các
HS kém không mặc cảm về trình độ của mình.

 Khuyến khích, động viên sự cố gắng của HS. Nếu GV tin ở sự cố gắng của HS thì
các em thêm nỗ lực phấn đấu, không nản chí.
 GV nên trân trọng mỗi tiến bộ dù chỉ rất nhỏ của HS song, không nên quá lạm
dụng lời khen.
- Các bước HS thường phải trải qua để trả lời câu hỏi yêu cầu cao về mặt nhận
thức.
Theo Gall, HS thường phải qua 5 bước để trả lời câu hỏi yêu cầu cao về mặt nhận
thức.
+ Bước 1: Chăm chú theo dõi câu hỏi.
+ Bước 2: Nắm vững nội dung yêu cầu của câu hỏi.
+ Bước 3: Trả lời thầm trong ý nghĩ (chưa thành lời).
+ Bước 4: Hình thành câu trả lời công khai.
+ Bước 5: Xem lại câu trả lời của chính mình khi nghe câu trả lời của bạn hoặc
nghe lời nhận xét của GV đối với câu trả lời của bạn.
Ví dụ: Trong bài 15 trang 56 SGK Địa lí 10: “Thủy quyển, một số nhân tố ảnh
hưởng tới chế độ nước sông, một số sông lớn trên Trái Đất” GV có thể đưa ra câu hỏi
ở các mức độ nhận thức khác nhau như:
Câu 1: Đọc SGK em hãy nêu khái niệm thủy quyển (câu hỏi yêu cầu thấp, dừng
ở mức biết vấn đề).
Câu 2: Dựa vào kiến thức đã học và bản đồ tự nhiên Việt Nam, em hãy cho biết
vì sao mực nước lũ ở các sông ngòi miền Trung nước ta thường lên rất nhanh? (câu
hỏi yêu cầu cao về nhận thức –HS phải vận dụng phối hợp những kiến thức đã có để
giải đáp câu hỏi này, thuộc mức “vận dụng” theo thang Bloom).
 Phương pháp hướng dẫn HS khai thác tri thức từ BĐ.
Bản đồ là phương tiện trực quan, một nguồn tri thức địa lí quan trọng giúp cho GV,
HS có thể khai thác kiến thức phục vụ việc dạy và học địa lí có hiệu quả.
- Các biện pháp hình thành KN sử dụng BĐ.
+ Dạy HS hiểu BĐ:
Hiểu BĐ: nghĩa là có kiến thức về BĐ, biết BĐ là cái gì? đặc trưng, tính chất của
nó ra sao? nội dung, chức năng của nó, mỗi một kí hiệu quy ước trên BĐ có nghĩa gì?

cần phải sử dụng BĐ như thế nào và lợi ích nào được rút ra từ việc này.
Dạy HS hiểu BĐ (về mặt kỹ năng) theo quy trình sau:
 Xác định mục đích của việc làm.
 Xác định kiến thức có liên quan cần dựa vào để tiến hành công việc
 Cách tiến hành công việc.
 Quy tắc về trình tự tiến hành công việc.
 Kiểm tra kết quả khi thực hiện.
Sau khi làm mẫu, GV yêu cầu HS giải thích, nhắc lại trình tự công việc đã làm
và ghi trình tự đó vào vở để về nhà thực hiện một bài tập tương tự theo mẫu mà GV đã
làm trên lớp.
+ Dạy HS đọc và vận dụng BĐ.
Theo N.N.Baranxki:“Đọc BĐ là thông qua những ký hiệu trên BĐ mà phân tích
và nhìn thấy những nét thực tế của khu vực bề mặt Trái Đất được biểu hiện trên
BĐ”(5)
Đọc BĐ thường có 3 mức độ khác nhau.
1.Mức sơ đẳng nhất: đọc được vị trí của các đối tượng địa lý, có được biểu hiện
về các đối tượng đó, thông qua hệ thống kí hiệu quy ước ghi trong bảng chú giải.
2.Mức thứ hai cao hơn: Tìm ra những đặc điểm tương đối rõ ràng của những đối
tượng địa lí biểu hiện trên BĐ.
3.Mức thứ ba, cao nhất: là tìm ra những mối liên hệ giữa các kiến thức đó, tìm ra
những đặc điểm và tính chất địa lí của lãnh thổ mà BĐ không biểu hiện trực tiếp.
Đối với GV hướng dẫn HS khai thác tri thức trên BĐ, chủ yếu là hướng dẫn HS
đọc được BĐ ở các mức độ trên, quan trọng nhất là hai mức độ sau.
- Ví dụ: bài 16, trang 70 SGK Địa lý 10.
Nhận xét sự phân bố các dòng biển nóng và các dòng biển lạnh trên thế giới
(hình 16.4 – Các dòng biển trên thế giới), SGK Địa lí 10 trang 61
GV yêu cầu HS tự làm việc rút ra các thông tin cần thiết theo hướng dẫn.
+ Mức độ 1: đọc BĐ dựa vào kí hiệu xác định được các dòng biển nóng và dòng
biển lạnh, vị trí phân bố của các dòng biển nóng và lạnh trên bản đồ.
+ Mức độ 2: rút ra một số nhận xét khái quát.

 Các dòng biển nóng thường phát sinh ở hai bên xích đạo chảy về phía cực.
 Dòng biển lạnh xuất phát từ khoảng vĩ tuyến 30 – 40
o
chảy về xích đạo.
 Dòng biển nóng và lạnh hợp với nhau tạo thành những vòng hoàn lưu. Ở vĩ độ
thấp hướng chảy của các vòng hoàn lưu ở bán cầu Bắc theo chiều kim đồng
hồ, ở bán cầu Nam theo chiều ngược lại.
 Ở bán cầu Bắc còn có những dòng biển lạnh men theo bờ tây đại dương chảy
về xích đạo.
 Các dòng biển nóng và lạnh đối xứng nhau qua bờ các đại dương.
+ Mức độ 3: rút ra những kết luận trên cơ sở phân tích các mối quan hệ. Những
kết luận này chỉ hoàn toàn có trong tư duy HS mà không có trên BĐ.
Ví dụ:Ở các vĩ độ thấp hướng chảy của các vòng hoàn lưu ở bán cầu Bắc theo
chiều kim đồng hồ, ở bán cầu Nam theo chiều ngược lại có mối quan hệ chặt chẽ với
lực Côriolit (lực làm lệch hướng chuyển động của các vật thể - hệ quả của chuyển
động quay quanh trục của Trái Đất)
Các vùng vĩ độ thấp (xích đạo và gần xích đạo) nhận được lượng bức xạ Mặt
Trời lớn, nhiệt độ nước biển cao nên các dòng biển nóng xuất phát từ các vĩ độ này rồi
chảy về phía cực (nơi có nhiệt độ thấp) và ngược lại.
- Một số cách làm việc hiệu quả với rèn luyện kỹ năng BĐ cho HS.
+ Cách xác định vị trí và sự phân bố của các đối tượng địa lí trên BĐ.
Để thực hiện KN này HS phải dựa vào quy trình sau:
 Nắm được mục đích của việc làm.
 Đọc bản chú giải trên BĐ để biết được các kí hiệu quy ước.
 Tái hiện hiểu tượng địa lí dựa vào các kí hiệu quy ước.
 Tìm tên và đối tượng địa lý trên BĐ.
Như vậy khi nhìn trên BĐ, các em không chỉ biết được vị trí và đọc tên các đối
tượng địa lí mà còn xác định được sự phân bố của chúng.
Chẳng hạn nhìn vào BĐ “phân bố sản lượng điện năng thế giới thời kì 2000 –
2003” SGK trang 123, các em xác định được các nước có sản lượng điện cao

phân bố ở nhóm nước phát triển.
+ Cách ghi nhớ các đối tượng địa lí trên BĐ:
GV cần sử dụng một số biện pháp như:
 Khi nói đến địa danh, GV phải vừa chỉ vừa đọc nhiều lần một cách rõ ràng,
hoặc viết những địa danh cần nhớ lên bảng…
 Để giúp HS ghi nhớ vị trí các đối tượng địa lý trên BĐ, GV khi dạy có thể dán
các ký hiệu bằng giấy màu lên BĐ, đồng thời so sánh các đối tượng trên BĐ
với những sự vật cụ thể các em thường thấy để tạo biểu tượng không gian
hoặc vạch ra các mối tương quan giữa vị trí của đối tượng này với đối tượng
khác, vv…
Ví dụ: để HS dễ nhớ vị trí TP.Việt Trì, GV có thể nói: “Việt Trì là thành phố ngã ba
sông”, nơi giao nhau của ba con sông lớn, S.Hồng, S.Đà và S.Lô.
 Cũng có trường hợp GV kết hợp với BĐ treo tường, vẽ lên bảng hình vẽ biểu
hiện riêng hình dáng vị trí của từng đối tượng để HS dễ nhận hơn và nhớ kĩ
hơn.
 Đối với một số địa danh, GV có thể giải thích hoặc nói rõ nguồn gốc của
chúng để gây một ấn tượng dễ nhớ.
Ví dụ: S.Mêkông chảy qua miền nam nước ta rồi đổ ra biển bằng 9 cửa lớn,
giống như 9 con rồng nên Mêkông còn được gọi là Cửu Long.
 Dạy học theo nguyên lý “học đi đôi với hành”. Vì vậy, muốn HS nhớ kỹ các đối
tượng Địa lí trên BĐ, GV phải cho HS thực hành nhiều trên BĐ.
+ Cách mô tả đối tượng địa lý trên BĐ.
Đặc điểm của đối tượng địa lí cần miêu tả bao gồm có: vị trí, sự phân bố, các đặc
điểm về hình dạng, kích thước như chiều dài, chiều rộng, các cực trị lớn nhất, nhỏ
nhất…Thực chất đây chính là một KN để hỗ trợ cho việc HS đọc BĐ một cách đúng
đắn và đầy đủ nhất.
Ví dụ:
Để mô tả “núi”, HS cần tiến hành theo quy trình sau:
Dựa vào kí hiệu và cách biểu hiện tìm vị trí của núi trên BĐ.
 Xác định vị trí của nó trên lãnh thổ (ở phần nào của quốc gia hay khu vực…).

Xác định hình dạng, hướng của núi dựa vào lưới tọa độ Địa lý.
 Trong trường hợp: núi nằm trong một dải núi thì chiều dài của dãy núi trên BĐ và
ngoài thực tế là bao nhiêu (căn cứ vào thước tỉ lệ của BĐ để tính).
 Xác định độ cao trung bình của núi hoặc dãy núi, chủ yếu bằng thang phân tầng
màu về độ cao (ngoài ra có thể dựa vào đường bình độ).
Xác định trị số lớn nhất của dãy núi.
Ví dụ: theo quy trình này, HS có thể mô tả được các đặc điểm của dải núi Hoàng
Liên Sơn một cách đầy đủ như sau: “Dãy núi Hoàng Liên Sơn nằm ở phía Tây Bắc của
Tổ quốc, kéo dài từ biên giới phía tây bắc theo hướng tây bắc – đông nam, với chiều
dài trung bình trên 200 km ngoài thực địa, độ cao trung bình là 1500 - 2500m, cao nhất
là đỉnh Phanxipăng với độ cao 3143m.
+ Một cách đọc BĐ tổng hợp khá hấp dẫn đối với HS là “du lịch trên BĐ”.
HS phải dựa trên những hiểu biết về BĐ để làm một cuộc “du lịch tưởng tượng
trên BĐ”, mô tả các miền đất đai, các thành phố, làng mạc sẽ đi qua theo những tuyến
vạch sẵn trên BĐ. Để thực hiện được những bài tập này, GV cần hướng dẫn các em
bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở, dẫn dắt các em dựa vào đó để trả lời, theo dàn ý
nhất định.
Ví dụ: Em hãy tưởng tượng mình đã từng được đi du lịch ở môi trường địa lí đới
ôn hòa. Sau chuyến hành trình đó em hãy giới thiệu cho các bạn trong lớp biết về khí
hậu và sinh vật của môi trường địa lí mà em đã đi qua.
GV: hướng dẫn HS dựa vào bảng thông tin trong phần sự phân bố sinh vật và đất
theo vĩ độ; hình 19.1 – các kiểu thảm thực vật chính trên thế giới và các hình ảnh trong
SGK trang 71, 72 địa lí lớp 10.
+ Lập bảng nêu đặc trưng của các đối tượng được nghiên cứu trên cơ sở đọc bản
đồ. Biện pháp này tích cực hơn đòi hỏi HS phải tham gia nhiệt tình, phát huy tính độc
lập sáng tạo trong suy nghĩ và hành động. Đồng thời thông qua đó rèn luyện được kỹ
năng, kĩ xảo cho HS.
Ví dụ: Khi nghiên cứu sự phân bố sinh vật và đất trên trái đất trong bài 19, các
em sử dụng hình 19.1 – Các kiểu thảm thực vật chính trên thế giới và hình 19.2 – Các
nhóm đất chính trên thế giới để hoàn thiện bảng sau:

Môi trường địa lí
đới ôn hòa
Kiểu khí hậu
chính
Kiểu thảm thực
vật chính
Nhóm đất chính
+ Tổ chức các trò chơi có liên quan đến BĐ.
Thông qua việc tham gia các trò chơi có liên quan đến BĐ, HS sẽ cảm thấy thích
thú và hào hứng với môn Địa lí. Địa lý không còn là một môn học đơn điệu và nghèo
nàn, lớp học sẽ trở lên sinh động đồng thời đem lại hiệu quả trong việc tiếp thu kiến
thức và rèn luyện kỹ năng.
Ví dụ:
 GV chia lớp thành hai nhóm: nhóm A và nhóm B. Rồi yêu cầu các em thi đua
giữa 2 nhóm, bằng cách: mỗi HS nhóm A (hoặc nhóm B) phải chuẩn bị một câu
hỏi về đọc BĐ; HS của nhóm kia sẽ là người trả lời. Nhóm nào đặt được nhiều câu
hỏi tốt và trả lời đúng các câu hỏi của bên kia thì thắng. Những câu hỏi này, GV có
thể cho HS ghi vào vở và sử dụng để đố nhau thường xuyên.
 Thi ghép mảnh BĐ: Mục đích của trò chơi là giúp HS ghi nhớ địa danh và vị trí
của mỗi vùng hoặc mỗi tỉnh trên BĐ. Để thực hiện trò chơi này, GV dựa trên BĐ
hành chính của cả nước hoặc một vùng nhất định (ĐBSH,…), cắt tờ BĐ ra theo các
đường biên giới của mỗi tỉnh rồi tổ chức cho HS thi “ghép mảnh” có tính điểm theo
thời gian, em nào hoặc nhóm nào ghép đúng và nhanh nhất sẽ thắng.
 Trò chơi ô chữ: Để tránh nhàm chán khi học tập Địa lí, GV cũng có thể tổ chức
trò chơi ô chữ để tạo hứng thú cho HS khi học. Trò chơi này sẽ huy động được tất cả
các em trong lớp cùng tham gia, không khí học tập sẽ sôi nổi.
 Phương pháp/ kĩ thuật động não
Khái niệm: “Là loại PP dùng để giải quyết nhiều loại vấn đề khác nhau, giúp
người học trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về
một vấn đề nào đó” (6).

- Cách sử dụng.
+ Bước 1: GV lựa chọn và nêu vấn đề cần tìm hiểu cho HS.
+ Bước 2: Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến.
+ Bước 3: Liệt kê tất cả mọi ý kiến của HS viết lên bảng hoặc giấy to,
không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
+ Bước 4: Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
+ Bước 5: Tổng hợp ý kiến từ mọi người xem có thắc mắc, bổ sung gì
không.
Ví dụ: khi dạy bài 22 “Dân số và sự gia tăng dân số”, GV nêu vấn đề: Hậu quả của sự
gia tăng dân số quá nhanh và sự phát triển dân số không hợp lí của các nước đang phát
triển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội – môi trường là gì? Các ý kiến đưa ra có thể
là:
1. Hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Tiêu dùng nhiều lên nhưng tích lũy giảm xuống.
(6) Đặng Văn Đức, (1999), trang 100, Kĩ thuật dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông.
3. Sức ép lớn lên các vấn đề việc làm, y tế, giáo dục.
4. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, đặc biệt là các tệ nạn xã hội.
6. Khó khăn cho nâng cao chất lượng cuộc sống.
7. Cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường….

- Những điều cần lưu ý khi sử dụng PP này.
+ PP động não có thể dùng để lý giải một vấn đề nào đó song đặc biệt phù hợp
với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong thực tế của người học.
+ Các ý kiến phát biểu cần ngắn gọn, nê bằng một từ hay một câu ngắn .
+ Hoan nghênh tất cả mọi ý kiến, không phê phán, nhận định đúng, sai.
+ Cuối giờ động não, nên nhấn mạnh kết luận nào là kết quả của sự tham gia
chung của mọi người.
+ Các giờ hoc động não có thể bị quá trớn, trở nên om sòm và căng thẳng,
không được việc nào trọn vẹn trừ việc tạo ra nhiễu loạn. Vì vậy, yêu cầu GV
phải nghiêm khắc khi định áp dụng quy trình này và thiết lập các chuẩn ngay

từ đầu để HS hiểu rõ ràng.
 Sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy để rèn luyện kỹ năng tự học cho HS.
- Vai trò của SĐTD.
Phát hiện ban đầu của GS. Roger Sperry thuộc đại học California cho thấy hai
vỏ bán cầu não có khuynh hướng phân chia thành hai nhóm có chức năng tư duy như
hình vẽ.
Từ trước tới nay, trong quá trình học tập hầu hết học sinh mới chỉ sử dụng một
nửa của bộ não- não trái, mà rất
ít sử dụng các kỹ năng của não
phải nơi giúp người học xử lý các
thông tin về nhịp điệu, màu sắc,
không gian, sự mơ mộng. Hay nói
cách khác, HS mới sử dụng
50% khả năng của bộ não khi ghi
nhận thông tin. Sử dụng SĐTD giúp người học tận dụng các chức năng của não trái lẫn
não phải khi học. Đây là một kĩ thuật hình họa đóng vai trò là “chìa khóa vạn năng để
khai phá tiềm năng của bộ não”. Theo Tony Buzan thì “một hình ảnh có giá trị hơn
cả ngàn từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc
mang đến cho SĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng
vô tận cho tư duy sáng tạo” (7)
(7): Câu nói của Tony Buzan trích dấn từ trang 13,(2010), Một số phương pháp và kĩ thuật dạy hoc của dự án Việt – Bỉ

×