Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

luận văn đại học sư phạm Lịch sử phát triển chất liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.22 KB, 26 trang )

Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt như ngày nay đòi hỏi mỗi
người Việt Nam nói chung cũng như sinh viên và các hoạ sĩ, các nhà hoạt
động nghệ thuật nói riêng càng phải luôn luôn du nhập, thay đổi cách nhìn
nhận, suy nghĩ nhưng không được phép bỏ qua giá trị truyền thống văn hoá
mà cha ông ta đã dày công lập dựng. Âm nhạc giúp con người hoà nhập vào
thiên nhiên, cảm nhận vẻ đẹp trong câu từ ca dao thì hội hoạ lại đưa vào lòng
người những cảm nhận thật sâu sắc. Đặc biệt là tranh lụa, đề tài được các bậc
thầy về hội hoạ Việt Nam khai thác và nghiên cứu tuy nhiên những bước
đường phát triển và tồn tại cho đến ngày nay là cả một quá trình gian khó và
nhiệm vụ gìn giữ, tìm hiểu không chỉ của riêng tôi hay một ai đó mà là của cả
dân tộc.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Bài viết là sự tổng hợp những kiến thức thông qua quá trình chọn lọc
trong chương trình lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
- Kết hợp tham khảo một số tài liệu sách, báo, hiểu biết của bản thân…
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
1
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
B. NỘI DUNG
1. Lịch sử phát triển chất liệu
Từ thời xưa, người phương Đông đã biết dùng lụa để vẽ tranh, nhưng


dùng như một nền đỡ đơn thuần để phủ lên các lớp màu, không khác gì giấy,
gỗ, vải, vách tường. Có thể thấy điều này qua số tranh hiếm hoi còn sót lại
đến nay ở Việt Nam: Chân dung Nguyễn Trãi. Sự sáng tạo của hoạ sĩ Việt
Nam đưa nền đỡ lụa thành một thể loại riêng” hội hoạ trên lụa” làm cho các
sợi tơ óng ả trực tiếp tham gia vào việc diễn tả nghệ thuật về cả hai phương
diện tạo hình và biểu cảm. Các hoạ sĩ không dung chất màu phủ lấp các thớ
lụa mà làm cho các thớ lụa như được nhộm từng sợi để dệ nên bức tranh.
Người mở đầu cho hội hoạ trên lụa là hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh. Nhiều hoạ
sĩ tiếp nối làm giàu hơn khả năng hội hoạ trên lụa: Mai Trung Thứ, Lê Thị
Lựu, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguễn Tiến Chung, Giáng Hương,
Kim Bạch, Đỗ Phấn…nhưng người chuyên sâu nhất là Nguyễn Thụ.
Quá trình phát triển của tranh lụa gắn liền với quá trình sáng tác của
các thế hệ hoạ sĩ. Năm 1925, Trường Cao Mỹ thuật Đông Dương được thành
lập thì kiến thức nghệ thuật tạo hình du nhập vào có hệ thống, các hoạ sĩ theo
đuổi miệt mài đã biết kết hợp các phương pháp đó như là Nguyễn Phan
Chánh, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung đã vận dụng nó để tạo nên
diện mạo về tranh lụa.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, những hoạ sĩ yêu nước đã rời thành
phố đi vào cuộc sống chiến đấu của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Vào cuối giai đoạn kháng chiến này, đã xuất hiện một
số hoạ sĩ vẽ tranh lụa, mỗi người một phong cách, diện mạo đã tạo ra sự
phong phú đa dạng cho tranh lụa.
Sau năm 1945, tranh lụa có sự thay đổi về đề tài, hoạ sĩ đã bắt đầu khai
thách vẻ đẹp của phụ nữ, nhưng những hoạt động rất nông, hời hợt, các mảng
khác thì không tham gia. Với các gương mặt như Phan Thông, Trọng Kiên…
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
2
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam

Trương Đức
Tuân
Có nhiều thay đổi về mảng đề tài nhằm phản ánh rực rỡ, tìm đậm nhạt cho
mảng hình, sử dụng nét, tìm mảng. Khuynh hướng của thời kỳ này thiên về
những mảng màu đơn giản, tìm phối sắc trong mảng hình, thường dung màu
đên nâu, ánh sang là màu của lụa.
Năm 1955, trường Mỹ thuật mở tại Hà Nội và mở lớp trung cấp đầu
tiên mang tên hoạ sĩ Tô Ngọc Vân.
Năm 1957, khoá đại hoạ đầu tiên của trường Cao Đẳng Mỹ thuật Việt
Nam được tuyển sinh với thời gian đào tạo 5 năm. Khi đó thì các chuyên
khoa lụa được hình thành đưa vào đào tạo cung cấp đội ngũ hoạ sĩ chuyên vẽ
lụa làm cho tranh lụa phát triển mạnh mẽ, rực rỡ và trở thành chủ chốt của
chất liệu Việt Nam.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được bắt đầu từ những năm 30 cho
đến nay, tranh lụa Việt Nam được sáng tạo với tinh thần độc đáo của những
người nghệ sĩ, biết kết hợp một cách tinh tế tinh hoa của nghệ thuật phương
Tây với phương Đông để phô diễn tâm hồn dân tộc, văn hiến. Ngày nay đã có
độ lùi về thời gian, bên cạnh những di sản của điêu khắc ông cha để lại rất
phong phú, độc đáo thì di sản hội hoạ quá mong manh, thưa thớt. Riêng tranh
lụa chỉ còn sót lại vài ba bức, trong đó có bức chân dung Nguyễn Trãi- người
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Hội hoạ do chất liệu không
vững nên không lưu giữ được qua những thay đổi của khí hậu, những thăng
trầm của xã hội nên những di sản nghệ thuật của ông cha ta sáng tạo để lại
cho đến ngày nay không nhiều. Nguyên nhân là do chiến tranh huỷ hoại, do
sự khắc nghiệt của thời tiết vì khi hậu Việt Nam “ nóng lắm mưa nhiều “,độ
ẩm cao nên di sản dần dần bị mai một và còn do ý thức bảo vệ của con người
tác động vào đó. Và sau này khi cuộc sống khá hơn, con người đã dần dần
khôi phục những di sản nghệ thuật nhưng cũng không thể đẹp như thời “
nguyên thuỷ”.
Trong thời kỳ phong kiến có nhiều bức tranh vẽ trên chất liệu lụa, một

chất liệu quen thuộc của hội hoạ Á Đông cũng như hội hoạ Việt Nam. Hơn
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
3
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
nữa trong một hướng đi đúng đắn. Do đó, ngay từ đầu chất liệu này mang
đậm dấu ấn dân tộc và lụa được chú ý đặc biệt.
Từ những thập niên 30, nghệ thuật tạo hình Việt Nam mới có các hoạ
sĩ vẽ tranh lụa như Nguyễn Phan Tránh, tên tuổi của ông được biết sớm nhất
ở Châu Âu. Tranh lụa cũng từ đấy luôn có mặt tại các cuộc triển lãm mỹ
thuật trong nước và nước ngoài. Những hoạ sĩ cũng với Nguyễn Phan Tránh
như Mai Trung Thứ, Lê Phổ sinh sống ở Pháp nhưng vẫn vẽ tranh lụa và nổi
tiếng ở phương Tây về tranh lụa, đượm hương sắc của Việt Nam.
Từ năm 1925, Victor Lardrai đã có những phương pháp sư phạm đúng
đắn, không gò bó sinh viên theo chuẩn mực thẩm mỹ châu Âu và khuyến
khích sinh viên tìm về cội nguần dân tộc.
Điểm đặc biệt nhất của tranh lụa Việt Nam giữa kỹ thuật vẽ tranh lụa
cổ và vẽ tranh lụa hiện đại ở chỗ: tranh lụa cổ thường được vẽ trực tiếp trên
lụa khô, trong khi quá trình vẽ tranh lụa hiện đại giống như sự nhuộn đi
nhuộm lại màu lên mặt lụa, lụa được căng lên khung gỗ và trong quá trình vẽ
người hoạ sĩ có thể rửa lụa nhiều lần rồi vẽ tiếp lên cho đến khi như ý.
Các hoạ sĩ nổi tiếng với tranh lụa như Nguyễn Phan Chánh được coi là
hoạ sĩ đã khai phá loại hình tranh lụa Việt Nam. Những bức tranh vẽ thành
công của ông có một phong thuỷ đặc biệt rất Việt Nam, đồng thời phù hợp
với quan niệm hội hoạ hiện đại. Những mảng màu đơn giản, ấm áp, nhuần
nhụi, đường viền mềm mại, những khoảng trống rất đúng chỗ. Ngoài ra nhân
vật và bối cảnh được nghiên cứu đơn giản và cách điệu độc đáo. Thành công

của ông đã đóng góp làm cho phong phú thêm cho nên mỹ thuật Việt Nam.
Nếu tranh Trung Quốc thường là tranh dọc, khổ đứng thì tranh lụa Việt
Nam nói riêng, tranh sơn mài, sơn dầu, tranh khắc… nói chung có bố cục
thường nhìn ngang hay nhìn từ dưới lên. Bố cục này khẳng định khí chất của
người Việt Nam, một dân tộc hơn nghìn năm luôn đối đầu với chiên tranh,
một ước mơ mà con người luôn đứng lên làm chủ, vươn tới hoà bình độc lập
tự do. Một lối thể hiện nhằm nói lên tính chất hùng tráng, một sức sống tiềm
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
4
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
tàng luôn thôi thúc cháy bỏng, một cuộc sống chan chứa tình người, giữa sự
sống và cái chết, nên đề tài của các hoạ sĩ hiện đại Việt Nam thường đề cập
đến cuộc kháng chiến, động viên giáo dục, thực tiễn đáp ứng theo xu thế thời
đại.
Bức dân công sửa đường chiến dịch Điện Biên Phủ (1974) của Trần
Thanh Ngọc, bố cục sắp xếp các mảng sáng tối chạy trong tranh tạo nhịp
điệu. Tất cả nhân vật phần đông đều màu sậm, một vài nhân vật bị mất phần
đầu song tác giả đã ưu tiên cho nhóm chính là hai cô gái đang mải mê lao
động. đằng sau nữa là những anh bộ đội hành quân. Tuy mỗi người một
nhiệm vụ nhưng nhịp điệu và không khí bức tranh đã nói lên một tình cảm
thầm kín…Cũng một bố cục sắp xếp sự chuyển nhịp của mảng sáng tối, Trần
Lưu Hậu chọn mảng sáng của trời, độ sáng y phục của nhân vật và các chùm
hoa trên cành cây tạo nhịp chạy của tranh. Một số tác phẩm có sử dụng luật
phối cảnh nhằm tạo không gian thực, cảm giác thực cho người xem như Mẹ
con của Lê Thị Lựu, Bế Văn Đàn của Lê Vinh, Du kích địch hậu chống càn
của Trịnh Phòng. Những tác phẩm như vậy thường phản ánh rõ tính chất hiện

thực.
Tranh lụa Việt Nam được các hoạ sĩ khai thác màu sắc khá phong phú,
nhiều lúc sự vật trong tranh được tác giả cường điệu khác với hiện thực tế
nhằm hướng người xem vào trọng tâm bức tranh. Chẳng hạn Trên nhà sàn
của Nguyễn Thụ: những ngôi nhà chỉ là mảng bẹt, một màu hồng nhẹ,
khoảng cách được tạo bởi các mảng màu xanh đen, cô ban vẽ rất mỏng, màu
rêu đất, một than cây khẳng khiu với vài cành uốn lượn mệm mại màu đen
phá vỡ sự hoang lạnh của một vùng miền núi…
Tác phẩm Mẹ con của Lê Thị Lựu vẽ theo trường phái ấn tượng, tạo
một khả năng diễn tả không khí sôi động với màu sắc thực của thiên nhiên,
hoà sắc phối hợp nhuần nhuyễn tạo ra bề dày của không khí cộng với sự
tương tác màu của các sự vật trong không gian.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
5
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
Tác phẩm đọc tin chiến thắng của Lương Xuân Nhị cho thấy một khả
năng phối màu tuyệt vời trong tranh lụa không thua kém các chất liệu khác.
Trong một mảng ta có thể nhìn ra rất nhiều màu sắc khác nhau phối hợp mà
vẫn giữ được sự trong sạch của chất lụa. Với gam màu vàng chủ đạo, ông đã
sử dụng thêm nhiều mảng màu khác nhau: nâu đất, nâu đen, nây xanh cô ban,
nâu lam, nâu cam, trắng vàng…tất cả các mầu hầu như có ngả màu vàng.
Ngoài ra còn có các màu xanh lá, xanh rêu, tím nhạt…tất cả đều hoà quyện
nhau không cho cảm giác chói màu. Những nhân vật được nhấn đậm lên vài
độ…nhằm tập chung nhãn quan.
Nguyễn Phan Tránh là hoạ sĩ của làng quê, trong tranh ông luôn có
một gam màu nây sòng. Trong các mảng đậm ta thấy sự lung linh của sắc

màu xanh, tím, rêu, đỏ…Gần đây các hoạ sĩ còn cường điệu màu sắc vật thể
mạnh mẽ để tạo ấn tượng: như bức Bản làng màu đỏ của Nguyễn Lệ Dung,
màu trắng của hoa, màu xanh của núi, màu đỏ của đất…, tác phẩm Đêm mùa
hạ của Nguyễn Hoàng Anh, màu đỏ tím của hoa giấy đặt cạnh mảng màu lớn
cô ban hoà một chút đen diễn tả không khí trong phòng, một thiếu nữ ngồi
búi tóc màu xanh cô ban nhẹ hơn. Màu sắc bức tranh gợi cho người xem như
một sự trông chờ thầm kín…
Mỗi khi nói đến tranh của các hoạ sĩ phương Đông, chúng ta lại nghĩ
ngay đến đường nét. Tranh của Việt Nam có thủ pháp riêng không giống
tranh khắc của Nhật Bản cũng không giống tranh lụa của Trung Quốc. Đường
nét được biến đổi lúc đậm lúc nhạt nhoè vào mảng màu để tạo khối, tạo
không gian, tạo khoảng cách. Nó cũng là điểm nhấn cần thiết gần với cách vẽ
nghiên cứu hình hoạ. Các tác phẩm: Con đọc bầm nghe của Trần Văn Cẩn,
Du kích địch hậu chống càn của Trịnh Phòng, Hàn quân mưa của Phan
Thông lối vẽ kết hợp giữ thuỷ mặc Trung Quốc với sự xúc tác của mảng nét
là cái duyên trong tranh của ông, khi thể hiện phong cách đó trong đề tài vẽ
tranh về phụ nữ miền cao, nhân vật hiện lên trong tranh đầy đủ chất lãng
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
6
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
mạn, dịu dàng du dương, nhân vật trở nên duyên dáng bởi cách thể hiện, như
bức bên Bếp lửa.
Phần nhiều hoạ sĩ Việt Nam thể hiện đường nét rất thoải mái, đường
nét và chi tiết đều được sử dụng bằng cọ (cọ vẽ sơn dầu). Lê Văn Đệ trong
tác phẩm Bên cầu ao đã sử dụng những giới hạn của các mảng màu để tạo
nên đường nét mềm mại của thiếu nữ duyên dáng chải tóc bên cầu ao.

Lụa Việt Nam là loại lụa có gân (thớ lụa) không mịn và đều, khi vẽ hay
nói đúng hơn có thể nói là nhuộm lụa, vì mỗi lần hoạ sĩ vẽ phải rửa cho cặn
màu trôi đi sau đó lại nhuộm thêm cho đến khi thấy màu ổn định mới thôi. Một
bức tranh lụa đẹp, ngoài sắc màu ra, phải thể hiện được sự óng ả của thớ lụa
(chất lụa- kỹ thuật vẽ), còn gọi là tuyết lụa. Nếu vẽ bị rửa nhiều nước thì độ
mướt của chất lụa sẽ giảm, chà nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông hoặc mặt lụa bị xù
hoặc mặt lụa bị lì, lụa không có độ bám của màu nữa, lúc đó người vẽ phải
thay lụa mới. Màu trắng trong tranh thường được hoạ sĩ chừa lại bằng nền lụa.
Hoạ sĩ Việt Nam vẽ lụa hầu như dùng cọ để đánh màu cho tan đều để
chuyển độ trung gian, nét và mảng được quyện vào nhau. Trước lúc vẽ, lụa
được căng lên khung gỗ và tẩy bằng chanh hoặc bằng phèn chua, tiếp theo là
hồ lụa bằng hồ dán hoặc bột ngô, nhiều lúc vẽ không phải hồ lụa.
Nguyễn Thụ là một trong những hoạ sĩ vẽ tranh lụa rất đẹp. Tranh lụa
của ông óng ả mềm mại, thớ lụa rõ rang, nhìn tranh cảm tưởng như có một
lớp nước rất mỏng bao phủ bề mặt tạo nên cái chất trong trẻo dịu dàng. Bên
bếp lửa và buổi sáng sương mờ là hai tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
Sau cách mạng tháng tám 1945, số các hoạ sĩ vẽ tranh lụa đông hơn,
mở rộng hơn về đề tài, kỹ thuật đã có những thành công mới.
Nguyễn Thụ là một hoạ sĩ chuyên nhất về tranh lụa có một phong cách
riêng biệt, bố cục tranh của ông đơn giản, nhịp nhàng, không gian mờ ảo, thơ
mộng, với những nhân vật bình dị, thân quen…Một số nữ hoạ sĩ khác như Vũ
Giáng Hương, Lê Kim Mỹ, Trần Thanh Ngọc…cũng đã có nhiều thành công
với tranh lụa. Với bút pháp phù hợp, rung cảm ngọt ngào, đằm thắm, Kim
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
7
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân

Bạch với khí lực mạnh mẽ dũng những né phác bút tạo hình rắn rỏi. Tranh
lụa dung màu trầm mới ra lụa, sau này vẽ với hoà sắc tươi sáng, đối chọi vẫn
thành tranh lụa.
Từ hơn nửa thế kỷ trước, tranh lụa đã ghi dấu trong nền hội hoạ dân
tộc với tên tuổi danh hoạ Nguyễn Phan Chánh. Với phương pháp dựng hình,
tạo mảng theo phong cách châu Âu, kế thừa lối vẽ trên chất liệu mềm mại
óng ả của phương Đông và đặc biệt là các ông “thổi hồn” Việt vào tác phẩm
này đã khiến thế giới biết đến một nền hội hoạ Việt Nam.
Cùng thời Nguyễn Phan Chánh, các hoạ sĩ Mai Trung Thứ, Lê Phổ,
Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Thị Lựu, Hoàng Lập Ngôn…cũng ghi dấu tên
tuổi mình bằng những tác phẩm lụa đẹp và giàu cá tính.
Thế hệ nối tiếp cũng có những tác giả vẽ tranh lụa thành công như
Nguyễn Thụ, Mộng Bích, Thanh Ngọc, Vũ Giáng Hương, Thanh Liêm…
Tuy vậy, hơn nửa thế kỷ nhìn lại, so với sơn mài và các chất liệu khác,
thì mảng tranh lụa khhông có nhiều người nổi danh.
Lần đầu sau hơn nửa thế kỷ, một triển lãm chuyên đề và một cuộc hội
thảo về tranh lụa đã được Vụ Mỹ thuật- nhiếp ảnh và Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam phối hợp tổ chức với mong muốn tìm cơ hội phát triển cho tranh lụa
Việt Nam. Nhưng, mặc dù với con số khá ấn tượng là 154 tác phẩm được
chọn triển lãm, theo các nhà chuyên môn và giới hoạ sĩ, thì trong đó thực sự
những tác phẩm coi là “tạm được” chỉ có vài chục bức . Sinh viên và các hoạ
sĩ trẻ tham dự triển lãm chiếm số lượng lớn. Tuy nhiên lực lượng trẻ nhưng
phong cách không hề trẻ. Các đề tài như dân tộc, phong cảnh, tĩnh vật…
chiếm phần lớn, hiếm có tác phẩm độ phá. Thậm trí nhiều tác phẩm còn thể
hiện kỹ thuật kém chứ chưa nói đến ý tưởng biểu đạt- nhà phê bình Trang
Thanh Hiền nhận xét.
Phần lớn các tác phẩm đều mới được sáng tác trong vài năm nay, trong
đó, chủ yếu là bài thi tốt nghiệp của sinh viên. Bên cạnh đó, cũng có nhiều
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội

8
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
tác phẩm của các hoạ sĩ thành danh ở chất liệu, thể loại khác, chỉ “đá sân ”
hưởng ứng.
Có những bức của những tác giả trẻ đã làm”bật lên” được chất lụa
truyền thống, với những sáng tạo trong cách đồ hình, với tư duy hiện đại là
những “điểm sáng” tại triển lãm này. Tuy nhiên, có nên coi đó là những tia hi
vọng hay không? bởi, chúng ta phải nhìn vào thực tế có khi đó là những tác
phẩm tốt nghiệp, là “kết quả” của cả thầy lẫn trò hoặc là của các hoạ sĩ
chuyên tâm vào các chất liệu khác như sơn mài, khắc gỗ, đồ hoạ…Thực sự,
những tác giả hiện tại chuyên tâm với chất liệu lụa hiện nay hầu như không
có “- hoạ sĩ Trần Khánh Chương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận xét.
Những năm gần đây, tranh lụa dường như nhạt nhoà trong nền hội hoạ
Việt Nam. Trong số khoảng bảy, tám trăm tác phẩm tại các triển lãm toàn
quốc hàng năm, tranh lụa chỉ chiếm vài chục bức. Thể loại này hầu như cũng
vắng bóng trong các giải thưởng quốc gia gần đây.
Sau hơn sáu mươi năm khai phá và phát triển chất liệu lụa tính từ thế
hệ hoạ sĩ trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, hiện nay, những người
còn tâm huyết với lụa dường như không đủ đếm trên đầu ngón tay. Và thực
tế, tranh lụa không hể có giới trẻ kế cận.
Lý giải cho thực tế này, nhiều nhà chuyên môn và giới hoạ sĩ cho rằng,
phần lớn là do khả năng biể đạt hạn chế của chất liệu lụa. Không rực rỡ sâu
lắng như sơn mài, không sang quý hiện đại như sơn dầu, lụa là một nét duyên
trầm mà không phải ai nhìn cũng rễ nhận thấy. Hơn nữa, sáng tác trên nền lụa
đòi hỏi sự kiên trì, ít chịu được phá cách nên có lẽ không thu hút được giới
trẻ vốn ưu mạnh mẽ, cách tân.
Tại triển lãm này, có một vài tác phẩm thử nghiệm như đưa vàng bạc

dán vào lụa tạo hiệu quả mới lạ, nhưng xem ra lại không thích hợp. Đó là
nhận xét của nhiền nhà chuyên môn cũng nhưn giới hoạ sĩ “có nghề”.
Hoạ sĩ Đoàn Văn Nguyên cho rằng, nguyên tắc đầu tiên vẫn phải tuân
thủ những kĩ thuật nhuộm màu, biểu bồi truyền thống, làm sao không mất đi
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
9
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
vẻ óng ả mềm mại của lụa. Cò nếu muốn thể hiện những sáng tạo, những đột
phá ghi dấu ấn cá nhân, thời đại thì chỉ nên tìm tòi ở việc tạo hình hiện đại.
Điểm trong số các hoạ sĩ trẻ tham gia triển lãm, cũng thấy nổi lên một
vài tác phẩm có những tìm tòi thể hiện mới, nhưng vẫn giữ nguyên được vẻ
đẹp truyền thống của lụa.”Tác phẩm Chiều Hoàng thành của Vũ Đình Tuấn
dùng gam màu vàng đỏ vương giả hoàn toàn thoát thực, đi rất xa với cái nhìn
hiện thực thường thấy ở lụa truyền thống. Nhưng những thớ lụa óng ả vẫn bật
lên, hoạ sĩ đã đồ hình với câu trúc hiện đại, khá thành công với cách nhìn
trang trí. Còn với tác phẩm Bồng bềnh, Đoàn Dũng Sĩ vẫn trung thành với lối
trang trí của lụa truyền thống, nhưng đã có góc nhìn sáng tạo, tạo nên vẻ
hoàng tráng trong mô tả không gian. Còn hoạ sĩ Nguyễn Phúc Lợi vẽ nắng
chiều với lối thấu thị, tả thực, dù ánh sang chói chang va đập như cách vẽ sơn
dầu nhưng vẫn đạt hiệu quả mềm mại của lụa. Lê Xuân Dũng vẽ chiều thứ
bảy thanh bình mơ màng gam xanh pha lối thuỷ mặc trong diễn hình của
Trung Hoa nhưng bố cục thì kéo về với đất Việt…Nhưng tác giả này, tôi
không nghĩ đó là đỉnh cao mới mà thấy nó khá mới trong cái cũ.” Hoạ sĩ Đỗ
Đức đã “tổng kết” chất lượng triển lãm như vậy. Đó cũng là ý kiến của nhiều
nhà chuyên môn khác.
Tuy vậy, nói như hoạ sĩ Trần Khánh Chương, đó chỉ mới là “điểm

danh”một vài tác phẩm, chứ chưa phải là tác giả. Qua triển lãm này, nhìn lại
đội ngũ hoạ sĩ trẻ chuyên tâm sáng tác tranh lụa, hầu như không có ai.
Tuy vậy, cũng không thể không kể đến một nữ tác giả trẻ, mặc dù chưa
được biết đến ở ngoài, nhưng hầu như đã được người trong giới thừa nhận,
đó là Nguyễn Yến Nguyệt. Chuyên vẽ về đề tài góc bếp của người Việt,
Nguyễn Yến Nguyệt cũng đã có một gia tài kha khá tranh lụa. Cũng mềm
mại óng ả đầy nữ tính, ánh sáng, đậm nhạt, tạo nên độ nét hình. Yến Nguyệt
cho biết, trái với nhận định của nhiều người, giá tranh lụa quá rẻ cũng là một
nguyên nhân khiến các hoạ sĩ trẻ không mặn mà, tranh của chị vẫn được mua
với giá khá cao. Có nhiều bức lên đến vài nghìn USD.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
10
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
Tuy nhiên, từ những dấu hiệu sáng đó để hy vọng về một tương lai
tươi sang cho tranh lụa Việt Nam, có lẽ vẫn còn quá mơ hồ. Và mong khơi
dậy sự phát triển của một thể loại tranh đậm đà sắc Việt vẫn còn xa xôi.
Nhưng, nói như hoạ sĩ Đỗ Đức, triển lãm và hội thảo chuyên đề đầu tiên về
tranh lụa là một dâu hiệu đẹp khép lại một năm và mở ra hi vọng mới cho mỹ
thuật Việt Nam. Ở tranh lụa nghệ sĩ không vẽ màu lên khắp mặt tranh để giữ
chất mịn màng, óng ả của chất lụa tham gia vào mặt tranh. Khi vẽ hoạ sĩ vẫn
giữ nguyên các thớ lụa tạo cảm giác như luồn từng sợ tơ để dệt thành tranh,
chất lụa tự nó đã nằm ngay ở ngọn nguồn cảm hứng nghệ thuật của hội hoạ.
2. Đặc điểm của chất liệu
2.1. Cách tạo hình
Nói đến nghệ thuật và những đặc tính của tranh lụa, về vấn đề tạo hình,
bố cục, màu sắc, ánh sang thì vẻ đẹp của tranh lụa cho ta cảm giác tươi mát,

trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh thoát. Để đi vào nghệ thuật tranh lụa, hoạ sĩ có
khả năng cảm nhận nhạy bén và thấu đáo về bản chất của sự vật, không
những chỉ về kiến thức của sự vật mà cả về tinh thần cốt cách của đối tượng.
Đặc tính của nghệ thuật tranh lụa là do cấu tạo trong tạo hình, trong bố
cục, trong màu sắc kết hợp với cảm xúc của mỗi hoạ sĩ. Do cảm xúc khác
nhau, phong cách khác nhau nên tranh lụa cũng rất phong phú, đa dạng.
Tranh lụa cho ta nhìn gần để thưởng thức về vẻ đẹp của từng chi tiết nhưng
khi nhìn xa toàn bộ vẫn thống nhất mà không bị xáo trộn Khi vẽ tranh lụa,
cầm lụa trên tay ta thấy có sự đan kết giữa sợi ngang và sợi dọc và có những
chất li ti tạo nên sự duyên dáng, lung linh. Đặc tính nghệ thuật của tranh lụa
là do cấu tạo trong tạo hình bố cục, trong màu sắc, kết hợp với cảm xúc của
mỗi hoạ sĩ. Do cảm xúc khác nhau, phong cách khác nhau nên dẫn đến một
điều tranh lụa rất đa dạng và phong phú. Tranh lụa cho ta nhìn gần để thưởng
thức vẻ đẹp của từng chi tiết nhưng chỉ nhìn xa toàn bộ vẫn thấy thống nhất
mà không bị xáo trộn. Người ta thường dung rất nhiều loại màu để vẽ, nhưng
màu phát huy vẻ đẹp của lụa là màu nước, nó không có độ phủ nên giữ được
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
11
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
sự óng chuột của nền lụa. Lụa có rất nhiều loại, mỗi loại đều đem lại hiệu
qủa cao.
Lụa dệt mau: rất rễ dàng diễn tả độ đậm nhạt và sự mượt mà êm dịu
như nhung.
Lụa dệt thưa: các ô trống lớn có mặt tích cực và hạn chế, nó rất khó
khăn trong việc diễn tả mảng đậm nhưng vẫn gợi cho ta cảm nhận được sự
duyên dáng, uyển chuyển như bản làng trong sương sớm, sương chiều những

sợi mảnh mai đó se lại cho ta tính khoẻ khoắn của bức tranh lụa.
Lụa vẽ thường phải là tơ tằm, không lỗi, mịn hoặc hơi thô, dệt thủ
công hoặc dệt bằng máy. Gần đây do yêu cầu của ngành mỹ thuật, các nhà
máy dệt đã sản xuất loại lụa chuyên dùng để vẽ tranh, lụa mỏng và hơi thưa,
nhìn rõ thớ lụa.
Khi xây dựng hình bao giờ hoạ sĩ cũng phải tìm những mảng hình khái
quát của sự vật ở toàn bộ mảng chung của sự vật ấy một cách chọn lọc. Trong
sự chọn lọc này người hoạ sĩ phải có mỹ cảm để nhìn sự vật, phải đứng ở góc
độ nào để thấy được vẻ đẹp của chất liệu. Qua xây dựng hình còn cần chú ý
đến cấu tạo của các nét trong sự vật, có nhịp điệu, thường được các hoạ sĩ
phương Đông khai thác nhưng nét đó cũng phải được chọn lọc để thống nhất
hình.
Sự sinh động của tạo hình ở tranh lụa là một yê cầu quan trọng vì
không gian trong tranh lụa đã giản dị ở góc độ ánh sang chiếu vào sự vật.
2.2 Xây dựnng bố cục
Tranh lụa cũng như mọi chất liệu khác như sơn dầu, sơn mài, đồ hoạ
đều tuân theo những quy luật, bố cục đã được đúc kết. Mỗi chất liệu lại có
những đặc tính riêng và mỗi hoạ sĩ lại có cách nhìn và cảm xúc riêng tạo
thành những cách bố cục riêng. Ở tranh lụa, vì bản thân của lụa rất mỏng
manh, mịn màng nên thông thường các hoạ sĩ ít dùng những khối nổi, không
gian nghệ thuật thì ít sử dụng dến ánh sang sơn dầu. Các hoạ sĩ sáng tạo theo
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
12
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
một không gian của mình, có khi không nhờ đến một bối cảnh nào hoặc chỉ
gợi lại bằng cách sử dụng nhiều bội phận của bối cảnh.

Cách sắp xếp bố cục tạo nên không gian mang tính chất ước lệ do hoạ
sĩ sáng tạo ra như tranh lụa của các hoạ sĩ Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông
Dương đặc biệt vậy xa nhấn đậm, gần thì mờ.
Khi xem tranh lụa của các hoạ sĩ bậc thầy Trung Hoa thì mảng nền để
trống rất lớn, đó chính là thành phần của bố cục tạo nên sự liên kết giữa các
nhân vật, tạo nên sự chuyển đổi không biên giới của bố cục. Vì vậy với tranh
lụa ta có thể xem gần hay xem xa cũng được, không gian trong tranh lụa phần
nhiều được sáng tạo ra ở phương Đông như Trung Quốc hoạ sĩ bỏ trống
những mảng lụa lớn. Điều này chúng ta cũng gặp nhiều ở bố cục các tranh
lụa Việt Nam xưa như tranh dân gian, tranh thờ, ở các phù điêu cổ mà ngày
nay các hoạ sĩ Việt Nam đã khai thác và phát triển.
Hơn 60 năm nghệ thuật tranh lụa Việt Nam qua hai chặng đường phát
triển. Đề tài trong tranh lụa rất đa dạng và phong phú. Trước năm 1945, nghệ
sĩ đã tìn cái đẹp trong sự bình yên, tĩnh lặng của một thế giới khép lại. Sau
năm 1945, nghệ sĩ đã đi tìm cái đẹp trong sự tương phản, sôi động của một
thế giới đang sinh thành kể cả ngoại giới và nội giới. Tất cả đang tạo ra một
sắc thái riêng biệt và mang đậm bản sắc văn hoá.
Nội dung trong tranh lụa thường nói về những sinh hoạt của con người
rất gần gũi và thân thuộc, từ những trò chơi dân gian của trẻ em cho đến cảnh
gia đình quay quần bên bữa cơm hay cô gái rửa rau bên cầu ao… Tất cả
những hình ảnh đó đã đi và trong tranh lụa và đã tô điểm thêm cho cuộc sống
của con người ở mọi hoàn cảnh, mọi thời đại.
2.3 Màu sắc và ánh sáng trong tranh lụa
Màu vẽ: Màu dùng để vẽ lụa thường là màu phẩm hoặc mực nho. Sau
này người ta còn dùng những hoạ phẩm đục thơm dày hơn tempera, màu bột
phấn màu…
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
13
Lịch sử mỹ thuật Việt

Nam
Trương Đức
Tuân
Cũng như các chất liệu khác lấy từ thiên nhiên làm gốc và được khúc
xạ trong tâm hồn người nghệ sĩ đã dẫn tới màu sắc của sự sáng tạo, vì lụa rất
khó khăn trong việc khai thác vỏ vật chất bên ngoài của sự vật mà chú tâm
khai thác thần thái tinh cốt bên trong. Từ bốc cục đến cách xây dựng hình
trong tranh lụa đã có sự gạn lọc, cô đọng thì ở đây màu sắc cũng như vậy.
Hoạ sĩ vẽ lụa cũng lấy màu sắc thiên nhiên làm tài liệu, nhưng khi được sự
gạn lọc của cảm xúc thì vẻ đẹp của màu sắc cũng do hoạ sĩ sáng tạo toát ra vẻ
đẹp của màu sắc, tập trung cho cảm xúc ấy.
Sự hài hoà trong màu sắc của một hoạ sĩ cũng là tiếng nói cảm xúc và
phong cách của một hoạ sĩ. Màu sắc trong tranh lụa cho phép hoạ sĩ hoàn
toàn chủ động vì trong khi thể hiện không bào giờ trực tiếp diễn tả sự vật mà
đòi hỏi người hoạ sĩ phải hiểu sự vật từ trước rồi. Và lại sự diễn tả còn là sự
sao chép của thiên nhiên nữa. Nhưng màu sắc lại đi đôi với sắc độ như bóng
với hình, màu không có độ thì bị nhợt nhạt.
Các tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh trước năm 1943 chỉ dừng ở màu
đen, nâu, những mảng màu đen nâu cho đến độ nhìn không biết chán. Khi
nhìn kỹ màu nâu ta thấy nó sâu, óng ả, có cả lục, vàng, đỏ ở đó. Ánh sáng
trong lụa do nhịp điệu và sắc độ của mỗi sự vật do sự sắp xếp của hoạ sĩ tạo
ra. Bức tranh có nhịp điệu sinh động do cảm giác như có sáng tối, do sắc độ
của sự vật mà thành chứ không phải do ánh sáng chiếu đều vào sự vật. Không
diễn tả trực tiếp ánh sáng, màu sắc và độ của toàn bộ bức tranh cho cảm giác
vể ánh sáng đó là một đặc điểm của lụa. Sự trong trẻo và mềm mại của mặt
lụa đã cho cảm giác dễ chịu, có khi toàn bộ bức tranh cho chúng ta cảm giác
đầy ánh sáng. Việc sử dụng chất nước trong khi pha màu làm cho ranh giới
màu sắc nhuyễn vào với nhau khiến ta không thể phân biệt được sự sắc cạnh
của từng mảng màu. Nhờ vẽ màu pha nước mà sự chuyển màu từ đậm đến
nhạt, từ tối đến sáng và ngược lại không bị va vấp. Nó từ tốn, dịu dàng và khi

có sáng tối gặp nhau đột ngột vẫn êm dịu. Đó là đặc điểm điển hình của nghệ
thuật vẽ lụa, nhưng qua phong cách riêng của từng hoạ sĩ tuỳ theo tình cảm
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
14
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
của mỗi người mà cách sáng tạo không hề giống nhau, có khi có người tả về
sắc độ, người lại chú ý về nét, khi thì diễn tả sôi nổi, có khi trầm lặng sâu sắc.
Việc tìm tòi cho tranh lụa rất rộng và khả năng của tranh luạ cũng rất lớn, nó
sẵn sàng chờ đợi những sáng tác mới của các hoạ sĩ.
Với lụa, người đầu tiên thành công cũng là một đại diện tiêu biể là hoạ
sĩ Nguyễn Phanh Chánh. Ngay từ năm 1931, trong đấu xảo Paris, tranh “Chơi
ô ăn quan” của ông đã gây được tiếng vang lớn và được đánh giá là một tác
phẩm nghệ thuật có giá trị cao, được coi là hình tượng nghệ thuật hiếm lạ,
hoàn toàn không giống nền nghệ thuật của quốc gia nào. Ý kiến đánh giá đó
là sự thắng lợi được coi là rất lớn lao của tạo hình Việt Nam.
Tranh luạ của hoạ sĩ Việt Nam không giống với tranh lụa Trung Quốc
mặc dù các hoạ sĩ Việt Nam đã nghiên cứu và học tập tranh Trung Quốc.
Nguyễn Phan Chánh khi tham khảo tranh lụa Trung Quốc đã nhận ra
điểm độc đáo của hội hoạ Trung Hoa, hội hoạ phương Đông khác hẳn với hội
hoạ Châu Âu, phương Tây. Với tâm hồn dân tộc sâu đậm, ông đã tìm cho mình
một con đường sáng tạo đúng quan niệm tạo hình phương Đông và ông đã
nhanh chóng thành công. Và còn nhiều hoạ sĩ khác cũng đi vào chất liệu này
và có các tác phẩm đẹp với nhiều cách vẽ khác nhau, có thể vẽ lụa một cách rõ
ràng, mảng nào ra mảng nấy như bức tranh “ Bức thư” (1931), “ Rửa rau cầu
ao” của Nguyễn Phan Chánh hay bức “Em bé và hoa” của Mai Trung Thứ.
Với Nguyễn Phan Chánh, mỗi tác phẩm đều có một bài thơ viết kiểu

chữ Thảo rất đẹp bên cạnh. Thơ, hoạ và thư pháp luôn song hành cùng nhau,
hỗ trợ và tôn lên vẻ đẹp của nhau trong mỗi bức tranh của ông. Nguyễn Phan
Chánh là hoạ sĩ Việt Nam duy nhất ưa dùng chữ Nho trong tất cả các tác
phẩm của mình. Trong tranh của ông thì hội hoạ miêu tả đề tài của tranh, thi
ca nói về tâm sự của người hoạ sĩ. Đôi khi thơ trên tranh của Nguyễn Phan
Chánh còn mang một giá trị độc lập, không liên quan nhiều đến nội dung
tranh, ông gọi cho người ta nhớ đến những mẫu mực của nghệ thuật cổ điển
phương Đông và phương pháp tạo hình phương Tây. Ông được xem là một
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
15
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
hiện tượng khá đặc biệt của nền hội hoạ Việt Nam, thành công vang dội ngay
từ tác phẩm đầu tiên” Chơi ô ăn quan”- tác phẩm đầu tay của ông đã trở
thành một trong những tác phẩm mẫu mực của hội hoạ Việt Nam.
“Chơi ô ăn quan” là một tác phẩm bình dị, đơn giản, dễ cảm nhận từ
cách thể hiện đến nội dung, đề tài sáng tác. Tranh diễn tả bốn em bé trong
trang phục áo yếm, tóc vấn khăn mỏ quạ đang chơi một trò chơi dân gian.
Toàn tranh là hoà sắc nâu ấm đậm đà trong nhiều màu sáng nóng lạnh tinh tế
trên nền của màu nâu sáng. Cả bốn nhân vật được thể hiện bằng những mảng
màu phẳng đậm, tất cả đựơc sắp xếp tạo ra bố cục chặt chẽ, chắc chắn bằng
các rải màu sáng tạo nhịp điệu và tập trung và trọng tâm của tác phẩm. Đó là
khoảng trống giữa các nhân vật, ở đó hiện lên bàn ô ăn quan, mọi cặp mắt
đều hướng theo bàn tay em bé đang rải quan. Bức tranh dường như dồn về
một phía nhưng những miếng nâu đậm, tròn của bàn ô ăn quan đã kéo mảng
đậm với mối quan hệ giữa các nhân vật làm hài hoà, cân đối cho bức tranh.
Trên nền tranh còn những hàng chữ màu đậm vừa góp phần tạo nên sự cân

đối trong bức tranh vừa gợi nhớ về những bửc tranh dân gian Đông Hồ, Hàng
Trống xưa. Cái đẹp trong tranh “ Chơi ô ăn quan” chính là sự sắp xếp cân đối
của các mảng màu nâu, đen tinh tế về sắc độ đồng thời đẹp ở sự tương phản
của các màu sáng tối và sự gần gũi, ấm áp trong trò chơi dần gian. Tranh
“Chơi ô ăn quan” tả các em vào mùa lạnh nên các em mặc đồ ấm của bà con
lao động. Phần nhiều là áo nâu bầm, chít khăn mỏ quạ, rất hợp với màu áo vì
khăn mỏ quạ màu đen và màu đen của quần hợp với màu nâu, đều là màu
nóng. Nếu để cả màu nóng thì tranh sẽ tối, không nổi nên phải xen vào màu
lạnh như màu trắng và màu xanh tím của áo cô hoặc quần trắng để giảm bởi
màu nâu tối đi mà sáng sủa lên. Màu các ô ăn quan tuy là phụ nhưng cũng
điều hoà với màu áo. Khoảng trên bức tranh không thêm gì hơn vì các em đã
choán hết không gian bức tranh, chỉ có đề bài thơ chữ Hán rồi đánh dấu son
và chữ ký của tác giả. Ấn son màu đỏ rất cần thiết để làm tươi thêm bức
tranh.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
16
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
Nền lụa cũng góp phần tạo nên sự độc đáo cho tranh của hoạ sĩ
Nguyễn Phan Chánh. Ông nghiên cứu về lụa, lối vẽ vủa ông dựa vào kỹ thuật
dựng hình châu Âu nhưng vẫn giữ được hoà sắc, bố cục, bút pháp phương
Đông truyền thống. Thành công của ông là những tác phẩm: “Chơi ô ăn
quan”, “ Rửa rau cầu ao”, “ Bữa cơm”… Trên chất liệu lụa mềm mại, tác giả
đã đặt những mảng màu nhuần nhụi, thấm đượm vào từng thớ lụa, tạo nên vẻ
đẹp thanh nhã, thuần khiết rất thơ mà cũng rất mộc mạc, chân tình. “ Em bé
cho chim ăn” – là một thế giới về tạo hình được khám phá từ những nét bút
lông, cách vờn đậm nhạt, từ đó khéo léo đặt những mảng hình định trước với

hoà sắc chung của tranh và những màu vàng, xanh, đến trầm lắng.
Hoạ sĩ dùng màu trên tranh lụa mà tạo sự phong phú bằng đậm, nhạt
của sắc độ cũng như cách diễn tả mặt phẳng là chủ yếu. Nếu như bức tranh
“Chơi ô ăn quan ” của Nguyễn Phan Chánh là một tác phẩm thành công, giản
dị , tĩnh lặng thì “ Bữa cơm mùa vụ thắng lợi” lại biểu hiện sự thành công của
hoạ sĩ theo hướng khác. Ngoài giá trị về hình thức thể hiện, mỗi bức tranh
mang một nội dung khác nhau diễn tả con người ở các thời điểm khác nhau.
Trong tranh “ Chơi ô ăn quan ” các em bé chơi một trò chơi yêu thích của trẻ
con nhưng sao ta thấy tĩnh lặng quá. Bức tranh đẹp và thành công chính là vì
đã diễn tả sự tập chung cao độ của các em bé trong trò chơi khi lặng lẽ theo
dõi, chờ đợi lượt đi của bạn. Ngược lại trong bức tranh “ Bữa cơm mùa vụ
thắng lợi”, tác giả cho chúng ta cảm nhận được niềm vui đong đầy trong ánha
mắt của từng người trong cuộc sống gia đình nông dân khi được mùa. Nếu”
Chơi ô ăn quan” là bức tranh tĩnh thì bức tranh “ Bữa cơm vụ thắng lợi ” lại
là động, động ở những ánh mắt, những động tác ở sang và của những mảng
màu. Xem tranh ta thấy được một cảnh tượng nồng ấm, hạnh phúc của cả nhà
quay quần, vui vẻ bên nhau trong bữa cơm gia đình. Ngoài sân ánh sang
bừng lên với cây rơm, bị thóc, đàn gà. Không gian như được thu hẹp lại giúp
chúng ta cảm nhận niềm vui được mùa lan toả khắp nơi trong gia đình. Ánh
sáng được giải đều trên tranh từ những gương mặt đến mâm cơm rồi tràn ra
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
17
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
ngoài sân. Dường như ta có thể cảm nhận được những tiếng cười, lời nói nhỏ
nhẹ của người mẹ và sự nghịch ngợm của em bé. Vẫn gam màu đen quen
thuộc ấy, song bằng việc sử dụng tương phản mạnh giữa nóng và lạnh của

màu sắc, giữa đậm và sang. Tác giả thể hiện được chiều sâu của không gian ở
tác phẩm này từ sự kết hợp giữa các kiến thức khoa học của phương Tây với
lối vẽ mảng bẹt giàu chất trang trí của nghệ thuật dân gian Việt Nam rất
nhuần nhuyễn, hợp lý, chúng hoà thành một và tạo nên phong cách đặc biệt
của Nguyễn Phan Chánh.
Nguyễn Tiến Chung về nông thôn đã ký hoạ nhiều dáng về các chàng
trai, cô gái để đưa và rất nhiều nhân vật, bối cảnh với một dáng vẻ khác nhau
mang tính khái quát nhau.
Để vẽ mùa gặt, Nguyễn Tiến Chung đã quan sát sự vật và ghi chép từ
đầu đến cuối vụ mùa. Bức tranh có nhiều nhân vật khác nhau, từ ông già đến
bà già tham gia công việc đến những chàng trai vạm vỡ và những cô gái nông
thôn son trẻ. Tác giả đã xây dựng hình các nhân vật từ hang chồng ký hoạ
nghiên cứu của mình. Thực tế vể thiên nhiên chứa đựng những vẻ đẹp muôn
hình, cuộc săn bắt những hình ảnh đẹp là một công việc thật công phu.
Nguyễn Tiến Chung là một trong số ít những hoạ sĩ Việt Nam vững
vàng nhất về chất liệu này. Quang cảnh gặt hái trên cánh đồng và những
người nông dân xứ Đoài ấy. Đó là kết quả cất công từ ngày này qua ngày
khác của ông ở “hiện trường” để “săn lung hình ảnh”. Ông bố trí ngày mùa
theo chiều dài, bề cao chỉ chiếm 2/3 bề ngang, nhìn khắp cả cánh đồng lớn,
nâng chân trời lên sát mép tranh, ở đó có 2 lớp luỹ tre với mảng lớn nhỏ tách
nhau soi bong xuống đầm nước…
Phần trọng tâm của bức trnah là đồng lúa với những hình người nông
dân đang gặt hái nhộn nhịp, đông đúc, người cúi rạp xuống gặt, người đứng
lên bó lúa nhấp nhô, tạo thành một đường lượn nhịp nhàng. Tất cả các nhan
vật được lồng vào những bong hình gợi cảm nhất liên kết với nhau hoà vào
nhịp điệu lao động đầy cảm hứng.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
18
Lịch sử mỹ thuật Việt

Nam
Trương Đức
Tuân
Bức tranh ngày mùa với vẻ nhẹ nhàng, bay bổng trong cách thể hiện
cảu Nguyễn Tiến Chung đã mang theo cả tiếng nhạc và thơ đượm vị triết học
Á Đông cùng hoà trong một bản đồng ca lao động hân hoan chào đón những
ngày tốt đẹp, ấm no, hạnh phúc.
Các hoạ sĩ đã đi sâu để tài trong cuộc sống kháng chiến. Cách tìm tòi
sáng tạo hình không chỉ tìm mảng mà có lúc sử dụng đậm nhạt vượt khỏi
danh giới mảng hình. Cho đến nay đã có nhiều hoạ sĩ vẽ lụa, khuynh hướng
của thời kỳ này mang vẻ đẹp rất phong phú, có những hoạ sĩ lại dùng những
hoà sắc mạnh mẽ hơn, không chỉ dừng lại ở cái hoà sắc êm dịu, diễn tả tính
chất thâm thuý, gần gũi với một tâm hồn trung hậu.
Cùng thời với Nguyễn Phan Chánh, các hoạ sĩ Mai Trung Thứ, Lê Phổ,
Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Thị Lựu, Hoàng Lập Ngôn…cũng ghi dấu tên
tuổi mình bằng những tác phẩm lụa đẹp và giàu cá tính.
Vũ Giáng Hương, Trần Thanh Ngọc…là những hoạ sĩ trẻ hơn đã tiếp
bước phát triển trên một nền tranh lụa. Mai Trung Thứ, Lê Phổ sống ơ Paris,
trung tâm hội hoạ trường phái tân kì của thế giới nhưng họ vẫn vẽ lụa, góp
phần quảng bá nghệ thuật độc đáo của ta ra phương Tây.
Tuy vậy, hơn nửa thể kỷ nhìn lại, so với sơn mài và các chất liệu khác,
thì mảng tranh lụa đã được Vụ Mỹ Thuật - Nhiếp ảnh và Bảo tang Mỹ thuật
Việt Nam phối hợp tổ chức như mong muốn tìm cơ hội phát triển cho tranh
lụa Việt Nam. Nhưng, mặc dù với con số khá ấn tượng là 154 tác phẩm được
chọn triển lãm, theo các nhà chuyên môn và giới hoạ sĩ, thì trong đó thực sự
những tác phẩm coi là “tạm được” chỉ có vài chục bức.
Phần lớn các tác phẩm đều mới được sáng tác trong vài năm nay, tron
đó, chủ yếu là bài thi tốt nghiệp của sinh viên. Bên cạnh đó, cũng có nhiều
tác phẩm của các hoạ sĩ thành danh ở chất liệu, thể loại khác, chỉ “đá sân
hưởng ứng”.

Có những bức của các tác giả trẻ đã làm”bật lên” được chất liệu truyền
thống, với những sang tạo trong cách đồ hình, với tư duy hiện đại là
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
19
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
những”điểm sáng”tại triển lãm này. Tuy nhiên, có nên coi đó là những tia hy
vọng hay không? Bởi, chúng ta phải nhìn vào thực tế có khi đó là những tác
phẩm tốt nghiệp, là “kết quả” của cả thầy lẫn trò hoặc là những tác phẩm của
các hoạ sĩ chuyên tâm vào các chất liệu khác như sơn mài, khắc gỗ, đồ hoạ…
Thực sự, những tác giả hiện tại chuyên tâm với chất liệu lụa hiện nay là gần
như không có.
Tác phẩm Chiều Hoàng Thành của Vũ Đình Tuấn dùng gam màu vàng
đỏ vương giả hoàn toàn thoát thực, đi rất xa với cái nhìn hiện thực thường
thấy ở lụa truyền thống. Nhưng những thớ lụa óng ả vẫn bật lên, hoạ sĩ đã đồ
hình với cấu trúc hiện đại, khá thành công với cách nhìn trang trí.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
20
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
B. KẾT LUẬN
Tranh lụa là một loại tranh vẽ trên lụa rất đẹp và độc đáo ở sự giản dị,
ở sự kết hợp nhuần nhuyễn ở cách tạo hình phương Tây với quan niệm thẩm
mỹ phương Đông. Gioóc-giơ Bu-đa-rênh trong tạp chí Niu Ô-riêng(New

Orient) số tháng hai năm 1965 đã viết về tranh lụa của hội hoạ Việt Nam:”…
toàn thể bao giờ cũng toát lên vẻ độc đáo không thể tìm thấy ở bức tranh nào
khác. Nghệ thuật này rất giản dị và kín đáo, hình như lại có vẻ quá trang
trọng nữa. Giữa cái rực rỡ đầy kiêu hãnh của sơn mài và sự hoà hợp nặng nề
của sơn dầu, tranh lụa có sắc thái quê hương thanh nhã, một điệu hát rue m,
một giấc mơ trong tâm hồn của những nông dân bình dị và những em nhỏ”.
Cũng chính vì thế, tranh lụa của các hoạ sĩ Việt Nam “ngọt ngào” đi vào lòng
người và đẹp mãi mãi với thời gian.
Tranh lụa là một trong những loại hình hội hội họa có khả năng biểu
đạt rất cao. Sử sách và các nguần tư liệu ta biết trong thời kỳ phong kiến đã
có những bức tranh vẽ trên chất liệu lụa. Mạc dù tranh không còn nhưng cũng
chứng tỏ lụa là một chất liệ quen thuộc trong hội hoạ Á Đông cũng như hội
hoạ cổ Việt Nam.
Tranh lụa là một nghệ thuật quan trọng của hội hoạ Việt Nam sau sơn
mài. Phương pháp vẽ tranh của lụa đã đem lại cho hoạ sĩ một sắc thái dịu
dàng lan toả qua sợi tơ tằm óng ánh càng làm cho cá mảng thêm rung rinh,
sinh động.
Hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh chính là nghệ sĩ khai phá hình thức nghệ
thuật này của Việt Nam. Hoạ sĩ Trần Văn Cẩn, Phan Thông là lớp kế cận sau
đã thay đổi được nhiều nội dung, kĩ thuật và bước tiến trong xử lý ánh sáng,
hoà sắc.
Có thể nói, nghệ thuật tranh lụa của ta đã tìm được một mảng màu
riêng, kiệm màu, tạo sự phong phú của sắc thái, sợi tơ óng mịn, nhờ các hoạ
sĩ tài ba nhuộm màu nhuần nhụi, có hướng sắc, ngân lên tiếng ca sâu thẳm
của tâm hồn người Việt.
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
21
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam

Trương Đức
Tuân
MỘT SỐ TRANH LỤA CỦA CÁC HOẠ SĨ VIỆT NAM
Chơi ô ăn quan - Nguyễn Phan Chánh
Em bé cho chim ăn Nguyễn Phan Chánh
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
22
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
Bữa cơm mùa vụ thắng lợi - Nguyễn Phan Chánh
Em bé ngủ - Nguyễn Thị Mộng Bích
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
23
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân
Kỳ lưng - Nguyễn Phan Chánh
Góc bếp - Nguyễn Văn Nguyệt
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
24
Lịch sử mỹ thuật Việt
Nam
Trương Đức
Tuân

Chợ vùng cao - Trần Quang Dũng
Líp: K56 - SP Mỹ thuật Trường ĐHSP Hà
Nội
25

×