PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu đề tài:
Bước sang thế kỉ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật
và công nghệ lượng tri thức khoa học tăng lên theo cấp số nhân, khoảng cách
giữa phát minh lí thuyết và ứng dụng chúng trong thực tế ngày càng rút ngắn
lại. Sự phát triển đó đã ảnh hưởng lên tất cả các mặt văn hoá- kinh tế- chính trị
trong đó có giáo dục. Giáo dục đóng một vai trò lớn trong việc phát huy tiềm
năng trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người Việt Nam, là động lực quan
trọng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đưa nước ta tiến
lên nhanh, vững vàng hội nhập kinh tế quốc tế và sánh vai cùng các cường
quốc trên thế giới.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhu cầu của thực
tiễn xã hội đòi hỏi con người mới phải là con người có năng lực tri thức (năng
lực trí tuệ), năng lực giải quyết vấn đề trong môi trường sống luôn biến động.
Vì vậy giáo dục nước nhà cần phải có sự đổi mới cả về nội dung và phương
pháp giảng dạy, nhà trường phải tổ chức hoạt động dạy và học như thế nào để
sau khi ra trường học sinh có khả năng tự học, tự thích nghi với hoàn cảnh
mới muốn vậy phải đạt mục tiêu “ giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng độn sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách, trách nhiệm công dân; chuẩn bị chho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc” (Điều 27- Luật Giáo dục của quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số
38/2005/ QH 10 ngày 14- 6- 05).
1
Để đạt mục tiêu đó, ngành giáo dục kết hợp với cấp uỷ, chính quyền tích
cực thực hiện các biện pháp phát triển giáo dục. Ngành luôn chú trọng thực
hiện các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện đổi mới chương
trình nội dung sách giáo khoa, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tuy
nhiên thực tế cho thấy việc thực hiện mục tiêu trên là chưa hiệu quả, đặc biệt
là môn Công nghệ ở các trường phổ thông. Do nhiều nguyên nhân khác nhau
cả chủ quan lẫn khách quan nên việc học tập môn Công nghệ của học sinh vẫn
thiên về lí thuyết, học sinh ít được trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực
hành, thực nghiệm, sử dụng và làm quen với qui trình sản xuất kĩ thuật cụ thể,
ít được tiếp xúc với các thiết bị ki thuật, chưa được tham gia vào lao động sản
xuất thực tế. Vì vậy học sinh không hứng thú học tập, khả năng tư duy, năng
lực vận dụng kiến thức kĩ thuật vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề kĩ thuật
còn yếu. Là sinh viên sắp ra trường, sẽ trực tiếp giảng dạy bộ môn Công nghệ
ở trường phổ thông, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là: "Năng lực kĩ thuật và
biện pháp nâng cao năng lực kĩ thuật cho học sinh trong dạy học môn
Công nghệ 11" với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào
công cuộc đổi mới phương pháp dạy học môn học, góp phần hoàn thành mục
tiêu giáo dục trong thời đại mới, dạy học theo hướng phát huy tích cực, tự lực
của người học nhằm đưa học sinh vào chủ thể của hoạt động qua đó năng lực
nhận thức của học sinh được hình thành ngay khi học tập trong nhà trường
góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh khi rời khỏi ghế nhà trường
tiếp tục học tập chuyên sâu hoặc tham gia vào lao động sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp dạy học nhằm hình thành và
phát triển năng lực kĩ thuật cho học sinh trong dạy học Công nghệ 11 nhằm
nâng cao chất lượng dạy học môn học.
2
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Năng lực kĩ thuật
- Một số biện pháp hình thành năng lực kĩ thuật cho học sinh ở trường
phổ thông
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiêmj vụ của đề tài phải giải quyết
các vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của năng lực và con đường
hình thành năng lực kĩ thuật
- Nghiên cứu thực trạng quá trình dạy và học môn Công nghệ ở trường
phổ thông
- Đặc điểm môn Công nghệ 11
- Thiết kế bài dạy theo hướng hình thành và phát triển năng lực kĩ thuật
thông qua một số bài học cụ thể thuộc chương trình Công nghệ 11
- Tiến hành thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của đề tài
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Năng lực kĩ thuật, biện pháp phát triển năng lực kĩ thuật cho học sinh
thông qua dạy học môn Công nghệ 11 ở trường phổ thông.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu thu thập thông tin khoa
học liên quan đến năng lực kĩ thuật, biện pháp hình thành và phát triển năng
lực kĩ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp thực nghiệm
sư phạm.
3
6. Cấu trúc của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung
chính của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đề xuất một số biện pháp và vận dụng để hình thành và phát
triển năng lực kĩ thuật trong dạy học Công nghệ 11
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận của đề tài:
1.1. Năng lực:
1.1.1. Khái niệm về năng lực:
Theo tâm lí học: " Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm
đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt".
Một con người cụ thể khi đứng trước những yêu cầu của một hoạt động,
thực hiện một công việc xác định, nếu nhờ những đặc điểm tâm lí và sinh lí
của mình để có thể giải quyết tố những yêu cầu của hoạt động hay của công
việc đó thì có thể kết luận rằng người ấy có năng lực giải quyết công việc đó.
Như vậy, có thể thấy năng lực là sự tương xứng giữa một bên là đặc điểm tâm-
sinh lí của một con người và một bên là những yêu cầu cụ thể của hoạt động
đối với người đó. Sự tương xứng đó là điều kiện để con người hoàn thành
công việc mà hoạt động phải thực hiện.
Như vậy, con người sinh ra ai cũng có một năng lực nhất định, không có
năng lực này thì có năng lực khác. Mỗi người có thể có nhiều loại năng lực
khác nhau, năng lực này có thể tồn tại ở trạng thái lặn, năng lực khác lại ở
trạng thái trội, tuỳ thuộc vào đặc điểm sinh lí và yêu cầu của mỗi công việc.
Năng lực được hình thành nhờ có sự học hỏi, luyện tập và ý thức vươn lên.
Điều này đòi hỏi người giáo viên khi dạy học phải biết khơi dậy năng lực tiềm
tàng sẵn có trong học sinh. Tuy nhiên, để phát triển năng lực ở học sinh thì
bản thân học sinh phải có tư chất, đó chính là đặc điểm về tâm- sinh lí hệ thần
5
kinh của con người. Tư chất là điều kiện tự nhiên cần thiết để hình thành và
phát triển năng lực. Các tư chất là bẩm sinh còn năng lực được hình thành và
phát triển qua quá trình hoạt động. Năng lực gắn liền và phụ thuộc hữu cơ với
các tri thức và kĩ năng của con người. Con người càng hiểu biết nhiều về một
lĩnh vực nào đó thì năng lực hoạt động về mặt này của họ càng phát triể
nhanh.
1.1.2: Các mức độ của năng lực:
Dựa vào tốc độ tién hành một hoạt động và kết quả đạt được của hoạt
động, người ta chia năng lực thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng,
thiên tài.
- Năng lực: Là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị
khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó.
- Tài năng: Là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành sáng tạo
một hoạt động nào đó.
- Thiên tài: Là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức kiệt xuất về
thực hiện hoạt động hoàn chỉnh nhất của những vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.
1.1.3: Phân loại năng lực:
Dựa vào mục đích đáp ứng trong thực tiễn của các hoạt động mà năng
lực được chia làm hai loại: năng lực chung và năng lực riêng biệt.
- Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví
dụ như: Năng lực giao tiếp, năng lực trí tuệ…là những điều kiện cần thiết để
giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có kết quả.
- Năng lực riêng biệt (còn gọi là năng lực chuyên biệt hay năng lực
chuyên môn) là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt có tính chuyên
môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết
6
quả cao. Chẳng hạn như: năng lực toán học, năng lực thơ văn, năng lực kĩ
thuât, năng lực âm nhạc, năng lực sư phạm…
Hai loại năng lực chung và năng lực riêng luôn bổ sung và hỗ trợ cho
nhau.
1.1.4: Mối quan hệ giữa năng lực với tư chất, với thiên hướng và với
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
a. Mối quan hệ giữa năng lực với tư chất:
Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lí bẩm
sinh của bộ não, của hệ thần kinh, của cơ quan phân tích. Nó tạo nên sự khác
biệt giữa con người với nhau. Ngoài những yếu tố bẩm sinh, di truềyn, trong
tư chất còn chúa đựng những yếu tố tự tạo trong cuộc sống cá thể. Đặc điểm di
truyền có được bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay không, và thể hiện ở mức
độ nào, điều đó hoàn toàn do hoàn cảnh sống quyết định.
Như vậy tư chất là một trong những điều kiên hình thành
năng lực, nhưng tư chất không qui định trước sự phát triển của các năng lực.
Trên cơ sở của tư chất, có thể hình thành những năng lực khác nhau. Trong
hoạt động, những tiền đề bẩm sinh được phát triển nhanh chóng, những yếu tố
chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục được hoàn thiện thêm và những cơ chế bù trừ được
hình thành để bù đắp cho những khuyết nhược của cơ thể.
b. Mối quan hệ giữa năng lực với thiên hướng:
Thiên hướng là một khuynh hướng của cá nhân đối với một loại hoạt
động nào đó.
Thiên hướng về một loại hoạt động nào đó nà năng lực đối với hoạt
động ấy thường ăn khớp với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Thiên
hướng mãnh liệt của con người đối với một loại hoạt động nào đó có thể coi là
dấu hiệu của những năng lực đang hình thành và phát triển.
7
c. Mối quan hệ giữa năng lực với tri thức, kĩ năng, kĩ xảo:
Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện cần thiết
để có năng lực trong lĩnh vực đó. Cùng với năng lực thì tri thức, kĩ nẵng, kĩ
xảo thích hợp cũng rất cần thiết cho việc thực hiện có kết quả một hoạt động.
Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo không đồng nhất với năng lực, nhưng có quan hệ mật
thiết với nhau. Ngược lại năng lực góp phần làm cho việc tiếp thu tri thức,
hình thành kĩ năng và kĩ xảo tương ứng với lĩnh vực của năng lực đó được
nhanh chónh và dễ dàng hơn.
Như vậy, giữa năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có sự thống nhất biện
chứng, nhưng không đồng nhất. Một người có năng lực trong một lĩnh vực
nào đấy có nghĩa là đã có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này.
Ngược lại khi đã có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thuộc một lĩnh vực nào đó không
hẳn sẽ có được năng lực về lĩnh vực đó bởi năng lực chỉ được hình thành trong
hoạt động cụ thể. Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất nhưng điều
chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực
của con người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển năng lực:
Quá trình hình thành và phát triển năng lực là thành tố của quá trình
hình thành và phát triển nhân cách, tuân theo qui luật chung của sự phát triển
nhân cách. Năng lực, nhân cách không phải là cái bẩm sinh mà là được hình
thành bộc lộ và phát triển trong quá trình con người hoạt động và giao lưu,
giao tiếp. Như V.I. Lenin đã khẳng định: “ Cùng với dòng sữa mẹ, con người
hấp tụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lí học Xô Viết
nổi tiếng A.N.Lêonchiev cũng chỉ ra rằng: “ nhân cách cụ thể là nhân cách con
người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội
tâm, từ các quan hệ với thề giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội
8
do các thế hệ trước tạo ra,các quan hệ xã hội mà nó gắn bó”. Như vậy,năng
lực, nhân cách của con người được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng
của nhiều yếu tố như:
- Yếu tố tự nhiên- sinh học:
Yếu tố tự nhiên- sinh học đề cập ở đây là nói đến vai trò của di truyền
trong sự hình thành và phát triển năng lực. Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em
những thuộc tinhsinh học đã có ở cha mẹ, là sự truyền lại của cha mẹ cho con
cái những đặc điểm và những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ
thống gen. Di truyền tạo ra những điều kiện ban đầu để con người có thể hoạt
động có kết quả trong một lĩnh vực nhât định. Ví dụ như cha mẹ có năng
khiếu ca hát, hội hoạ những năng khiếu này di truyền ở con cái thì giúp cho
con cái thuận lợi hơn trong hoạt động ca hát, hội hoạ.
Tuy nhiên, di truyền chỉ tạo nên tiền đề vật chất cho sự hình thành và
phát triển năng lực. Sự thành công trong một lĩnh vực nào đó phần lớn phụ
thuộc vào hoàn cảnh thực tiễn, vào lao đông, rèn luyện cũng như việc tích
luỹu kinh nghiệm của cá nhân.
- Yếu tố môi trường- xã hội:
Mỗi con người đều hoạt động trong một môi trường xã hội nhất định,
môi trường góp phần tạo nên động cơ, mục đích, phương tiện, hành động và
đặc biệt cho hoạt động của cá nhân với xã hội, nhờ đó cá nhân thu được những
kinh nghiệm xã hội loài người, biến nó thành cái của mình. Sự phát triển của
cá nhân góp phần tích cực vào sự phát triển môi trường xung quanh đưa xã hội
ngày càng tiến lên. Cũng thông qua môi trường sống, con người điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội, đem lại hiệu quả cao
trong các hoạt động của mình và năng lực ngày càng được phát triển.
- Yếu tố giao tiếp:
9
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu
giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản xuất hiện sớm nhất ở con
người. Các Mác đã chỉ ra rằng: “ Sự phát triển của một cá nhân được qui định
bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao lưu một cách trực tiếp
với họ”.
Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, chuẩn mực xã
hội, lĩnh hội nền văn hoá xã hội, chuẩn mữc xã hội hoàn thiện bản thân. Cũng
thông qua giao tiếp con người được thể hiện khả năng của mình góp phần xây
dựng xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức
các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu
so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân
mình. Thông qua giao tiếp khả năng tự ý thức được phát triển.
- Yếu tố hoạt động của chủ thể:
Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển năng lực. Để hình thành và phát triển năng lực trong một lĩnh vực
nào đó, cá nhân phải tham gia trực tiếp, học hỏi kinh nghiệm của loài người,
lĩnh hội tiếp thu nền văn hoá xã hội một cách tích cực, say mê, kiên trì đi tới
đích thì mới đạt kết quả tốt. Nhiều nhà khoa học cho rằng: “ Thiên tài, chín
mươi chín phần trăm là do lao động, chỉ một phần trăm là do bẩm sinh”. Như
vậy bằng chính hoạt động của mỗi cá nhân mà cá nhân hoàn thiện năng lực
của bản thân. Nếu cá nhân không trực tiếp tham gia hoạt động học tập, lao
động, hoạt động xã hội, hoạt động nghề nghiệp thì không thể hình thành và
phát triển năng lực.
Hoạt động có vai trò quyết định sự hình thành và phát triển năng lực nên
trong công tác giáo dục cần làm phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức
10
hoạt động sao cho thực sự lôi cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào các
hoạt động đó.
- Yếu tố giáo dục, dạy học:
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch, ảnh hưởng đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển nhân
cách (trong đó có năng lực).
Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển năng
lực. Vì giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành ở
người học những năng lực cần đạt được phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
Giáo dục góp phần tạo cho thế hệ trẻ sự phát triển nhanh, mạnh hướng vào
tương lai.
Sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh phải thông qua chính
hoạt động của học sinh trong mối quan hệ với cộng đồng. Bởi vậy, nhà trường
hiện đại phải là nhà trường hoạt động lấy hoạt động của học sinh là động lực
chính để đạt mục đích đào tạo. Chỉ có dạy học trong nhà trường mới có khả
năng tạo ra những hoạt động đa dạng, phong phú cần thiết, tạo điều kiện để
phát triển những năng lực khác nhau ở học sinh, phù hợp với năng khiếu bẩm
sinh của họ và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý
tạo điều kiện cho mỗi cá nhân học sinh giao lưu với các thành viên khác trong
nhà trường, gia đình và xã hội.
Bằng những hoạt động trong nhà trường sẽ giúp học sinh sớm ý thức
được những yêu cầu của xã hội đối với hoạt động của mỗi người trong những
lĩnh vực khác nhau Hơn thế còn giúp cho việc định hướng học sinh phát huy
được khả năng, năng lực của mình.
Trong dạy học có khả năng định hướng thúc đẩy phát triển năng lực của
học sinh nhưng cần khắc phục tình trạng gò ép học sinh theo khuôn mẫu cứng
11
nhắc vì như vậy sẽ làm hạn chế sự phát triển đa dạng ở học sinh. Cần tổ chức
cho học sinh hoạt động tích cực, tự lực để chiếm lĩnh tri thức, hình thành và
phát triển năng lực.
1.2. Năng lực kĩ thuậ (NLKT):
1.2.1. Khái niệm:
Năng lực kĩ thuật là tổ hợp những yếu tố tâm sinh lí cá nhân đáp ứng
những đòi hỏi của một hoạt động kĩ thuật nào đó.
Như vậy, NLKT thuộc năng lực chuyên môn, có phạm vi rộng, do đó nó
có thể bao gồm nhiều năng lực chuyên biệt (phạm vi hẹp).
1.2.2. Cấu trúc của năng lực kĩ thuật:
NLKT là sự thể hiện tương xứng giữa một bên là tổ hợp những thuộc
tính tâm- sinh lí cá nhân con người và một bên là những yêu cầu của một dạng
hoạt động kĩ thuật cụ thể nào đó đặt ra cho con người trong lao động, sản xuất.
Nhờ có những thuộc tính nhất định con người đạt được những kết quả tốt đẹp
trong hoạt động kĩ thuật. Như vậy, NLKT phải được thể hiện trong kết quả
của hoạt động kĩ thuật, công nghệ. Khi mục đích của hoạt động kĩ thuật, công
nghệ nào đó được đặt ra và người học đi tới mục đích đó bằng chính hoạt
động của mình thì người đó được coi là có năng lực kĩ thuật.
Cấu trúc của NLKT gồm 3 khâu thành phần nằm trong mối quan hệ
tương hỗ. Đó là các khâu: khâu nhận thức kĩ thuật, khâu thiết kế kĩ thuật, khâu
vận dụng kĩ thuật. Mối quan hệ tương hỗ giữa các khâu được thể hiện qua sơ
đồ sau:
Nhận thức kĩ thuật
Thiết kế kĩ thuật Vận dụng kĩ thuât
12
Những khâu trên của NLKT không nằm tách biệt mà đó là những quá
trình xen kẽ lẫn nhau. Trong thiết kế có nhận thức, trong vận dụng lại có sự
thiết kế hoặc có sự nhận thức. Để thiết kế kĩ thuật thì cần phải có những hiểu
biết, phải có kiến thức về kĩ thuật, phải có sự nhận thức. Cũng chính từ sự
nhận thức kĩ thuật thì mới tiến hành vận dụng và sự vận dụng đó chính là vận
dụng những thiết kế kĩ thuật.
1.2.3 Đặc điểm của năng lực kĩ thuật:
NLKT thuộc phạm trù của năng lực nói chung, do đó NLKT cũng mang
những đặc điểm chung của năng lực. Đó là: Nó có sự kết hợp nhiều đặc điểm
tâm lí với đặc điểm sinh lí; có sự tụ hội nhiều yếu tố kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo
kinh nghiệm và sẵn sàng hoạt động; có sự ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh
nhưng chỉ được hình thành thông qua hoạt động rèn luyện của chủ thể. Bên
cạnh đó NLKT còn có những đặc điểm riêng:
1.2.3.1. Năng lực kĩ thuật dùng yếu tố tư duy kĩ thuật là yếu tố hạt
nhân chủ đạo trong mọi khâu thành phần:
Tư duy kĩ thuật (TDKT) có vai trò quan trọng trong việc hình thành và
phát triển NLKT. Để hoàn thành tốt một hoạt động kĩ thuật thì con người cần
đọc được và hiểu được những bản vẽ, sơ đồ, mô hình kĩ thuật. Tuy nhiên để
làm những việc đó, con người phải có TDKT đó là tư duy khái niệm, tư duy
hình ảnh, tư duy thao tác. Cá nhân phải có TDKT thì mới đảm bảo có NLKT
thực sự.
Bên cạnh TDKT thì trí tưởng tượng kĩ thuật cũng giữ vai trò chủ đạo.
Trí tưởng tượng (gồm thành phần khái niệm và hình ảnh) có ý nghĩa lớn lao
trong việc đọc các bản vẽ kĩ thuật,các sơ đồ nguyên lí hoạt động của các cơ
cấu, hệ thống, máy móc.
13
1.2.3.2. Năng lực kĩ thuật dùng óc quan sát và trí nhớ trực quan là
yếu tố điểm tựa ở trong mọi hoạt động ở các khâu thành phần.
Óc quan sát tức là phải biết tập trung chú ý và có khẳ năng nhận thức rõ
ràng các sự kiện và ý nghĩa của chúng. Óc quan sát tốt dẫn đến hình thành
năng lực quan sát, khả năng xem xét nhìn nhận vấn đề, hiện tượng tốt hơn.
Trước một sự vật, hiện tượng nếu tập trung chú ý thì có thể tìm tòi ra những
phát hiện mới, đồng thời có ý thức tìm hiểu những kiến thức liên quan đến
hiện tượng và ý nghĩa của nó.
Trí nhớ trực quan đóng vai trò điểm tựa của NLKT. Trong tâm lí học, trí
nhớ được biểu hiện là sự ghi lại, giữ lại và làm xuất hiện lại những gì cá nhân
thu được trong hoạt động sống của mình.
Theo các nhà nghiên cứu, sự tiếp thu tri thức đạt được thọng qua tri giác là:
Qua nếm (vị giác): 1%
Qua sờ (xúc giác): 1,5%
Qua ngửi (khướu giác): 3,5%
Qua nghe (thính giác): 11%
Qua nhìn (thị giác): 83%
Qua những số liệu này tì có thể nhận thấy phương tiện trực quan đóng
vai trò quan trọng trong quá trình thu nhận thông tin.
Và cũng theo các nhà nghiên cứu tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học là:
Nghe được: 20%
Nhìn được: 30%
Nghe và nhìn: 50%
Nói được: 80%
Làm được: 90%
14
Qua đó, càng nhận thấy nếu để trực tiếp cá nhân thực hiện các hoạt động
thì khả năng hiểu và thu nhận kiến thức nhiều và năng lực về hoạt động ấy
được hình thành và phát triển.
Như vậy, óc quan sát và trí nhớ trực quan là yếu tố điểm tựa của NLKT,
quan trọng đối với các hoạt động kĩ thuật bởi khi học kĩ thuật học sinh thường
được làm quen với nhiều hình vẽ, bản vẽ, sơ đồ, mô hình, vật thật Và với
kiến thức vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trừu tượng học sinh cần có óc
quan sát tốt và trí nhớ trục quan tốt góp phần hình thành và phát triển NLKT.
1.2.3.3. Năng lực kĩ thuật dung yếu tố khéo tay kĩ thuật và hứng thú
kĩ thuật là yếu tố bổ trợ:
Hứng thú có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống và trong hoạt động
của con người. Có hứng thú trong một công việc nào đó làm cho con người trở
nên say mê tích cực trong hoạt động và kết quả là công việc đạt hiệu quả cao.
Nếu như một người được giao một công việc mà người đó không hứng thú
không say mê thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao, chất lượng công việc
không tốt. Chính vì vậy để hình thành NLKT thì hứng thú kĩ thuật cũng có tác
động rất nhiều. Trong một hoạt động kĩ thuật, nếu cá nhân có ham muốn, say
mê, thích thú học tập thì chắc chắn rằng NLKT được hình thành.
Tuy nhiên bên cạnh sự hứng thú kĩ thuật, trong các hoạt động kĩ thuật
thì sự khéo tay của người lao động cũng rất quan trọng. Nhờ sự khéo léo thì
chất lượng sản phẩm cũng tốt hơn. Ví dụ như: Hai người cùng cùng được giao
gia công một cái đục băng phương pháp nguội. Giả thiết rằng cả hai đều có tư
duy tưởng tượng tốt và đều hứng thú với công việc. Nhưng khi làm xong sản
phẩm sẽ có xự khác biệt, một cái sẽ có độ chính xác cao, nhẵn bóng hơn, tiến
đọ hoàn thành sản phẩm nhanh hơn. Nguyên nhân có sự khác biệt đó là do sự
khéo tay của người làm kĩ thuật.
15
Như vậy, hứng thú và sự khéo tay của người lao động có tác động bổ trợ
cho sự hình thành và phát triển NLKT. Trong qua trình dạy học cần tạo sự say
mê, hứng thú tích cực của học sinh đối với hoạt động kĩ thuật và rèn luyện cho
học sinh tính cẩn thận, chính xác trong khi thiết kế, chế tạo sản phẩm kĩ thuật.
1.2.4. Cơ chế hình thành năng lực kĩ thuật:
Nhờ có những thuộc tính nhất định, con người đạt được những kết quả
tốt đẹp trong hoạt động kĩ thuật, trong lao động sản xuất. Điều đó có nghĩa là
năng lực kĩ thuật được thể hiện trong kết quả của hoạt động. Con người khi
đứng trước một hoạt động kĩ thuật, xác định được mục đích của hoạt động và
đi tới mục đích đó bằng chính hoạt động của mình thì người đó được coi là có
năng lực kĩ thuật. Muốn hình thành năng lực kĩ thuật cá nhân phải thể hiện rõ
ba yếu tố trong cấu trúc của năng lực kĩ thuật. Ba yếu tố đó là: năng lực nhận
thức kĩ thuật, năng lực thiết kế kĩ thuật, năng lực vận dụng kĩ thuật. Ba yếu tố
này nằm trong mối quan hệ tương hỗ, có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi
đứng trước một hoạt động kĩ thuật, cá nhân cần phải có sự hiểu biết về hoạt
động đó, đó chính là năng lực nhận thức kĩ thuật. Có hiểu biết về kiến thức kĩ
thuật cá nhân mới có cơ sở để vận dụng vào thực tiễn và cao hơn nữa là tiến
hành thiết kế kĩ thuật. Cá nhân có khả năng đạt được mục đích của hoạt động
kĩ thuật bằng sự nỗ lực rèn luyện của chính bản thân mình điều đó đồng nghĩa
với việc cá nhân đã có năng lực kĩ thuật. Khi đã đạt được kết quả của hoạt
động thì cũng là lúc ở cá nhân đó đã có được ba yếu tố: nhận thức kĩ thuật,
thiết kế kĩ thuật, vận dụng kĩ thuật.
1.2.5. Một số biện pháp hình thành và phát triển năng lực kĩ thuật:
Để hình thành và phát triển NLKT cho học sinh, trong dạy học môn
công nghệ cần đảm bảo những yêu cầu như:
16
- Thực hiện tốt các biện pháp phát triển tư duy kĩ thuật kết hợp với đa
dạng nội dung bài toán kĩ thuật vận dụng thiết kế.
- Thường xuyên cập nhật thông tin kĩ thuật để bổ sung cho nội dung bài
dạy cho sinh động hấp dẫn vì nó có tính thời đại, đồng thời hướng dẫn học
sinh biết cách khai thác thong tin mở rộng kiến thức thông qua các địa chỉ trên
mạng, báo chí.
- Tổ chức đa dạng các hoạt động nhận thức và vận dụng tri thức, các
hình thức tổ chức dạy học tập thể, cá nhân hay theo nhóm học sinh trong các
bài dạy học lí thuyết và dạy học thực hành, các buổi học chuyên đề tự chọn
môn kĩ thuât. Đồng thời tổ chức các hoạt động ngoại khoá kĩ thuật, các dịp thi
học sinh giỏi kĩ thuật và các nội dung thi khéo tay kĩ thuật để tạo điều kiện cho
học sinh mở rộng kiến thức, bộc lộ năng khiếu có cơ hội sang tạo kĩ thuật và
trình bày kết quả.
- Bồi dưỡng các phương pháp nghiên cứu kĩ thuật công nghệ trong quá
trình hướng dẫn học sinh nhận thức kĩ thuật để học sinh có khả năng được
đóng vai trò của nhà nghiên cứu công nghệ. Có như vậy học sinh sẽ có hứng
thú học tập hơn.
- Tiến hành công việc kiểm tra đánh giá kết quả học kĩ thuật thông qua
việc kiểm tra phải toàn diện với các nội dung kiểm tra phải có tính thiết thực,
hình thức phong phú đồng thời dạy cho học sinh biết cách tự kiểm tra để đánh
giá kết quả đã thực hiện của mình.
1.2.6 Cách kiểm tra đánh giá năng lực kĩ thuật:
Khi tiến hành một hoạt động kĩ thuật, bằng hoạt động của chính mình cá
nhân đạt được kết quả nhất định. Như vậy ở cá nhân đó đã hình thành năng lực
nhất định. Trong dạy học, để biết năng lực kĩ thuật đã được hình thành ở mức
độ nào đối với học sinh thì người giáo viên phải tiến hành kiểm tra đánh giá.
17
Kiểm tra đánh giá nhằm mục đích:
- Xác định mức độ đạt được và chưa đạt được về các mục tiêu dạy học,
tình trạng kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh đối với yêu cầu của môn học.
- Khẳng định năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh và của tập thể
lớp, tạo cho học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận thức rõ
những điểm mạnh và điểm yếu của mình để tiếp tục phấn đấu và khắc phục.
- Thông qua kiểm tra đánh giá, giáo viên căn cứ vào kết quả thực tế để
nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình tự điều chỉnh, hoàn thiện hoạt
động dạy, phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Những phương pháp kiểm tra thường sử dụng trong dạy học là:
- Kiểm tra bằng quan sát: bao gồm quan sát thường xuyên và quan sát
sự trình diễn của học sinh.
- Kiểm tra viết: bao gồm:
Trắc nghiệm tự luận: gồm có bài viết, tiểu luận, luận văn.
Trắc nghiệm khách quan: bao gồm các dạng câu hỏi như: nhiều lựa
chọn, đúng- sai, ghép đôi, điền khuyết.
- Kiểm tra vấn đáp: Gồm vấn đáp thuần túy, vấn đáp kết hợp.
Để đánh giá năng lực kĩ thuật của học sinh, có thể sử dụng các cách như
sau:
1. Sử dụng phối hợp các phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau như:
vấn đáp, trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan, thực hiện thao tác thực
hành kĩ thuật (thiết kế, chế tạo, vận dụng, bảo dưỡng ).
2. Sử dụng các câu hỏi, các bài toán có yêu cầu tổng hợp, khái quát hóa,
vận dụng lí thuyết đã học vào thực tiễn.
3. Trong các giờ học thực hành chú ý quan sát sự nhanh nhẹn, sự linh
hoạt tháo vát trong hoạt động thực hành của học sinh.
18
Năng lực kĩ thuật không thể hình thành trong thời gian ngắn mà phải
thông qua cả quá trình phấn đấu rèn luyện của học sinh. Do vậy, để đánh giá
chính xác mức độ của năng lực kĩ thuật ở học sinh, giáo viên có thể tiến hành
theo nhiều cách khác nhau như:
- Quan sát người học: Bao gồm quan sát trực tiếp hoặc thông qua các
thiết bị như camera, máy ghi âm.
- Hỏi đáp trực tiếp về các vấn đề liên quan đến nội dung cần đánh giá.
- Trao đổi trò chuyện với học sinh về những kiến thức có liên quan đến
lĩnh vực kĩ thuật.
- Nghe học sinh trình bày, thảo luận với người khác về vấn đề liên quan
đến nội dung hoặc năng lực cần đánh giá.
- Quan sát thao tác thực hành, sự linh hoạt của học sinh thông qua các
bài thực hành.
- Đánh giá những bài tập mà học sinh vừa hoàn thành.
Để đánh giá chính xác năng lực của học sinh và đảm bảo khách quan,
giáo viên cần nắm rõ cách thức đánh giá đồng thời cũng cho học sinh biết rõ
nững căn cứ, cách thức đánh giá đó để học sinh đồng tình với kết quả kiểm tra
đánh giá.
1.3 Tư duy kĩ thuật (TDKT):
1.3.1. Khái niệm:
Thế giới xung quanh tồn tại nhiều cái mà con người chưa biết. Nhiệm
vụ của cuộc sống và hoạt động thực tiễn luôn đòi hỏi con người phải tìm hiểu
những cái chưa biết, và hiểu về những cái chưa biết đó ngày càng sâu sắc,
đúng đắnvà chính xác hơn. Cụ thể là phải tìm ra được cái bản chất và những
qui luật tác động của chúng. Quá trình nhận thức đó được gọi là tư duy. Vậy
tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
19
liên hệ và quan hệ bên trong có tình qui luật của sự vvật hiện tượng trong hiện
thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về TDKT nhưng cho đến nay chưa đi
đến một định nghĩa thống nhất. Một cách tổng quát có thể hiểu: TDKT là sự
phản ánh khái quát các nguyên lí kĩ thuật, các quá trình kĩ thuật, các thiết bị kĩ
thuật dưới dạng các mô hình kết cấu kĩ thuật nhằm giải quyết những nhiệm vụ
đặt ra trong thực tế sản xuất. Do đó TDKT là loại tư duy xuất hiện trong lĩnh
vực lao động kĩ thuật nhằm giải quyết những bài toán (nhiệm vụ) có tính chất
kĩ thuật trong sản xuất.
1.3.2. Cấu trúc của tư duy kĩ thuật:
TDKT được cấu trúc bởi ba thành phần: thành phần khái niệm kĩ thuật,
thành phần hình ảnh kĩ thuật, thành phần thao tác kĩ thuật. ba thành phần này
có mối quan hệ tương hỗ, có thể biểu hiện qua sơ đồ sau:
Khái niệm (lí thuyết)
Hình ảnh (trực quan) Thao tác (thực hành)
- Thành phần khái niệm kĩ thuật thường được hình thành thông qua các
bài học về lí thuyết kĩ thuật.
- Thành phần hình ảnh kĩ thuật được hình thành trong tư duy thông qua
việc quan sát các phương tiện trực quan như các cơ cấu, thiết bị sản phẩm kĩ
thuật là vật thật hay thông qua hình ảnh ở tranh vẽ, ảnh chụp, mô hình, mô
phỏng…
- Thành phần thao tác kĩ thuật của tư duy có được phải thông qua thực
hành kĩ thuật, thông qua việc thực hiên thực hành các qui trình công nghệ,
thực hành tháo lắp, lắp ráp kiểm tra, bảo dưỡng.
20
Trong quá trình tư duy để giải quyết vấn đề đó là nhiệm vụ học tập nếu
như chỉ dựa vào từng thành phần của tư duy kĩ thuật ta có các loại tư duy như:
- TDKT để việc giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm kĩ thuật, các
mối quan hệ logic và gắn bó với ngôn ngữ còn được gọi là tư duy trừu tượng.
- TDKT để việc giải quyết vấn đề dựa trên hình ảnh trực quan (kể cả
biểu tượng) của đối tượng kĩ thuật còn được gọi là tư duy trực quan.
- TDKT để giẩi quyết vấn đề bằng thao tác vật chất hướng vào việc giải
quyết các tình huống cụ thể, còn được gọi là tư duy thao tác.
1.3.3. Đặc điểm của tư duy kĩ thuật:
TDKT là thành phần của tư duy nói chung, do vậy TDKT cung mang
những đặc điểm của tư duy nói chung đó là:
- TDKT cũng dung ngôn ngữ làm phương tiện: Nếu không có ngôn ngữ
thì bản thân quá trình tư duy không diễn ra được đồng thời sản phẩm của tư
duy không được tiếp nhận.
- TDKT phản ánh khái quát gián tiếp, có quan hệ mật thiết với nhận
thức cảm tính: Tư duy phát hiện bản chất sự vật, hiện tượng và qui luật giữa
chúng nhờ sử dụng công cụ, phương tiện và các kết quả nhận thức của loài
người và kinh nghiệm của cá nhân tu được. Tính gián tiếp của tư duy còn thể
hiẹn ở chõ nó được biểu hiện bằng ngôn ngữ.Tư duy dựa vào nhận thức cảm
tính, trên kinh nghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là
một khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy và hiện thực, là cơ sở của
những khái quát kinh nghiệm dưới dạng các khái niệm qui luật. Ngược lại tư
duy và sản phẩm của nó cũng ảnh hưởng đến quá trình nhận thức cảm tính. F.
Ănghen dã nói: “ Nhập vào với con mắt của chúng ta chẳng những có các cảm
giác khác, mà còn có cả hoạt động tư duy của ta nữa”.
21
- TDKT còn mang tính trừu tượng: Tư duy phản ánh cái bản chất, chung
cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù đồng thời trừu
xuất khỏi những sự vật đó những cái cụ thể, cá biệt.
Ngoài những đặc điểm chung của tư duy thì TDKT còn có 4 đặc điểm
riêng thể hiện rõ mối quan hệ giữa các thành phần trong cấu trúc của nó:
Thứ nhất, TDKT có tính chất lí thuyết- thực hành: Nó biểu hiện ở sự
thống nhất chặt chẽ giữa thành phần lí thuyết và thành phần thực hành của
hoạt động trong sự tác động qua lại và kết hợp không ngừng giữa các hành
động trí óc (thao tác) với các hoạt động chân tay bên ngoài (động tác).
Thứ hai, TDKT có mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành phần khái niệm-
hình tượng (hình ảnh) của hoạt động, có nghĩa thành phần hình ảnh và khái
niệm là những thành phần cần thiết và có giá trị ngang nhau trong TDKT. Vì
thế người ta gọi TDKT chính là tư duy không gian.
Thứ ba, TDKT có tính chất thiết thực, linh hoạt cao. Thể hiện ở hai mặt:
- Quá trình tư duy để giải quyết một bài toán kĩ thuật hay một bài toán
công nghệ cần phải được hoàn thành trong khoản một thời gian hạn chế.
- Tính linh hoạt của TDKT không chỉ thể hiẹn ở sự sẵn sàng đáp ứng
với thời điểm cần thiết mà còn thể hiện ở kĩ năng của con người biết vận dụng
hợp lí và có hiệu quả các tri thức đã có vào những điều kiện khác nhau.
Thứ tư, TDKT mang tính nghề nghiệp. Nghĩa là những người làm công tác
kĩ thuật trong một nghề nào đó thường rất nhạy bén với những vấn đề của nghề đó.
Sự nhạy cảm nghề nghiệp này cho phép tiếp cận với những khái niệm kĩ thuật hay
đối tượng kĩ thuật mới nhanh hơn so với những người không làm nghề đó.
1.3.4. Mối quan hệ giữa tư duy kĩ thuật và năng lực kĩ thuật:
TDKT và NLKT có mối qun hệ mật thiết với nhau. TDKT tạo tiền đề
cho việc phát triển khả năng sang tạo kĩ thuật, yếu tố hạt nhân của NLKT.
22
TDKT với những đặc điểm của nó, bằng sự nhận thức về các hoạt động
kĩ thuật, giúp cho cá nhân có năng lực về hoạt động đó. TDKT có tính trừu
tượng khái quát, nó không chỉ giải quyết nhiệm vụ nhận thức hiện tại về các
hoạt động kĩ thuật mà còn tạo tiền đề cho sang tạo kĩ thuật. Với sự nhận thức
sâu sắc về đối tượng kĩ thuật thì cá nhân có thể tìm tòi phát hiện ra những cái
mới đối với đối tượng, chẳng hạn như tìm ra cách thể hiện mới, tìm ra phương
án chế tạo mới.
TDKT còn là yếu tố hạt nhân của NLKT. Để hoàn thành tôt một hoạt
động kĩ thuật thì con người phải hiểu được những bản vẽ, sơ đồ, mô hình kĩ
thuật. Để làm những việc này con người phải có TDKT đó là tư duy khái
niệm, tư duy hình ảnh, tư duy thao tác. Cá nhân phải có TDKT thì mới đảm
bảo có NLKT. Khi đã có NLKT thì chắc chắn con người đã có TDKT.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Thực trạng việc dạy và học môn Công nghệ:
2.1.1. Thực trạng việc dạy môn Công nghệ:
Do sự phân hóa trong việc thi cử (thi tốt nghiệp và thi đại học) dù môn
Công nghệ là môn học có nội dung thiết thực sinh động và gắn liền với thực
tiễn lao động và sản xuất nhưng trong tư tưởng làm việc của giáo viên nó vẫn
được coi là môn phụ, điều này cũng tồn tại ngay trong tư tưởng, suy nghĩ của
các cấp lãnh đạo. Sự quan tâm đến môn học, đầu tư phương tiện, trang thiết bị,
cơ sở vật chất phục vụ cho môn học còn nhiều hạn chế. Điều này khiến cho
giáo viên môn Công nghệ ít nhiều có những mặc cảm nghề nghiệp làm giảm
đi sự tâm huyết, lòng nhiệt tình trong giảng dạy.
Môn Công nghệ là môn gắn liền với thực tiễn lao động, sản xuất. Sự
phát triển cúa khoa học kĩ thuật ngày càng phong phú hiện đại đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của con người. Chính vì vậy việc dạy học đòi hỏi người
23
giáo viên cần thường xuyên cập nhật thông tin, gắn bài dạy vào thực tiễn để
thu hút học sinh. Muốn vậy giáo viên cần phải nâng cao năng lực chuyên môn
và dặc biệt phải đổi mới phương pháp giảng dạy. Điều này giao viên môn
Công nghệ phần lớn chưa thực hiện được.
Thực tế trong thời gian đầu do số lượng giáo viên môn Công nghệ được
đào tạo đúng chuyên ngành còn thiếu, nên ở một số trường khó tuyển được
giáo viên môn Công nghệ. Vì thế, một số nhà trường đã sử dụng các giáo viên
ở môn khác dạy kiêm nhiệm môn Công nghệ. Do không được đào tạo và rèn
luyện theo khuôn mẫu nghề nghiệp nên kiến thức chuyên môn về môn Công
nghệ, kĩ thuật công nghiệp của những giáo viên kiêm nhiệm rất non yếu hoặc
sai lệch mặc dù các giáo viên này có tự nghiên cứu nhưng cũng chưa đủ vững.
Điều này làm mất tính chính xác, đặc tính kĩ thuật khó đạt được làm giảm đi
sự thu hút hứng thú của học sinh đối với môn học.
Ngoài những khó khăn về đội ngũ giáo viên, về sự quan tâm đến vị trí
môn học ở trường phổ thông. Phần lớn giáo viên môn Công nghệ còn chưa
tâm huyết với nghề nghiệp. Việc chuẩn bị bài lên lớp và việc tiến hành dạy
học đôi khi chỉ mang tính hình thức. Việc đổi mới phương pháp dạy học của
giáo viên cũng việc sử dụng các phương tiện hiện đại hầu như còn hạn chế.
Đối với dạy học các bài thực hành công nghệ, mặc dù đã được nhà nước quan
tâm về trang thiết bị phục vụ thực hành, nhưng do chưa đảm bảo đủ số lượng
và chất lượng để mỗi học sinh được thực hành. Vì vậy mà mục tiêu và nội
dung các giờ dạy học thực hành công nghệ cũng chưa được tiến hành đầy đủ,
nếu có được thực hành thì cũng chủ yếu là quan sát giáo viên thực hiện hoặc
tìm hiểu trong sách giáo khoa. Do đó năng lực và kĩ năng thực hành của học
sinh chưa được phát huy. Trong các giờ học lí thuyết việc giáo viên hướng dẫn
học sinh tìm hiểu kiến thức vẫn mang tính chất thuyết trình, giới thiệu, các
24
phương pháp dạy học tích cực vẫn chưa được áp dụng. Do vậy học sinh tiếp
thu kiến thức một cách thụ động. Vì học sinh chưa có hứng thú học tập thực
sự và như vậy giáo viên đã không phát huy được NLKT của học sinh.
2.1.2. Thực trạng việc học môn Công nghệ:
Môn Công nghệ là môn học trong chương trình chính khóa trong trường
trung học phổ thông, và là môn học gắn liền với thực tiễn lao động và sản
xuất. những kiến thức của bộ môn gắn liền với thực tiễn nên đã thu hút sự
quan tâm chú ý của học sinh. Tuy nhiên vì đây là môn học không thi tốt
nghiệp, không thi đại học do đó học sinh cũng chỉ hứng thú trong các giờ học
trên lớp. Ngoài các tiết học chính của môn Công nghệ thì thời gian đầu tư tìm
hiểu thêm kiến thức kĩ thuật công nghệ trong thực tế thông qua hoạt động
tham quan, ngoại khóa kĩ thuật ngoài giờ lên lớp cũng còn ít.
Trong các giờ học chính, do thực trạng đội ngũ giáo viên đã làm cho lớp
học không tập trung được sự chú ý của học sinh. Trong giờ học vẫn còn tình
trạng một số em học sinh làm việc riêng, học bài các môn học khác. Điều này
làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học môn Công nghệ.
Do thực tế việc học môn Công nghệ, học sinh chỉ tập trung được ở các
giờ học chính khóa nên cần hình thành và phát triển NLKT ngay trong giờ học
trên lớp.
2.2. Vấn đề hình thành và phát triển năng lực kĩ thuật trong dạy
học Công nghệ hiện nay:
Cách mạng khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, yêu cầu con người cần
phải có năng lực thực sự để phục vụ lao động và sản xuất. Quá trình học tập ở
trung học phổ thông rèn luyện trong nhà trường đã và đang hình thành ở học
sinh những năng lực nhất định. Kiến thức môn Công nghệ gắn liền với thực
tiễn, học sinh có NLKT sẽ dễ dàng thích ứng hơn với các hoạt động kĩ thuật
25