Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tieu luan SP: chuan bi tamli cho tre khiem thinh 6 tuoi vao lop 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.43 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo: Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu - Khoa tiểu học
Trường Đại học Sư phạm Huế, quý thầy cô giảng dạy lớp Đại học khoá 24 tại
Quảng Trị, các cô giáo và học sinh trường Khuyết tật Quảng Trị đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành tiểu luận nghiệp vụ sư phạm.
Do thời gian và khả năng có hạn không sao tránh khỏi thiếu sót rất mong
được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Trần Kim Hoà.
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích - Ý nghĩa của đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
3.1. Đối tượng 5
3.2 .Phạm vi nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Cấu trúc tiểu luận 6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.Các khái niệm 7
1.1.1.Tâm lí là gì 7
1.1.2.Tâm lí sẵn sàng đến trường tiểu học 7
1.2.Vì sao cần chuẩn bị sẵn sàng vào trường tiểu học cho trẻ mẫu giáo 7
1.3.Các yêu cầu về mặt tâm lí người học sịnh lớp một cần phải có 8
1.4. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo lớn 9
1.5. Đặc điểm tâm lí của trẻ khiếm thính 5-6 tuổi 10
1.5.1. Khái niệm về Khuyết tật thính giác ( hearing impairment ) 10
1.5.2. Trẻ khuyết tật thính giác - đắc trưng tâm sinh lý và cuộc sống xã hội 11
1.5.3. Những đặc điểm cảm giác, tri giác của trẻ khuyết tật thính giác 12


1.5.4. Một số đặc điểm của khuyết tật thính giác 13
1.5.5. Một số đặc điểm tưởng tượng ở trẻ khuyết tật thính giác 14
1.5.6. Một số đặc điểm tư duy ở trẻ khuyết tật thính giác 15
1.5.7. Ngôn ngữ của trẻ khuyết tật thính giác 16
CHƯƠNG 2:
CHUẨN BỊ TÂM LÍ SẴN SÀNG ĐỂ TRẺ KHIẾM THÍNH VÀO TRƯỜNG
TIỂU HỌC - TRƯỜNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT QUẢNG TRỊ.
2.1. Đặc điểm, tình hình của Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị 18
2.1.1. Tầm quan trọng của việc chăm sóc- giáo dục trẻ khuyết tật 18
2.1.2. Thực trạng tổ chức hoạt động chăm sóc-giáo dục trẻ khuyết tật
tỉnh Quảng Trị 18
2.2. Chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khiếm thính vào học lớp một ở trường
Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị 22
2.2.1. Đánh giá chung 22
2.2.2. Các việc làm cụ thể 22
2.2.2.1. Tư vấn và can thiềp sớm cho trẻ khiếm thính ở trường
Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị 22
2.2.2.2. Lập kế hoạch giáo dục cá nhân 23
2
2.2.2.3. Định hướng giáo dục hòa nhập cho trẻ khiếm thính ở trường
Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị 23
2.2.2.4.Công tác tiền hoà nhập ở Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị 24
2.2.2.5. Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với cuộc sống ở trường tiểu học
Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị 24
2.2.2.6. Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với hoạt động học tập 25
2.2.2.7.Giúp trẻ hiểu biết về môi trường gần gũi xung quanh 28
2.3. Kiến nghị 30
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích - Ý nghĩa của đề tài:
Từ việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc chuẩn bị tâm lí sẵn
sàng vào trương tiểu học cho trẻ nói chung, cho trẻ khuyết tật thính giác nói riêng
nhằm phát huy tổi đa tiềm năng của trẻ góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức giáo
dục trong nhà trường tiểu hoc.Chúng tôi đề xuất một số biện pháp để trẻ khuyết tật
thính giác lứa tuổi mẫu giáo lớn có được tâm lí sẵn sàng vào học ở Trường Trẻ Em
Khuyết Tật Quảng Trị.
2. Lịch sử vấn đề:
Trẻ em là một bộ phận dân cư tồn tại khách quan trong xã hội loài người, kể
cả người khuyết tật. Tồn tại trong xã hội văn minh ngày nay trong tất cả các quốc
gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề này. Công ước của liên hợp quốc về
quyền trẻ em là một ví dụ tiêu biểu. Đây là văn bản quốc tế về trẻ em khá toàn diện
và hoàn hảo, mang tính pháp lí cao. Tính đến 1 – 7- 1998 đã có 191 quốc gia phê
chuẩn hoặc tham gia công ước 96. Căn cứ vào trình độ phát triển, phong tục tập
quán, mỗi quốc gia có cách giải quyết riêng vấn đề về người khuyết tật để đảm bảo
cho nhóm dân cư này được hoà nhập vào xã hội
[ ]
1
.Lúc sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại có một câu nói nổi tiếng: “ Tàn mà không phế”., đó cũng chính là thái
độ của Đảng, chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với bộ phận người tàn tật.
Việt Nam là một nước có số lượng người khuyết tật nói chung và trẻ em bị khuyết
tật nói riêng khá lớn và đa dạng. Theo số liệu điều tra sơ bộ có khoảng gần 5 triệu
người khuyết tật, chiếm 5% dân số trong đó trẻ em dưới 15 tuổi bị khuyết tật chiếm
khoảng 1,2 đến 1,5 % dân số .
[ ]
2

Kế thừa truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “ thương người

như thể thương thân”, đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến những người thiệt
thòi trong xã hội nhất là đối với trẻ em. Trong đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều
khó khăn kinh tế chậm phát triển, chúng ta đã từng bước xây dựng, thực hiện chính
sách và biện pháp nhằm giúp đỡ người khuyết tật nói chung, nhất là giúp đỡ về vật
chất, tinh thần cho trẻ em bị khuyết tật. Giúp trẻ vượt qua khó khăn do bị khuyết
tật để hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Quốc hội nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành pháp lệnh về người tàn tật và ký lệnh công bố
ngày 8-8-1998. Chính phủ đã ban hành nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10-7-
1999, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số pháp lệnh về người tàn tật.
[ ]
3

Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới kí công ước về quyền trẻ em. Luật
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, luật phổ cập giáo dục tiểu học được ban hành
vào năm 1991và nhiều hoạt động khác vì trẻ em đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt
của nhà nước và xã hội ta đến sự nghiệp chăm lo thế hệ trẻ, trong đó bao gồm cả
trẻ em khuyết tật.
[ ]
4
.
4
tuy nhiên, đối với Việt Nam giáo dục đặc biệt là một lĩnh vực vẫn còn mới mẻ cả
về lí luận và thực tiễn. Về mặt nhận thức, nhiều người còn coi giáo dục trẻ khuyết
tật là vấn đề nhân đạo đơn thuần hoặc đề cao khía cạnh nhân đạo và xem nhẹ khía
cạnh khoa học. Điều này không sai bởi giáo dụẩttẻ khuyết tật mang đậm tính nhân
đạo khi nhìn ở góc độ xã hội. Đã đến lúc phải đặt vấn đề nghiên cứu và xem xét
giáo dục đặc biệt trên góc độ khoa học. Đề tài này sẽ nghiên cứu một trong những
vấn đề giáo dục đặc biệt ở góc độ khoa học giáo dục.
Chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khuyết tật vào các trường học đang là một
xu hướng phổ biến trên thế giới nói chung và đặc biệt đang triển khai ở một số

nước có hệ thống giáo dục đặc biệt phát triển. Tuy nhiên đây chưa phải là một giải
pháp tốt nhất và duy nhất để giải quyết vấn đề học tập cho trẻ khuyết tật. Trên thế
giới đã có nhiều nghiên cứu và thử nghiệm có hiệu quả về giáo dục trẻ khuyết tật
song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải xem xét và lí giải. Đây là vấn đề còn
mới mẻ dối với giáo dục Việt Nam. Chúng ta sẽ phát triển giáo dục trẻ khuyết tật
theo hướng nào? Trong báo cáo định hướng phát triển giáo dục cho trẻ khuyết tật
tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện nghị định 26/CP , Bộ GD- ĐT đã quyết định
giáo dục hoà nhập là hướng phát triển chính. Nếu lấy giáo dục hoà nhập là biện
pháp cơ bản để giải quyết vấn đề giáo dục cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam thì phải
biết tổ chức tốt tâm lí sănn sàng cho trẻ trước khi đến trường.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục trẻ khuyết tật trên thế giới, giáo dục
cho nhóm trẻ khuyết tật thính giác luôn luôn tiên phong đi đầu trong các thử
nghiệm giáo dục và cũng là lĩnh vực phát triển mạnh nhất so với các lĩnh vực giáo
dục cho các nhóm trẻ khuyết tật khác. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này.
Giáo dục trẻ khuyết tật nói chung và giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật thính
giác nói riêng của Việt Nam có thể đi sau nhiều nước nhưng điều đó không thể cản
trở chúng ta có những bước phát triển nhảy vọt nếu chúng ta biết tổng kết và kế
thừa những thành tựu đã có, rút kinh nghiệm qua những thất bại trong quá khứ và
hiện tại để tìm được con đường phát triển một cách tối ưu trong điều kiện của riêng
mình. Với quan niệm như vậy thì giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật trong các
trường tiểu học có khả năng phát triển về lí luận cũng như về thực tiễn. Nếu mục
đích của hoà nhập mang đậm màu sắc nhân đạo thì các biện pháp tổ chức để hoà
nhập có hiệu quả là vấn đề mang tính hệ thống khoa học cần được nghiên cứu kĩ.
Trong phạm vi đề tài này chỉ giới hạn nghiên cứu các biện pháp tổ chức tâm lí cho
trẻ khuyết tật thính giác ở độ tuổi mẫu giáo. Vấn đề này vừa đáp ứng nhu cầu cấp
thiết trong thực tiễn giáo dục cho trẻ khuyết tật hiện nay, vừa góp một phần nhỏ về
lí thuyết giáo dục hoà nhập ở Việt Nam, làm cơ sở để phát triển các biện pháp phù
hợp trong các nhóm trẻ khuyết tật khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng :

Một số biện pháp chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khuyết tật thính giác dưới
5
6 tuổi vào học tại Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị .
3.2 .Phạm vi nghiên cứu:
Các vấn đề cơ bản của đề tài được khảo sát chủ yếu ở :
- Đề tài chỉ nghiên cứu những biện pháp tâm lí của trẻ khuyết tật thính giác độ tuổi
mầm non(5-6 tuổi) ngoài xã hội và tại trường trẻ em khuyết tật Quảng Trị.
-Giáo viên, phụ huynh và học sinh Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị. Nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp 1 trường.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu :
4.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ
khuyết tật thính giác đến trường tiểu học.
4.2. Tìm hiểu thực trạng của việc chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khuyết tật
thính giác 5 -6 tuổi đến trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị
4.3 .Đề xuất một số biện pháp chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khiếm thính
vào học ở Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị.
5. Phương pháp nghiên cứu :
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tầm, phân tích và tổng hợp các tài liệu
để tìm hiểu cơ sở lý luận của các yếu tố có liên quan đến đề tài.
-Phương pháp quan sát: Tổ chức điều tra, so sánh, theo dõi và ghi chép tiến
trình phát triển của trẻ khiếm thính về các hoạt động cũng như kết quả thực trạng.
- Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi, phát hiện và can thiệp sớm, hướng dẫn
phụ huynh có trẻ khuyết tật thính giác độ tuổi mầm non đề ra các giải pháp thực
hiện và rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm: Tìm hiểu và chọn lọc những nghiên cứu lí
thuyết và thực tiễnđã được thực hiện để đánh giá những gì đã được kiểm nghiệm
và khẳng định, những gì cần được chắt lọc và bổ sung cho quá trình phát triển của
trẻ.
6. Cấu trúc tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm có 2 chương.

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Chương 2: CHUẨN BỊ TÂM LÍ SẴN SÀNG ĐỂ TRẺ KHIẾM THÍNH
VÀO TRƯỜNG TIỂU HỌC - TRƯỜNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT QUẢNG TRỊ.
6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.Các khái niệm:
1.1.1.Tâm lí là gì?
Trong cuộc sống hàng ngày , có rất nhiều người đã sử dụng thuật ngữ tâm
lí.Theo từ điển tiếng Việt (1988) thì tâm lí là ý nghĩ , tình cảm , làm thành đời
sống nội tâm của con người.
Lí luận và thực tiễn cũng đã chứng tỏ rằng tâm lí người là sự phản ánh hiện
thực khách quan, là chức năng của não,là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái
riêng của mỗi người.Tâm lí người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp thông qua các mối quan hệ và
xã hội. Tâm lí mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội,tiếp thu vốn kinh
nghiệm xã hội của người đó. Giáo dục là yếu tố giữ vai trò chủ đạo hoạt động của
con người trong xã hội có tính quyết định.
Tóm lại: Tâm lí người có nguồn gốc xã hội, vì thế muốn hiểu tâm lí người
thì cần phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội
trong đó con người sống và hoạt động. Để phát triển tâm lí thì cần phải tổ chức có
hiệu quả hoạt đông dạy học và giáo dục, đặc biệt là các hoạt động chủ đạo ở từng
giai đoạn lứa tuổi.
1.1.2.Tâm lí sẵn sàng đến trường tiểu học
Sẵn sàng là trạng thái chủ động trong hành động có hiệu quả cao do đã được chuẩn
bị đầy đủ từ trước. Tâm lí sẵn sàng vào trường tiểu học nghĩa là tâm thế, trạng thái
tâm lí tích cực, chủ động, tự tin tham gia vào hoạt động học tập ở trừơng tiểu học.
1.2.Vì sao cần chuẩn bị sẵn sàng vào trường tiểu học cho trẻ mẫu giáo?
Đến 6 tuổi , bất cứ một em bé nào phát triển bình thường đều có thể đi học
được. Đối với trẻ em việc đến trường phổ thông được coi như một bước ngoặt quan

trọng cả cuộc đời. Có nhiều người ví việc trẻ vào lớp một cũng giống như cá chép
vượt vũ môn. Có nhiều em vượt qua được dễ dàng song cũng có nhiều em “trầy da,
tróc vảy”, có em không vượt qua được. Đó là việc trẻ được chuyển qua một lối
sống mới với những hoạt động mới dươi một vị trí xã hội mới với những mối quan
hệ mới : một người học sinh thực thụ.
Có thể so sánh sự phát triển của trẻ từ mẫu giáo chuyển sang lớp một như
sau:
Mẫu giáo Học sinh lớp một.
- Vui chơi tuỳ thích
- Hoạt động chủ đạo là vui chơi
- Hình thái tư duy trực quan hình tượng
- Động cơ hoạt động vui chơi nằm
ngay trong quá trình.
- Học tập bắt buộc
- Hoạt động chủ đạo là hoạt động
- Hình thái tư duy trừu tượng
- Động cơ hoạt động học tập nằm ở kết
quả : chiếm lĩnh tri thức khoa học.
7
Ở mỗi giai đoạn phát triển, con người có một dạng hoạt động chủ đạo. Hoạt
động này gây ra sự phát triển về chất và chi phối các dạng hoạt động khác. Mỗi
dạng hoạt động chủ đạo đòi hỏi các yêu cầu về mặt sinh lí và tâm lí đi kèm. Đối
với trẻ năm tuổi hoạt động vui chơi đang giữ vai trò chủ đạo . Chơi là một hoạt
động mang tính chất thoải mái, không bắt buộc. Trong khi chơi trẻ hoàn toàn được
tự do, tuỳ theo tình huống mà có thể chơi trò chơi này hay trò chơi khác, thích thì
chơi, không thích thì thôi, chứ không thể ép buộc được . Khi đã vào lớp một tiểu
học, trẻ phải làm nhiệm vụ một người học sinh. Hoạt động chủ đạo bây giờ là học
tập, mà hoạt động mang tính chất bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, có mục đích, có kế
hoạch . Sự khác nhau về hai dạng hoạt động này đòi hỏi trẻ phải có sự thích ứng
vững chắc với dạng hoạt động mới, lúc đó bản thân trẻ mới có thể đạt được kết quả

tốt đẹp.
Đến trường tiểu học, trẻ còn phải hoà nhập những quan hệ xã hội mới với
những người xung quanh, với bạn bè, với những người khác, đặc biệt là thầy cô
giáo. Trước đây ở trường mẫu giáo “cô là mẹ và các cháu là con”, trẻ được sống
trong không khí gia đình thì giờ đây trẻ được sống trong một khung cảnh trường
học với bao mối quan hệ mới, khác về thể chất: mối quan hệ của trẻ với cô giáo,
thầy giáo đầy tính xã hội và trách nhiệm. Ngay cả mối quan hệ với bạn bây giờ
cũng khác trước, không còn sự tham gia của cô giáo khi trẻ vui vẻ hay xung đột mà
thay vào đó là tự điều chỉnh hành vi của bản thân khi cùng học, cùng chơi với bạn.
Có thể thấy, nếu không chuẩn bị cho trẻ thích ứng được thì không những việc học
tập không đạt kết quả mà cuộc sống của trẻ cũng sẽ trở nên nặng nề. Nhiều trường
hợp trẻ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, gây nhiều bất lợi cho những chặng
đường phát triển tiếp theo. Có cháu sợ đi học, có cháu đến trường chỉ là sự bắt
buộc hoặc chỉ là quấy phá nghịch ngợm. Nhữn biểu hiện đó không những mang lại
nỗi vất vả cho giáo viên tiểu học, các bậc cha mẹ mà còn ảnh hưởng đến tương lai
của trẻ.
1.3.Các yêu cầu về mặt tâm lí người học sịnh lớp một cần phải có:
Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về mặt đạo đức, trí tuệ ,thể chất, thẩm
mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
- Những yêu cầu phát triển về mặt tâm lí trẻ 6 tuổi.
+ Trẻ có ý thức về hành vi của mình và của người khác, đồng thời biết đánh
giá đúng sai hành vi của mình hoặc của người khác ở mức độ thấp.
+ Về phẩm chất trí tuệ: được hội tụ bởi toàn bộ tri thức, vốn kinh nghiệm
của trẻ, bộc lộ qua hành vi thông minh của trẻ đối với đồ vật và mọi người xung
quanh. Vì vậy cần phải làm giàu vốn kinh nghiệm của trẻ và phát triển các phẩm
chất trí tuệ của trẻ. Giáo viên tạo ra những tình huống kích thích sự phát triển của
trẻ bằng cách giao việc thử tài rồi hướng dẫn trẻ giải quyết.
8
+ Về mặt chú ý có chủ định: trẻ có khả năng chú ý có chủ định cao từ 37-

50’, trẻ có khả năng phân phối chú ý 2-3 đối tượng cùng một lúc , tuy nhiên thời
gian phân phối chú ý chưa bền vững. Trẻ di chuyển chú ý khá nhanh từ đối tượng
này sang đối tượng khác. Nhưng sự phân tán chú ý của trẻ còn mạnh. Vì vậy giáo
viên cần phải luyện tập sự chú ý cho trẻ qua các trò chơi.
+ Về mặt ngôn ngữ: Trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, trẻ đã nắm vững
ngữ âm, ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ, vốn từ của trẻ và cơ cấu ngữ pháp phát
triển. Ngôn ngữ cuả trẻ có tính mạch lạc rõ ràng là trẻ trình bày một câu đủ chủ vị.
Tính cá nhân đã bộc lộ qua sắc thái ngôn ngữ của trẻ, đồng thời tính địa phương,
nền văn hoá địa phương của công đồng thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ của trẻ.
- Thiết lập mối quan hệ giao tiếp của trẻ 6 tuổi:
Trẻ thích có bạn cùng chơi, đây là nhu cầu giao tiếp đặc trưng ở lứa tuổi này.
Trong mối quan hệ với người lớn, trẻ chờ đợi người lớn giao nhiệm vụ và hứng thú
với việc thực hiện công việc được giao, thích người lớn cho đi chơi. Trẻ nhận biết
lỗi và sửa lỗi. Trẻ biết yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ, cô giáo ( biết vâng
lời người lớn và làm theo lời dạy) và giúp bạn bè, em nhỏ hơn mình. Trẻ biết nhận
xét sự khác biệt trong hành vi ứng xử của mọi người xung quanh. Vì vậy cha mẹ
và cô giáo cần giải thích rõ ý nghĩa của những hành vi đúng sai để trẻ nhận thức
đựơc và có hành vi đúng; trẻ đã có nhu cầu quan tâm đến các quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình và với mọi người xung quanh.
- Có vốn tri thức nhất định về môi trường xung quanh.
+ Trẻ làm quen vơi môi trường xã hội.
Làm quen với những người gần gũi và cuộc sống xã hội, dạy trẻ biết gia đình mình
có những ai, trong lớp học có bạn trai, bạn gái, và bạn trai, bạn gái đều quý mến
nhau.
Trẻ biết một số nghề nghiệp phổ thông; cho trẻ làm quen với một di tích lịch
sử, công trình xây dựng ở địa phương.
Trẻ biết đồ vật do người lớn làm ra, cấu tạo của đồ vật phù hợp với ý nghĩa
sử dụng của con người.
Cho trẻ làm quen với một số đồ dùng học tập của học sinh lớp 1.
+ Cho trẻ làm quen với môi trương thiên nhiên:

. Làm quen với thế giới thực vật: trẻ biết quá trình phát triển cây, hoa, quả và
lợi ích của cây xanh
. Làm quen với thế giới động vật: trẻ so sánh, nhận xét sự giống và khác
nhau (về cấu tạo, sinh sản, hình dáng, thức ăn, nơi sống)
. Làm quen với một số hiên tượng thiên nhiên: trẻ biết đặc điểm của thời tiết
bốn mùa, thứ tự các mùa trong năm, mối liên hệ giữa thời tiết của mỗi mùa với
sinh hoạt của con người và sự phát triển của cây con, hoa quả.
Dạy trẻ phân biệt được bầu trời ban ngày hay ban đêm.
9
1.4. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo lớn:
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi”mầm non”
là lứa tuổi trước khi đến trường tiểu học, ở giai đoạn này, những cấu tạo tâm lí đặc
trưng của con người đã được hình thành trước đây, đặc biệt là trong độ tuổi mẫu
giáo nhỡ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Với sự giáo dục của người lớn, những chức
năng tâm lí đó sẽ được hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phương diện của hoạt
động tâm lí (nhận thức, tình cảm và ý chí) để hoàn thành việc xây dựng những
nhân cách ban đầu của con người.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự ý thức còn được thể hiện rõ trong sự phát triển giới
tính của trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn
biết rõ ràng nếu mình là trai hay gái thì hành vi phải thể hiện như thế nào cho phù
hợp với giới tính của mình. Ở đây tấm gương của người lớn tác động rất mạnh đến
trẻ. Những trẻ trai thường bắt chước những cử chỉ hành vi của đàn ông, còn trẻ gái
thì bắt chước dáng điệu của đàn bà. Hiện tượng phản ánh trong trò chơi rất rõ:con
trai thường thích đóng vai công an, bộ đội, công nhân xây dựng, còn con gái thì
thích đóng vai cô giáo, bán hàng.
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kì bộc lộ nhạy cảm cao nhất đối với các hiện tượng
ngôn ngữ. Điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ khá nhanh.
Từ những quá trình tâm lí không chủ định chuyển sang những quá trình tâm
lí có chủ định, chú ý có chủ định, ghi nhớ có chủ định Do sự xác định ý thức của
bản thân được rõ ràng chuyển dần sang quá trình tâm lí mang tính chủ định cao,

làm cho các hành động ý chí của trẻ ngày càng được bộc lộ rõ nét trong hoạt động
vui chơi và trong cuộc sống.
Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới là những yếu tố của tư duy
lôgic ở tuổi mẫu giáo lớn tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh đã giúp trẻ
giải quyết một số bài toán thực tiễn
1.5. Đặc điểm tâm lí của trẻ khiếm thính 5-6 tuổi:
1.5.1. Khái niệm về Khuyết tật thính giác ( hearing impairment ):
Vào những năm 70, 80 các nhà chuyên môn thích dùng thuật ngữ “ khiếm
thính”. Vào những năm 90 những người điếc tự bác bỏ thuật ngữ “khiếm thính” và
họ thích dùng thuật ngữ “điếc” hơn.
Khái niệm này chỉ sự mất hoặc giảm sút thính lực ở những mức độ khác
nhau từ nhẹ tới nặng. Có bốn mức độ mất thính lực, được chia ra như sau:
- Mức 1: Điếc nhẹ từ 20-40dB
- Mức 2: Điếc vừa từ 41-70dB
- Mức 1: Điếc nặng từ 71-90dB
- Mức 1: Điếc sâu trên 90dB
Theo khái niệm về khuyết tật thính giác như trên thì chúng ta có thể thấy
rằng nhân tố chủ yếu quyết định các đặc điểm và đặc thù của khuyết tật thính giác
là sự mất thính giác. Vì vậy chúng ta cần phải xem xét thính giác, cảm giác nghe
10
có ý nghĩa như thế nào đối với cuốc sống con người, cũng như sự mất sức nghe có
ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển tâm lý.
1.5.2. Trẻ khuyết tật thính giác - đắc trưng tâm sinh lý và cuộc sống xã hội:
Tật học ngày nay đã được tồn tại và phát triển thành một ngành khoa học. Theo
quan điểm tật học hiện đại, trẻ khuyết tật thính giác không phải ít phát triển hơn so
với trẻ em bình thường cùng tuổi mà phát triển theo cách khác. Từ cách hiểu này,
chúng ta có thể thấy rằng không thể lấy tâm lý của trẻ em khiếm thính bằng tâm lý
của trẻ bình thường trừ đi phần khiếm khuyết của thính giác và ngôn ngữ. Điều đó
muốn nói ràng sự phát triển của trẻ em khuyết tật là không đơn giản qui về số
lượng. Theo nghĩa đó trẻ có những đặc trưng về cấu tạo tâm lý và cơ thể bằng kiểu

phát triển khác nhau. Đương nhiên là có sự tương ứng giữa tính đa dạng với mức
độ phát triển khác nhau. Giống như bước chuyển đổi từ tiếng bập bẹ sang lời nói
có sự biến đổi về chất từ dạng này sang dạng khác. Cũng như ngôn ngữ của trẻ
khiếm thính là những chức năng không giống với ngôn ngữ của trẻ bình thường về
chất lượng.
Bác sỹ tâm thần người Áo,A. Adler đã nhấn mạnh cảm giác về khuyết tật
cũng như cơ thể là kích thích thường xuyên đối với các nhân, làm cho cá nhân phát
triển tâm lý. Nếu như ở một cơ thể nào đó do không hoàn hảo về hình thái học và
chức năng nên không thể hoàn thành các nhiệm vụ của mình một cách đầy đủ, thì
hệ thần kinh cấp cao và cơ cấu tâm lý của nó sẽ đặt ra nhiệm vụ bù đắp những chức
năng gặp khó khăn của cơ thể. Chúng tạo ra sự đổi mới về tâm lý ở những chức
năng hay cơ quan kém và bị đe dọa này. Trong khi tiếp xúc với môi trường bên
ngoài, mâu thuẫn xuất hiện do sự không phù hợp giữa những bộ phận bị khuyêt tật
với nhiệm vụ được đặt ra cho nó. Điều đó dẫn tới việc khả năng bị bệnh và có thể
chết. Mâu thuẫn này làm tăng khả năng và kích thích quá trình bù trừ. Do đó điểm
khuyết tật trở thành điểm xuất phát và động lực chính cho sự phát triển tâm lý.
Điều quan trọng nhất là bên cạnh khuyết tật về cơ thể còn xuất hiện sức
mạnh, xu hướng và mong muốn vượt qua được nó. Đây chính là xu hướng tăng
cường sự phát triển mà tật học trước đây không thừa nhận. Hơn thế nữa những xu
hướng này đã tạo ra sự đa dạng trong quá trình phát triển của trẻ khuyết tật. Chúng
tạo ra những hình thức phát triển sáng tạo, phong phú đôi khi gây ra sự ngạc nhiên.
A. Adler có cách nhìn lạc quan: Đứa trẻ muốn nghe tất cả, nếu như tai nó bị khiếm
khuyết, muốn nói nếu như nó gặp khó khăn trong việc thể hiện ngôn ngữ hay bị nói
lắp.
Học thuyết bù trừ trong sự phát triển tâm lý đã hé mở khả năng giáo dục trẻ
khuyết tật và khuynh hướng nghiên cứu mới của tật học bù trừ có thể dẫn đến hai
kết quả đối lập: chiến thắng và thất bại. kết quả phụ thuộc vào rất nhiều nguyên
nhân: mưc độ bị khuyết tật, môi trường giáo dục, sự nổ lực, cố gắng và ý chí của
bản thân trẻ khuyết tật v.v Đặc trưng tích cực ở trẻ khuyết tật trước hết không
phải là sự giảm bớt chức năng này hay chức năng khác so với trẻ bình thường, mà

11
chính sự giảm bớt chức năng đã tạo ra trong cuộc sống những cấu tạo mới, là
những phản ứng của nhân cách đối với khuyết tật, là sự bù trừ trong quá trình phát
triển. nếu khiếm thính trong sự phát triển đạt được mức độ nào đó như trẻ bình
thường thì nó đã đạt được điều này bằng cách khác, bằng những phương tiện khác.
Đối với nhà giáo dục cần phải nắm được con đường phát triển riêng của trẻ khuyết
tật. chìa khóa mở ra tính đắc thù của sự phát triển ở đây chính là sự biến đổi từ
miền âm của khuyết tật sang miền dương của tính bù trừ như là một quy luật.
Ở đây cần lưu ý, tính đặc thù trong sự phát triển tâm lý, xã hội ở trẻ khuyết
tật có giới hạn. Vì mặt thăng bằng trong chức năng thích nghi mới được hình thành
nhằm đảm bảo sự cân bằng mới. Sự bù trừ có thể tạo ra cho quá trình phát triển của
trẻ khuyết tật một sự cân bằng lại các chức năng tâm lý.
Hành vi của trẻ khuyết tật thường xảy ra sau, không thể hiện ra ngay lập tức.
Trẻ không trực tiếp cảm nhận được khuyết tật của mình. Nó gặp phải khó khăn do
khuyết tật đưa lại. Hậu quả trực tiếp từ khuyết tật là việc giảm vị trí xã hội của đứa
trẻ. Tất cả những liên hệ với con người, tất cả những thời điểm xác định chỗ đứng
trong xã hội, vai trò và xứ mệnh khi tham gia vào cuộc sống đều được sắp xếp lại.
Nguyên nhân sinh học bẩm sinh tự thân không tác động trực tiếp mà gián tiếp,
thông qua việc giảm bớt vị trí xã hội của đứa trẻ. Vì thế ở Đức đã có những đề nghị
nên đổi tên trường “đặc biệt”. Vì tên trường này đã có những ảnh hưởng đến tâm lý
phụ huynh và các em bị khuyết tật. Học ở những trường này vô tình hay hữu ý đã
đặt trẻ khuyết tật vào vị trí xã hội khó khăn. Vị thế xã hội có ảnh hưởng đên sự
phát triển tâm lý của trẻ em bình thường và cả những trẻ khuyết tật.
Khuyết tật thính giác tạo ra sự phát triển không bình thường về mặt sinh học,
sự giám sát các chức năng riêng biệt, sự không đầy đủ hay thiếu hụt các bộ phận ít
nhiều biến đốị phát triển trên nền tảng cơ sở mới, đương nhiên là theo dạng mới.
Điếc như một khuyết tật cơ thể không phải là sự thiếu hụt gì quá nặng nề. Nhưng
khuyết tật cả câm và điếc dẫn đến không có khả năng nói lại là điều nặng nề trong
sự phát triển văn hóa của đứa trẻ. Tùy theo mức độ nặng hay nhẹ của khuyết tật mà
sự phát triển văn hóa của đứa trẻ cũng đạt tới các trình độ khác nhau. tật học cũng

có những cách để giúp đỡ sự phát triển văn hóa của đứa trẻ khuyết tật.
Do đó đẻ trẻ khuyết tật đạt được những gì như trẻ bình thường, rõ ràng cần
phải sử dụng những phương tiện đặc biệt. Trẻ em khuyết tật được sống trong môi
trường giàu lòng nhân ái lại được nuôi dạy khoa học thì sẽ có cuộc sông tâm lí bình
thường.
1.5.3. Những đặc điểm cảm giác, tri giác của trẻ khuyết tật thính giác:
Như ta đã biết, cảm giác, tri giác đều là nền tảng cảm xúc của nhận thức
chúng ta Chúng là những nguồn gốc cơ bản của những kiến thức mà chúng ta nhận
thức được ở thế giưói xung quanh. Trong những cảm giác khác nhau thì cảm giác
nghe và cảm giác nhìn có ý nghĩa chủ yếu. chúng ta sống trong thế giới của âm
thanh, của hình dạng và màu sắc. Những nguồn thông tin như phát thanh truyền
12
hình, phim ảnh, sân khấu, âm nhạc, về nhiều mặt dựa trên cảm giác nghe. Tất
nhiên cảm giác nhìn cũng đóng một vai trò quan trọng. Nhưng mất sức nghe sẽ làm
cho đứa trẻ mất khả năng tri giác bình thường những nguồn thông tin này. Trong
việc tiếp nhận ngôn ngữ, cảm giác và tri giác có một vai trò đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở này diễn ra sự phát triển các hình thái chủ động và bị động của lời nói.
Nghe được tiếng nói của người xung quanh. đứa trẻ bắt đầu bắt chước và bập bẹ
những từ đầu tiên. Nhờ lời nói, đứa trẻ nhận được những thông tin cơ bản, lĩnh hội
những kiến thức và kinh ngiệm mà người lớn truyền cho nó. Sự phá hủy tri giác về
tiếng nói của người xung quanhtự nhiên sẽ kéo theo sự phá hủy quá trình hình
thành ngôn ngữ tích cực. Trẻ KTTG không thể tự mình lĩnh hội được ngôn ngữ.
Trong thực tế, trẻ KTTG sẽ bị câm nếu nó không được phát hiện sớm những khó
khăn về thính giác và được hỗ trợ bằng những phương pháp chuyên biệt trong việc
tiếp nhận ngôn ngữ.
Ngày nay trong giáo dục trẻ khiếm thính đang áp dụng rộng rãi những phương
tiện kỹ thuật khác nhau giúp phát triển và kích thích cảm giác thính giác còn lại.
Những phương tiện này có thể chia thành những phương tiện nhìn, phương tiện âm
thanh và những phương tiện sử dụng tính nhạy cảm xúc giác rung. Ví dụ Máy trợ
thính. những thiết bị khuyếch đại âm thanh, những máy rung biến đổi thành những

tín hiệu quang học, những máy rung biến đổi dao động âm thanh thành những dao
động điện do những bộ phận tích xúc giác- rung thu nhận
Ở trẻ khuyết tật thính giác, do thiếu cảm giác nghe hoặc cảm giác nghe bị phá
hủy, nên cảm giác thị giác và cảm giác vận động có một vai trò đặc biệt quan
trọng. thị giác của trẻ khiếm thính trở thành chủ đạo và chủ yếu trong việc nhận
thức thế giới xung quanh và trong viếc tiếp nhận ngôn ngữ. trẻ bình thường học nói
chủ yếu dựa trên cảm giác nghe và vận động, còn tri giác thị giác đóng vai trò thứ
yếu điều này hoàn toàn ngược lại với trẻ khiếm thính. Cùng với cảm giác vận
động, cảm giác tri giác thị giác trở thành nền tảng để hình thành tiếng nói. Thậm
chí trẻ khiếm thính có thể tiếp nhận ngôn ngữ chỉ dựa trên tri giác thị giác. Rất
nhiều những nghiên cứu đã chứng minh rằng cảm giác và tri giác ở trẻ khiếm thính
không kém so với trẻ nghe được, thậm chí còn tích cức và tinh nhạy hơn. Bởi vậy,
trẻ khiếm thính thường để ý những chi tiết nhỏ của thế giới xung quanh mà trẻ bình
thường không để ý đến. Ví dụ:
- Phân biệt màu sắc: việc phân biệt những màu sắc gần giống nhau như
xanh, tím, đỏ, da cam thì trẻ khiếm thính phân biệt tinh tế hơn so với trẻ bình
thường.
- Phân biệt người tiếp xúc: Trẻ khiếm thính có thể nhận thấy từng chi tiết về
khuôn mặt, thân hình, cách ăn mặc, màu sắc và chất liệu của quần áo nhanh hơn so
với trẻ bình thường.
So sánh những bức tranh vẽ của trẻ khiếm thính với trẻ bình thường chúng ta
cũng thấy những bức tranh vẽ của trẻ khiếm thính có nội dung phong phú tỉ mĩ hơn
13
và đặc biệt là khi vẽ người, trẻ khiếm thính thường thể hiện đầy đủ hơn những
phần quan trọng của cơ thể người và rất chú ý đến sự cân xứng trong việc mô tả
chúng so với trẻ bình thường nhưung chúng lại thường gặp khó khăn đối với những
bức tranh biểu thị mối quan hệ không gian.
Ở trẻ khiếm thính, tri giác phân tích thường trội hơn tri giác tổng hợp mặc dù
tất cả những khó khăn tâm lý và sự phức tạp của quá trình tri giác thị giác đối với
ngôn ngữ nói, trẻ khiếm thính thường làm chúng ta ngạc nhiên bằng khả năng dùng

thị giác tiếp nhận và phân biệt tinh tế những gì mà chúng ta thường nói với chúng.
Ngoài ra cảm giác xúc giác và cảm giác vận động đóng vai trò quan trọng trong
quá trình nhận thức của trẻ khiếm thính. Cảm giác vận động báo hiệu cho chúng ta
về sự vận động của các bộ phận của cơ thể, mức độ căng của cơ cũng như sự vận
động của cơ quan ngôn ngữ. Ở người bình thường có tồn tại mối liên hệ chặt chẽ
giữa cơ quan thính giác và vận động. Ở trẻ khiếm thính, sự mất thính lực không chỉ
ảnh hưởng xấu đến sự vận động của bộ máy hô hấp vầ sự phối hợp các động tác
của cơ thể. Vì vậy, trẻ khiếm thính thườngc vụng về không khéo léo, rất khó khăn
với những kĩ năng lao động và thể thao đòi hỏi sự phối hợp tinh tế và sự thăng
bằng của các động tác. Điều này được giải thích là do bộ máy tiền đình cũng như
những điểm cuối dây thần kinh của cơ quan vận động bị tổn thương.
Cảm giác xúc giác – rung của trẻ khiếm thính là đặc thù và độc đáo nhất.
Đây là phương tiện quan trọng trong tiếp nhận ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính. vậy
chúng ta đã biết gì về dạng cảm giác này ? Đầu thế kỉ XIX, E. P. Nauman đã
nghiên cứu và chỉ ra những tính chất cơ bản của loại cảm giác này như sau :
- Những cảm giác xúc giác - rung về bản chất là những cảm giác sơ đẳng là
một bộ phận cấu thành của những dạng cảm giác khác.
- Sức nghe bình thường hạn chế và kìm hãm sự phát triển và sự nhạy bén
của những cảm giác và xúc giác rung.
- Về mặt tính chất, những cảm giác này gắn với những cảm giác vận động và
những cảm giác về vị trí trong không gian.
- Giữa cảm giác nghe và cảm giác xúc giác - rung tồn tại một mối liên hệ
chức năng
[ ]
5
.
1.5.4. Một số đặc điểm của khuyết tật thính giác:
Ta biết rằng vào cuối năm đầu tiên của cuộc đời, trẻ đã bắt đầu ghi nhớ được
từ. Tuy nhiên sự ghi nhớ này mang tính tự phát và không có chủ định. Ở trẻ khuyết
tật thính giác việc ghi nhận từ ngữ bắt đầu muộn hơn nhiều vì mất hẳn một khoảng

thời gian dài ban đầu rất quan trọng tiếp nhận từ ngữ. Thời gian phát hiện tật điếc
càng muộn thì việc thu nhận ngôn ngữ của trẻ càng bị trì hoãn. Tất nhiên những từ
biểu thị đồ vật và hiện tượng thu nhận bằng những cơ quan cảm thụ khác nhau,
không được ghi nhớ với mức độ nhanh chóng và bền vững như nhau. Một công
trình nghiên cứu quá trình ghi nhớ ba dạng từ sau của học sinh điếc và học sinh
nghe được:
14
- Những từ biểu thị đồvật và hiện tượng thu nhận bằng mắt.
- Những từ biểu thị chất lượng của những đồ vật thu nhận nhờ cơ quan xúc giác.
- Những từ tượng thanh.
Kết quả thu được cho thấy rằng, giữa HS điếc và HS nghe được có sự khác
nhau rất ít trong việc ghi nhớ những từ biểu thị hiện tượng âm thanh. Trong khi đó
so với trẻ nghe được, trẻ khuyết tật thính giác ghi nhớ tốt hơn những từ những từ
biểu thị chất lượng của những đồ vật tiếp nhận được nhờ xúc giác. Nghiên cứu này
cũng xác định được rằng trẻ khuyết tật thính giác có thể ghi nhớ những từ biểu thị
những hiện tượng âm thanh. Thậm chí chúng có khả năng nhớ tốt hơn người khác
những từ biểu thị những âm phát ra từ tiếng máy, khó ghi nhớ những từ biểu thị
những âm thanh cường độ nhỏ. Ở trẻ khiếm thính, biểu tượng về âm thanh của các
khách thể xuất hiện dựa trên những hoạt động của những giác quan còn lại. Việc
ghi nhớ những từ thuộc phạm vi những hiện tượng âm thanh diễn ra nhờ sự hoạt
động phức tạp của một loại những cơ quan chức năng của trẻ khiếm thính: đó là sự
hoạt động đồng thời và tác động qua lại của cơ quan thị giác, xúc giác, vận động và
cảm giác rung.
Trong quá trình ghi nhớ tư liệu, trẻ khuyết tật thính giác ít sử dụng thủ thuật so
sánh. Nhưng bù lại, trẻ ghi nhớ tư liệu trực tiếp bằng thị giác tốt hơn trẻ nghe được
vì chúng có kinh nghiệm thị lực phong phú hơn.
Với loại tư liệu khó biểu thị bằng lời, trẻ khuyết tật thính giác ghi nhớ kém
hơn, nhưng khi chúng có thể sử dụng chữ viết để biểu thị thì mức độ ghi nhớ của
chúng không thua kém gì so với trẻ nghe được. Hơn nữa trẻ khuyết tật thính giác
không chỉ sử dụng cách biểu thị bằng lời mà còn bằng cử chỉ điệu bộ. Điều này

cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự ghi nhớ của chúng.
[ ]
6

1.5.5. Một số đặc điểm tưởng tượng ở trẻ khuyết tật thính giác:
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là nhân tố quan trọng nhất hình thành các
khái niệm, là phương tiện phát triểntư duy trừu tượng. điều tự nhiện là trong những
trường hợp không có ngôn ngữ hay là ngôn ngữ phát triển muộn màng hay có
những sai lệch sẽ làm hạn chếkhông chỉ quá trình hình thành tư duy mà có cả quá
trình hình thành trí tưởng tượng nữa L.X. Vưgốtxki, qua những công trình nghiên
cứu tâm lý của mình đã chỉ ra rằng: người bị mất ngôn ngữ rất khó nhắc lại một
câu trong đó khẳng định điều gì đó trái với điều họ thấy, điều đó có trong lĩnh vực
tri giác trực tiếp của họ.
Cùng với sự mất hoặc khiếm khuyết về ngôn ngữ như là phương tiện hình
thành khái niệm, ở những người này, mất luôn cả sự tưởng tượng biểu thị ở chỗ
con người không thể lãng quên tình huống cụ thể, thay đổi nó, cải biến những
thành tố riêng biệt của nó thoát khỏi ảnh hưởng của cái trực tiếp đã có. Cùng với
điều đó là sự khó khăn hiểu được những ẩn dụ, những từ ở nghĩa bóng.
Những đặc điểm tưởng tượng ở trẻ khuyết tật thính giác có sự thiếu hụt là do
sự hình thành ngôn ngữ chậm và tư duy trừu tượng hạn chế gây nên. Mặc dù hình
15
tượng thị giác của trẻ khiếm thính đạt nức độ cao và sống động, nhưng sự hình
thành tư duy bằng khái niệm quá chậm, làm chúng rất khó thoát khỏi cái ý nghĩa cụ
thể, nghĩa đen của từ, điều đó làm khó khăn cho sự hình thành hình tượng mới.
Tưởng tượng tái tạo có một ý nghĩa đặc biệt trong hoạt dộng nhận thức của
trẻ khiếm thính. Nhờ tưởng tượng tái tạo thế giới xung quanh được phản ánh trong
ý thức của trẻ rộng hơn, phong phú hơn. Tầm hiểu biết của trẻ được mở rộng qua
giới hạn kinh nghiệm cá nhân, đưa chúng tiếp xúc với kho tàng kinh nghiệm của
loài người.
[ ]

7

1.5.6. Một số đặc điểm tư duy ở trẻ khuyết tật thính giác:
Tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tế của trẻ khiếm thính. cần thấy rằng sự tham gia của ngôn ngữ vào dạng
tư duy này là rất nhỏ. Tuy nhiên sẽ không đúng nếu cho rằng cùng với tuổi tư duy
trực quan hành động mất dần và được thay thế hoàn toàn bằng tư duy trừu tượng.
Tư duy trực quan hành động tiếp tục có ý nghĩa để giải quyết nhiều nhiệm vụ trong
học tập, trong lao động, trong cuộc sống theo suốt cuộc đời sau này. Tư duy trực
quan hành động của trẻ khiếm thính có liên hệ trực tiếp với hoạt động, với tri giác
của nó và thể hiện trong quá trình thao tác thực hành với vật thể khi đứa trẻ chia
cắt, lắp đặt các bộ phận của vật thể được tri giác.
Tư duy trực quan hình tượng được đặc trưng ở chỗ nó phụ thuộc vào tri giác.
Kiểu tư duy này dựa trên tư liệu trực quan, cảm tính cụ thể và chính những hình
ảnh đã nảy sinh phản ánh những nét cụ thể, đơn nhất và cá biệt của sự vật. Ở trẻ
khuyết tật thính giác, trước thời gian tiếp nhận ngôn ngữ và cả trong quá trình thu
nhận ngôn ngữ còn có một thời gian dài dừng lại ở mức độ tư duy trực quan hình
tượng nghĩa là chúng suy nghĩ không bằng lời mà bằng những hình tượng hình
ảnh. sự diễn đạt bằng hình tượng được trẻ khuyết tật thính giác tri giác với nội
dung sự vật theo nghĩa đen của nó. Cách diễn đạt đó đã khơi dậy ở trẻ những biểu
tượng cụ thể, những hình ảnh đơn nhất gây khó khăn cho việc đi sâu vào ý nghĩa
khái niệm của nó và việc nhận thức ý nghĩa khái quát của nó. bởi vậy ta không
ngạc nhiên khi hỏi trẻ khiếm thính “ Bàn tay vàng là gì?” chúng trả lời “Làm bằng
vàng” , “Tay màu vàng” trẻ khiếm thính chỉ thấy trong hình tượng đã nảy sinh của
vật thể chỉ phản ánh có một dấu hiệu của nó. Trẻ khuyết tật thính giác khó hiểu
được những ý nghĩa tiềm ẩn của ẩn dụ trong những câu thành ngữ.
Tư duy trừu tượng đặc trưng ở chỗ nó diễn ra trong những khái niệm. Khác
với hình tượng, khái niệm phản ánh những nét chung nhất, bản chất nhất của các
sự vật các hiện tượng của hiện thực. Sự khiếm khuyết về ngôn ngữ, và ngay cả việc
tiếp nhận ngôn ngữ muộn cũng có ảnh hưỏng đáng kể đến sự hình thành các khái

niệm và do đó đến cả tư duy trừu tượng. Những nghiên cứu của I.M.Xôlôviep,
G.I.Siphơ đã chỉ ra rằng trẻ khuyết tật thính giác chậm phát triển cả những thao tác
tư duy khác: trừu tượng hóa, khái quát hóa.
[ ]
8

16
1.5.7. Ngôn ngữ của trẻ khuyết tật thính giác:
Tiếng nói và ngôn ngữ là công cụ mạnh mẽ để nhận thức thế giới xung
quanh. nhờ ngôn ngữ, con người có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa. Con
người có thể nhận thức cả những đặc tính của thế giới xung quanh mà sự quan sát,
tri giác không thể cảm nhận được. Sự phát triển trí tuệ của trẻ phụ thuộc nhiều vào
ngôn ngữ Đứa trẻ nắm được ngôn ngữ, trong quá trình giao tiếp có thể biết những
đặc tính của những vật xung quanh nó. Nó luôn luôn đặt những câu hỏi với người
xung quanh và nhận được những câu trả lời, thu nhận được những kinh nghiệm của
nhười lớn. vào thời điểm 2-3 tuổi, quá trình phát triển tiếng nói và tư duy diễn ra
đặc biệt mãnh liệt. Ngôn ngữ liên hệ chặt chẽ với tư duy. Mối liên hệ này thể hiện
trước hết ở chỗ: tiếng nói là công cụ của tư duy. Ý nghĩ của chúng ta xuất hiện và
hình thành trên cơ sở tiếng nói. Không có những ý nghĩ trần trụi, thiếu vổ bọc ngôn
ngữ. Tư duy bằng ngôn ngữ là hoàn thiện nhất vì nó có khả năng trừu tượng hóa
không giới hạn.
Từ vựng và cấu trúc ngữ pháp là những bộ phận quan trọng cấu thành tiếng
nói. Từ vựng đôi khi còn gọi là “vật liệu xây dựng” của tiếng nói. Từ vựng càng
giàu thì tiếng nói càng phong phú. Nhưng chỉ có riêng từ vựng thì chưa tạo thành
được ngôn ngữ, nó chỉ trở thành sức mạnh thực tế khi nó được sử dụng theo ngữ
pháp. Làm cho ngôn ngữ của chúng ta trở nên có cấu trúc và có ý nghĩa. Một yếu
tố rất quan trọng của tiếng nói chúng ta là cái vỏ âm thanh, thành phần ngữ âm.
Cáo vỏ âm thanh của tiếng nói dường nhưu là “cái vỏ vật chất” của nó. Chúng ta
chỉ có thể diễn đạt ý nghĩ nhờ bọc chúng vào vỏ bọc âm thanh hay là cái vỏ đồ họa
( chữ viết ). Hơn nữa, trong mỗi từ đều có nghĩa khái quát. Chính điều đó mở rộng

khả năng giao tiếp và nhận thức. sắc thái cảm xúc của từ là yếu tố rất quan trọng,
song còn ít được nhận thấy, dường như bị che lấp. chúng ta không đặc biệt coi
trọng nó trong cuộc sống hàng ngày, nhưng ở đâu mà nhu cầu ngôn ngữ tăng lên, ở
đâu mà có vai trò đặc biệt để diễn đạt sắc thái của ý nghĩ thì yếu tố đó của từ có vai
trò rất cơ bản, ví dụ sự sáng tạo trong ngôn ngữ thơ ca, Sự phá hủy thành phần từ
của ngôn ngữ. Trẻ khuyết tật thính giác ngôn ngữ chủ yếu là các kí hiệu, cử chỉ
điệu bộ, những đồ vật thực, những từ vựng đơn thuần chứ không có được những từ
ngữ giàu yếu tố sắc thái như trẻ bình thường.
Từ những đặc điểm tâm lí trên cho chúng ta thấy rằng: Trẻ khuyết tật thính
giác, nếu được chuẩn bị tốt tâm lí thì có thể đến trường học như mọi trẻ bình
thường khác tuy nhiên ở mức độ đặc biệt riêng biệt.
17
CHƯƠNG 2:
CHUẨN BỊ TÂM LÍ SẴN SÀNG ĐỂ TRẺ KHIẾM THÍNH VÀO
TRƯỜNG TIỂU HỌC - TRƯỜNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT
QUẢNG TRỊ.
2.1. Đặc điểm, tình hình của Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị.
2.1.1. Tầm quan trọng của việc chăm sóc- giáo dục trẻ khuyết tật
Sau ngày giải phóng, cùng với cả nước, Quảng Trị khắc phục hậu quả chiến
tranh, tái thiết xây dựng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị- kinh tế, văn
hoá xã hội.Cùng chung sức với các ban ngành, địa phương, ngành giáo dục Quảng
trị đã từng bước đổi mới và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần
đáng kể vào sự nghiệp củng cố giáo dục nước nhà và xây dựng phát triển kinh tế
văn hoá xã hội của tỉnh.
Đặc biệt trong những năm đổi mới, nhiều loại hình trường lớp được mở ra,
thu hút hàng chục ngàn người tham gia học tập, từ các em nhỏ đến những người
lớn tuổi đều được đến trường, đáp ứng được yêu cầu học tập của cán bộ và nhân
dân trong tỉnh vun đắp dày thêm truyền thống của người dân Quảng Trị.
Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, Quảng Trị là mảnh đất lịch sử chịu
nhiều bom đạn và chất độc hoá học. Chiến tranh đã đi qua nhưng đã để lại trong

lòng Quảng Trị biết bao thương tích, bệnh tật. Mỗi góc phố, mỗi làng quê của
Quảng Trị phải gánh chịu biết bao nhiêu hậu quả, di chứng của chiến tranh. Nỗi
đau của những em thơ mang trên mình nhiều bệnh tật, khát khao được cắp sách
đến trường, được xã hội quan tâm chăm sóc, được hoà nhập cộng đồng. Trước nỗi
đau của toàn dân và nỗi đau của những mảnh đời nhỏ bé phải chịu nhiều đau
thương mất mát đó. Lãnh đạo các cấp đã suy nghĩ, trăn trở và đặc biệt là sự quan
tâm của ngành giáo dục đã tìm ra những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu nguyện
vọng của nhân dân. Ngày 16/2/1993 “ Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Đông Hà”
được thành lập với số lượng học sinh là 12 em bị tật khiếm thính và đội ngũ giáo
viên chỉ gồm 3 thầy cô giáo.
Để đáp ứng với nhu cầu học tập của các em học sinh khuyết tật trong toàn
tỉnh, tháng 11/2000, trường trẻ em khuyết tật tỉnh Quảng Trị được thành lập trên cơ
sở trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Đông Hà, đối tượng học sinh được tuyển rộng
rãi trong toàn tỉnh.
Mục tiêu: Chăm sóc - nuôi dưỡng, dạy văn hoá hết bậc tiểu học, hướng
nghịêp, dạy nghề, tạo điều kiện cho các em sớm hoà nhập với xã hội, có cuộc sống
tươi đẹp hơn.
18
2.1.2. Thực trạng tổ chức hoạt động chăm sóc-giáo dục trẻ khuyết tật tỉnh
Quảng Trị:
Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị đống trên địa bàn Phường 3 thị xã Đông Hà,
tỉnh Quảng Trị. Tính từ ngày đầu sơ khai đến nay cũng được chừng 15 năm. Tuy
tuổi đời còn ít nhưng trường cũng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu học tập cho
những trẻ không may bị thiệt thòi trên toàn tỉnh. Cùng với thời gian đó, dưới sự
chăm sóc, giáo dục của đội ngũ cán bộ giáo viên - công nhân viên trong nhà
trường, cùng với sự hổ trợ của các ban ngành và các tổ chức trong và ngoài nước
đã tạo niềm tin cho các bậc phụ huynh, nhằm thu hút các đối tượng đặc biệt đến
trường ngày càng đông.
+Bộ máy hoạt động của nhà trường
Sự vận hành của bộ máy trường trẻ em khuyết tật Quảng Trị trực thuộc Sở

giáo dục - đào tạo quản lí hoạt động với mục tiêu: chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật
để các em sớm hoà nhập với cộng đồng, xã hội.
Bộ máy nhà trường gồm có:
- 01 Hiệu trưởng: là người quản lí chung về mội mặt hoạt động của nhà
trường.
- 02 Hiệu phó: 01 người phụ trách chuyên môn, 01 người phụ trach về đời
sống vật chất nội, bán trú của học sinh.
- Giáo viên đứng lớp:
- Kế toán: 01 đồng chí
- Nhạc- đoàn đội: 01 đồng chí
- Cấp dưỡng: 3 đồng chí
- Chăm sóc viên:
- Thư viện: 1 đồng chí
- Bảo vệ: 2 đồng chí
- Giáo viên dạy nghề: 3 đồng chí
- Chi bộ gồm có 14 đồng chí Đảng viên.
+ Cơ sở vật chất:
Nhà trường đã được các ban ngành giúp đỡ và huy động các nguồn lực tài
trợ của trong và ngoài nước nhằm tạo điều kiện cho nhà trường có được một số cơ
sở vật chất cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật.
Nhà trường đã xây được một phòng cách âm cho trẻ khiếm thính, 1 phòng
học vi tính gồm 10 máy, 1 phòng may gồm 12 máy may, 1 phòng đo thể lực,
phòng tư vấn và can thiệp sớm, 1 bàn bi-da, sân bóng chuyền, bóng rổ Các lớp
học đều được trang bị 1 đầu máy video và 1 ti vi màn hình phẳng.
+ Đội ngũ giáo viên:
Nhà trường tiếp tục xây dựng đội ngũ giáo viên tận tâm, tận lực, chịu khó
suy nghĩ, học hỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, có nhiều sáng kiến, tổ chức nhiều
chuyên đề dạy học đổi mới phương pháp phù hợp với học sinh khuyết tật.
19
Mỗi giáo viên đều có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp của mình. Hết lòng

thương yêu, chăm sóc chu đáo cho học sinh.
+ Hoạt động nâng cao chất lượng đào tạo:
Nhà trường đang phấn đấu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiếp cận
phương pháp dạy trẻ khuyết tật, dạy có chất lượng tốt. Trình độ chuyên môn toàn
thể cán bộ giáo viên trong nhà trường đều đạt và trên chuẩn (các giáo viên trên
chuẩn gồm có 6 đồng chí: 2 đồng chí cử nhân tật học). Hiện đang có 1 đồng chí
đang học đại học tật học ở Hà Nội, 4 đồng chí đang học Cao đẳng sư phạm tật học,
4 đồng chi đang học Cao đẳng sư phạm tiểu học, 3 đồng chí đang học đại học tiểu
học.
Ngoài ra, hàng năm nhà trường còn tổ chức cho toàn thể cán bộ, giáo viên
trong nhà trường đi tham quan, học hỏi về mô hình giáo dục trẻ khuyết tật ở các
tỉnh bạn như: Xã Đàn, trường Nguyễn Đình Chiểu ( Hà Nội), Trung tâm giáo dục
trẻ khuyết tật ở các tỉnh Miền Nam.
Được sự quan tâm của Sở giáo dục – đào tạo Quảng Trị và các ban ngành
hàng năm cũng đã mở các chuyên đề bồi dưỡng về chuyên môn cho giáo viên dạy
trẻ khuyết tật , chăm sóc và phục hồi chức năng cho trẻ. Hiện nay nhà trường đã
duy trì được số lượng học sinh gồm có: 120 em, chia làm 12 lớp học văn hoá:
- 08 lớp HS khiếm thính gồm: 78 em
- 03 lớp chậm phát triển trí tuệ gồm: 35 em
- 01 lớp khiếm thị
Trong số các em học sinh đã lấy một số em học nghề may và học nhôm
kính. Cụ thể:
1 lớp học nghề may gồm: 09 em
1 lớp học nhôm kính : 02 em
Tất cả các học sinh lớp 3 trở lên đều được học đan móc. Cứ mỗi lớp học văn
hóa co 02 giáo viên phụ trách, mỗi giáo viên phụ trách một buổi. Nhà trường lựa
chọn, phân công giáo viên phụ trách lớp phù hợp với từng đối tượng tật để dạy cho
đảm bảo chất lượng đối với học sinh.
. Thuận lợi:
Là một trường đống trên địa bàn thị xã, dưới sự trực tiếp chỉ đạo và quan

tâm của Sở Giáo Dục cùng các ban ngành cũng như các tổ chức phi chính phủ
đống trên địa bàn nên đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho nhà trường trong việc chăm
sóc, nuôi dạy trẻ khuyết tật.
Với đội ngũ thầy cô giáo có nhiều thâm niên, có tay nghề cao lại đầy nhiệt
tình, tâm huyết với trẻ khuyết tật. Đa phần đều được qua các lớp tập huấn chăm sóc
giáo dục trẻ đặc biệt nên rất thuận lợi cho việc chăm sóc cũng như nuôi dạy trẻ.
Cơ sở vật chất lại được trang bị khá hoàn hảo và đầy đủ từ phòng học,
phòng ngũ, phòng phục hồi chức năng (đo thính lực, can thiệp sớm)đến đồ dùng
học tập, đồ dùng dạy học nên rất thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh.
20
Ngoài ra trường cũng rất chú trọng đến các trang thiết bị như sân chơi và các thiết
bị khác phục vụ cho sinh hoạt tại chổ của học sinh (cầu long, bóng bàn, bóng đá,
cờ vua, )
. Khó khăn:
- Do địa bàn Quảng trị dốc, nhiều đồi núi, dân cư lại dàn trải, trường lại
đóng trên thị xã nên rất khó khăn trong việc đi lại, tuyên truyền và vận động, chăm
sóc trẻ khuyết tật đến trường .
- Mặt bằng dân trí thấp cộng với sự kém hiểu biết của các bậc phụ huynh nên
đa phần học sinh không được qua các lớp mầm non nên trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng
để vào trường tiểu học.
- Phần nhiều học sinh khuyết tật được sinh ra trong những gia đình ở nông
thôn, điều kiện kinh tế khó khăn nên việc đi lại, chăm sóc, quan tâm, động viên và
giáo dục trẻ còn phó mặc cho nhà trường.
- Do Quảng trị là một tỉnh nghèo, chịu nhiều hậu quả của chiến tranh, trẻ
khuyết tật đông lại nhiều loại tật khác nhau nên khó phân loại tật để chuẩn bị tâm lí
cho trẻ đến trường cũng gặp nhiều khó khăn.
- Trường lại thuộc sự quản lí của ngành dọc nên kinh phí cho mọi hoạt động,
sinh hoạt, phục vụ học sinh còn hạn chế.
- Các thiết bị hổ trợ cho học sinh còn thiếu, như: máy trợ thính, các thiết bị
phục hồi chức năng, thiết bị nghe nhìn khác

Từ những khó khăn trên ảnh hưởng rất lớn đến việc chuẩn bị tâm lí sẵn sàng
cho trẻ khuyết tật vào học lớp một ở trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị.
+ Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng:
Nhà trường chọn những đồng chí có tâm huyết, có tình thương để chăm sóc
các em nhiệt tình chu đáo. Kết hợp giữa cấp dưỡng, chăm sóc viên, bảo vệ và giáo
viên chủ nhiệm lớp, tổng phụ trách đội để phát hiện những biểu hiện bất thường
xảy ra như: trốn trường, biểu hiện kém ăn, kém ngủ, đau ốm để có biện pháp can
thiệp kịp thời. Thường xuyên kiểm tra việc ăn ở của học sinh, khu nội trú phải sạch
sẽ, nhà bếp phải đảm bảo bữa ăn vệ sinh an toàn thực phẩm. Y tế, chăm sóc viên
thường xuyên kiểm tra sức khoẻ học sinh, mùa đông tắm bằng nước ấm, chăn màn,
áo quần đảm bảo đủ ấm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè. Kiểm tra cân đo học sinh
1 lần/1 tháng để kịp thời xử lí. Đào tạo một số nghề phổ thông phù hợp với khả
năng sở trường, sức khoẻ của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất hiên có của nhà
trường như nghề may, nghề mộc, nghề nhôm kính Hiện nay nhà trường đã tạo
điều kiện cho học sinh 1 lớp học nghề may gồm 9 em, đã cho ra hoà nhập cộng
đồng 17 em.
+ Công tác phối hợp đoàn thể:
Nhà trường thương tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp như văn nghệ,
thể dục thể thao, tham quan, dã ngoại Nhà trường kết hợp với hội sinh viên tình
nguyện trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị tổ chức nhiều hoạt động, tổ chức các
21
buổi giao lưu với các trường tiểu học trong tỉnh để giúp đỡ các em có điều kiện học
hỏi về trường bạn làm cho các em giảm bớt sự mặc cảm bệnh tật của bản thân để
vượt qua số phận của chính mình để cùng hoà nhập với cộng đồng xã hội. Ngoài ra
trường còn xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà trường với các địa phương, giữa nhà
trường và các phụ huynh học sinh, giữa giáo viên với chăm sóc viên để có thông
tin hai chiều để có biện pháp tích cực động viên các em đến trường, chăm sóc giáo
dục các em một cách tốt hơn.
2.2. Chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khiếm thính vào học lớp một ở trường
Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị.

Từ việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn ở địa phương chúng tôi xin đề xuất
một số biện pháp chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho trẻ khiếm thính vào học lớp một ở
trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị. Cơ sở của biện pháp này là:
2.2.1. Đánh giá chung.
Từ thực trạng việc chuẩn bị tâm lí sắn sàng cho trẻ khuyết tật thính giác ở
địa phương Quảng trị cho thấy:
Trường trẻ em khuyết tật là một loại hình mới trong ngành giáo dục. Công
tác chuẩn bị tâm lí cho trẻ khiếm thính đến trường cũng như công tác nuôi dạy và
chăm sóc các em đang gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ về cả chương trình và phương
pháp dạy học.
Hơn 10 năm qua nhà trường đã không ngừng tìm hiểu, học hỏi về cách thức
tổ chức, phương thức đào tạo, việc chuẩn bị tâm lí sắn sàng cho trẻ khuyết tật, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên và việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất. Phấn đấu
đưa trường ngày càng phát triển và đứng vững trong hình thức mới, tạo được cơ sở
ban đầu để đi lên vững chắc trong thời gian tới.
2.2.2. Các việc làm cụ thể.
2.2.2.1. Tư vấn và can thiềp sớm cho trẻ khiếm thính ở trường Trẻ Em Khuyết
Tật Quảng Trị:
Những năm đầu đời là những năm tối ưu cho sự phát triển tâm lí, tư duy,
nhận thức cũng như ngôn ngữ của trẻ. Phát hiện và can thiềp sớm có thể ngăn ngừa
những nhân tố nguy hiểm, đồng thời thực hiện chức năng chữa bệnh ở mức độ nào
đó cho trẻ. Can thiệp sớm làm giảm những bệnh mản tính và chức năng khuyết tật
lâu dài cũng như những giác quan khác của trẻ.
Tư vấn là cách dựa vào chuẩn đoán, kết luận của bác sĩ, kết hợp với khám
sàng lọc ở trường (đo độ điếc của trẻ) giúp gia đình biết được mức độ tật của trẻ từ
đó có biện pháp can thiệp sớm.
Phát hiện sớm là cách hiệu quả, chủ động lôi cuốn gia đình trẻ vào quá trình
can thiệp cho trẻ, giúp trẻ có sự chuẩn bị tâm lí cũng như sự phát triển toàn diện,
hướng dẫn và điều trị khi chăm sóc trẻ.
Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những

yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
22
Cải thiện mối quan hệ giữa cha mẹ và trẻ cũng như mạng lưới gia đình (ông
bà, chú bác, cô dì, ) được cân bằng về mặt tình cảm hơn. Từ đó họ biết diều chỉnh
hành vi cũng như tình cảm, nhận thức khi trong gia đình có một đứa trẻ khuyết tật.
Can thiệp sớm cũng là một cách làm nhẹ bớt gánh nặng cho gia đình, giúp họ nhận
thức đúng đắn trong việc chọn và đưa trẻ đến trường, tạo điều kiện cho gia đình
quan tâm giúp đỡ hàng ngày cho trẻ.
Can thiệp sớm làm cho xã hội nhận biết được thực tế là còn có những đứa trẻ
bị khuyết tật cũng là một bộ phận của cộng đồng và có quyền được giúp đỡ như
mọi trẻ nhỏ khác trong xã hội.
Can thiệp sớm để có biện pháp tổ chức mọi hoạt động: học tập, vui chơi,
nghĩ ngơi của trẻ. Cũng như việc đặt ra mục tiêu ngắn hạn, dài hạn, mục tiêu cho
từng cá nhân.
2.2.2.2. Lập kế hoạch giáo dục cá nhân:
Đây là một trong những biện pháp đặc thù cho trẻ khuyết tật. Xây dựng kế
hoạch cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng riêng của từng trẻ, đồng thời là
công cụ để đánh giá chất lượng giáo dục hoà nhập và sự hổ trợ cần thiết cho từng
cá nhân.
Mỗi đứa trẻ có một điều kiện, một đặc điểm tâm lí riêng, điểm mạnh riêng
do đó cần có một kế hoạch giáo dục riêng nhằm phát huy tối đa khả năng của trẻ. Ở
trẻ khuyết tật thính giác với bản năng rất hiếu động lại hạn chế về ngôn ngữ nên
việc giao tiếp bằng lời cũng rất hạn chế. Vì thế, khi xây dựng kế hoạch giáo dục cá
nhân cần đặc biệt chú ý đến đặc điểm tâm lí và điểm mạnh của trẻ nhất là ở giai
đoạn hiện tại để có kế hoạch lâu dài.
2.2.2.3. Định hướng giáo dục hòa nhập cho trẻ khiếm thính ở trường Trẻ Em
Khuyết Tật Quảng Trị:
Cùng với sự phát triển giáo dục đào tạo trong cả nước, giáo dục Quảng trị
bước đầu ổn định và ngày càng phát triển nhanh về cả quy mô và chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ.

Hệ thống các trường mầm non ở cũng phát triển mạnh, đồng đều ở các cấp.
Việc giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng
cũng rất được quan tâm. Với mục tiêu là giúp cho mọi trẻ đều được đến trường,
được phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ. Tạo môi trường
sống, học tập, hoà nhập tốt nhất cho trẻ.
Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị cũng xác định cho mình mục tiêu
định hướng giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật nói chung, trẻ khiếm thính nói
riêng là một việc làm không thể thiếu. Định hướng giáo dục hòa nhập giúp gia đình
trẻ lựa chọn cho con em mình những sự hỗ trợ phù hợp nhằm đảm bảo cho việc
học tập của trẻ có hiệu quả. Đây cũng là một nhân tố chủ chốt trong việc thực hiện
can thiệp sớm và việc giáo dục cá nhân.
23
Định hướng giáo dục hòa nhập giúp gia đình trẻ lựa chọn cho con em mình
học hoà nhập ở trường mầm non hay vào Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng Trị
học tiền hoà nhập ( lớp dự bị) chuẩn bị cho lớp một.
Sau khi thực hiện thí điểm mô hình định hướng giáo dục hòa nhập ở trường
chúng tôi thấy rằng: nếu trẻ khuyết tật được học hoà nhập ở các trường mầm non
hoặc học dự bị ở trường thì khi bước vào học ở Trường Trẻ Em Khuyết Tật trẻ tiến
bộ hơn so với trẻ ngoài xã hội.
2.2.2.4.Công tác tiền hoà nhập ở Trường Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị.
Đây là công việc chuẩn bị rất cơ bản đối với những trẻ khiếm thính nặng
không thể học hoà nhập ở các trường mầm non. Thông qua kết quả khám sàng lọc,
những trẻ có độ điếc từ 71đB trở lên( từ điếc nặng đến điếc sâu) thính lực còn lại
không còn đáng kể, sức nghe giảm sút nhiều không theo học được hoà nhập thì
chọn vào trường học lớp dự bị nhằm chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
Ở giai đoạn này, trẻ dược làm quen với trường, lớp, với thầy cô giáo, các
bạn và được tham gia các hoạt động như ỏ trường mầm non. Đặc biệt ở đây trẻ
được tiếp xúc với các kí hiệu ngôn ngữ mà ở trường mầm non không có. Được tiếp
thu bằng các phương pháp giáo dục đằc biệt nhằm chuẩnbị tốt tâm lí cho trẻ vào
học lớp một.

2.2.2.5. Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với cuộc sống ở trường tiểu học - Trường
Trẻ Em Khuyết Tật Quảng trị.
Cuộc sống ở trường tiểu học khác với cuộc sống ở gia đình và lớp mẫu giáo.
Để thích ứng với cuộc sống này, cần phải cho trẻ chuẩn bị về nhiều mặt:
+ Về chế độ sinh hoạt:
Tạo cho trẻ một chế độ sinh hoạt nề nếp, phù hợp với độ tuổi và luyện tập để trẻ
thích ứng với chế độ sinh hoạt đó trong việc thực hiện các sinh hoạt hàng ngày
như( ăn, ngủ, chơi, học, tập thể dục, đặc biệt là lao động tự phục vụ.) một cách nề
nếp nhưng không bị gò bó, áp đặt. Điều quan trọng là khơi dậy ở trẻ tính tự giác,
đặc biệt là tính tự lực khi thực hiện chế độ sinh hoạt ở trường.
+ Về hành vi văn hoá:
Cần hinh thành và phát triển hành vi văn hoá ở trẻ về cách ứng xử tốt, có văn
hoá đối với mọi người xung quanh ( những người lớn trong gia đình, bạn bè cùng
lứa, các anh chị trong trường ). Giúp trẻ mạnh dạn chủ động, thiết lập mối quan hệ
tốt với mọi người, biết kính trên nhường dưới, thân thiện với bạn bè, sẵn sàng
nhường nhịn và giúp đỡ nhau, trên cơ sở tình cảm sâu sắc. Hình thành cho trẻ cách
ứng xử có văn hoá với môi trường xung quanh ( biết chăm sóc bảo vệ vật nuôi cây
trồng ở nhà, ở trường, ở nơi công cộng ). Đối với bản thân trẻ, cần hình thành
những hành vi văn hoá - vệ sinh, biết tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày ( tự ăn,
tự đi ngủ, tự mặc quần áo, chải tóc, biết rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước và sau khi
ăn). Rèn luyện cho trẻ tư thế tác phong gọn gàng, nhanh nhẹn, tự tin và tôn trọng
người khác trong giao tiếp nhưng vẫn hồn nhiên, vui tươi.Giúp trẻ biết tự điều
24
khiển hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, bớt đi những hành vi
bột phát, thiếu ý thức, những ham muốn vô lí thường gặp ở trẻ.
+ Chuẩn bị cho trẻ gia nhập những mối quan hệ xã hội rộng lớn hơn.
Khi vào lớp 1 không những hoạt động chủ đạo thay đổi ( từ vui chơi đến học
tập ) mà môi trường xã hội cũng thay đổi, trở nên rộng lớn hơn. Các em được tham
gia vào những mối quan hệ xã hội phong phú hơn. Do đó ngay từ khi còn ở lớp
mẫu giáo chúng ta cần mở rộng các mối quan hệ của trẻ, cho trẻ làm quen với

những mối quan hệ xã hội mà sau này trẻ phải ra nhập khi vào lớp 1 tiểu học, để
giúp trẻ nhanh chóng thích ứng với môi trường sống mới.
Trong các mối quan hệ xã hội ngày càng được mở rộng, trẻ nhận biết được
vị trí và bổn phận của mình. Khi đến trường trẻ cần phải nhận ra vị trí của mình và
cần giao tiếp với bạn bè, thầycô giáo, cô hiệu trưởng, bác cấp dưỡng, bác bảo vệ
để xưng hô cho đúng. Ngoài gia đình và nhà trường trẻ cần được tiếp xúc với làng
xóm, những người khác lạ từ nơi khác đến
Trong quá trình tham gia vào những mối quan hệ trên cần giúp trẻ hình thành
những động cơ xã hội tích cực. Động cơ hành vi của trẻ không ngừng phát triển và
có những biến đổi căn bản trong thời kì mẫu giáo. Giúp trẻ hình thành những động
cơ đạo đức mang ý nghĩa xã hội, giúp trẻ hiểu rằng hành vi của chúng có thể mang
lại niềm vui hay lợi ích cho người khác, động viên trẻ quan tâm đến người khác và
biết làm các công việc vì người khác theo sáng kiến của mình.
Vào trường tiểu học các hoạt động của học sinh thường mang tính tập thể:
tập thể lớp, tập thể Đội nhi đồng. Để thích ứng với hoạt động tập thể của học sinh
ngay từ thời kì mẫu giáo, cần khêu gợi ở trẻ nhu cầu tham gia hoạt động chung,
những hoạt động mang tính hợp tác cùng nhau. Trò chơi, đặc biệt là trò chơi đông
người mang tính cộng đồng là phương tiện giáo dục ý thức tập thể cho trẻ rất tốt.
Những buổi đi dạo, đi thăm danh lam thắng cảnh, hay di tích lịch sử đều có thể hun
đúc dần ở trẻ ý thức tập thể, ý thức cộng đồng.
2.2.2.6. Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với hoạt động học tập:
Hoạt động học tập ở trường tiểu học chủ yếu là hoạt động nhận thức để tiếp
thu tri thức khoa học, do đó cần phải chuẩn bị cho trẻ về các mặt như:
+Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đi học cho trẻ.
Tâm thế sẵn sàng đi học là một yếu tố tâm lí rất quan trọng thôi thúc trẻ đến
trường, nó kích thích tính tích cực học tập và tham gia các hoạt động ở trường tiểu
học. Chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đi học bao gồm các vấn đề sau:
-Nuôi dưỡng hứng thú nhận thức lâu bền cho trẻ vì ở tiểu học, học tập là
hoạt động chủ đạo của người học sinh. Hiệu quả của hoạt động này phụ thuộc
nhiều vào hứng thú nhận thức của trẻ. Trong quá trình tổ chức các hoạt động cho

trẻ, nhất là hoạt động vui chơi cần kích thích lòng ham hiểu biết, óc tìm tòi, khám
phá của trẻ bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề để kích thích trẻ suy nghĩ
và tìm ra cách giải quyết. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta luôn luôn giới thiệu
25

×