Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế nóng những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.38 KB, 29 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình kinh tế đất nước hiện nay, chúng ta không thể phủ nhận
vai trò của tăng trưởng kinh tế. Hay nói một cách khác, đó chính là nhân tố để
nước ta tránh tụt hậu xa hơn với các nước khác trên thế giới. Một đất nước ở
bất cứ thời điểm nào cũng lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế đặt lên háng đầu.
Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới nhất khi nước đó chỉ mới đang phát
triển.
Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa người ta phải luôn đặt ra câu hỏi:
Tăng trưởng kinh tế trong hoàn cảnh nào là hợp lý ? Tăng trưởng kinh tế ra
sao cho hiệu quả ? Mục đích tăng trưởng kinh tế ở đây không chỉ đơn thuần là
khẳng định sức mạnh kinh tế của một quốc gia mà phải nâng cao đời sống của
nhân dân. Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế nếu không có sự kiểm soát kịp sẽ
gây nên tình trạng “quá nóng”. Điều này dẫn đến hậu quả đến nhiều mặt của
đời sống. Đây là vấn đề cấp thiết, nó đòi hỏi mỗi quốc gia phải làm sao kết
hợp hài hoà giữa vấn đề tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống một cách
hợp lý. “Tăng trưởng kinh tế nóng” là một đề tài nổi cộm trong giai đoạn phát
triển đất nước hiện nay. Vì thế tôi chọn nghiên cứu đề án “ Tăng trưởng kinh
tế nóng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ”. Thiết nghĩ đây là một đề tài rất
mới và nhận được sự quan tâm của dư luận khá nhiều. Mục đích chính của tôi
là thông qua đề án này, tôi muốn góp thêm một tiếng nói nhằm đề xuất giải
pháp giải quyết tình trạng kinh tế của nước ta hiện nay.
LỜI CẢM ƠN
Thông qua đề án, tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn cô Vũ
Thị Việt Anh -giảng viên khoa Triết-Mác Lê Nin. Cùng các bạn bè đã giúp tôi
hoàn thành tốt đề án này. Qua việc thực hiện đề án chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của giáo
viên bộ môn cùng các bạn.
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: Một số cơ sở lý luận chung nhất về
“tăng trưởng kinh tế nóng” 1


1.1. Khái niệm về “tăng trưởng kinh tế nóng” 1
1.2. Những nguyên nhân của “tăng trưởng kinh tế nóng” 2
1.3. Những biểu hiện của “tăng trưởng kinh tế nóng” 2
1.4. Những hậu quả của “tăng trưởng kinh tế nóng” 4
1.5. Sự liên quan giữa hai vấn đề: Lạm phát và
“tăng trưởng kinh tế nóng” 6
Chương 2: Một số vấn đề thực tiễn của
“tăng trưởng kinh tế nóng” hiện nay 7
2.1. Tăng trưởng kinh tế nhìn dưới góc độ của Việt Nam
hiện nay 7
2.1.1. Những vấn đề trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 7
2.1.2. Kinh tế Việt Nam bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng nóng 12
2.1.3. Nguyên nhân của những biểu hiện
“tăng trưởng kinh tế nóng” 14
2.1.4. Hậu quả và biện pháp khắc phục những dấu hiệu
“tăng trưởng kinh tế nóng” của Việt Nam hiện nay 15
2.2. Các nước trên thế giới đã và đang làm gì để kiềm chế
tốc độ “tăng trưởng kinh tế nóng” 18
Chương 1: Một số cơ sở lý luận chung về “tăng trưởng kinh tế
nóng”
1.1. Khái niệm về “tăng trưởng kinh tế nóng”
Tăng trưởng kinh tế nóng được hiểu theo nghĩa chung nhất là tốc độ tăng
trưởng kinh tế vượt qua tốc độ cho phép trong điều kiện sản xuất của nước đó.
Tăng trưởng kinh tế mang tính chất nhanh. Đây là cũng là mục tiêu và
ước vọng của mỗi quốc gia. Để thoát khỏi đói nghèo và đi liền với nó là sự
ngu dốt không còn con đường nào khác là phải tăng trưởng kinh tế. Nhưng
việc tăng trưởng kinh tế tăng trưởng đó lại dẫn đến tình trạng “quá nóng” của
một nền kinh tế. Và tất nhiên điều này sẽ dẫn đến hậu quả khó lường cho nền
kinh tế cả một quốc gia.
1.2. Những nguyên nhân của “tăng trưởng kinh tế nóng”

Tăng trưởng thường được thông qua chỉ số GDP và GNP nói theo cách
đơn giản là tổng giá trị hàng hoá giao dịch. Nếu tổng giá trị hàng hoá giao
dịch mà quá lớn so với thực tế tức là cùng một lượng háng hoá được bán đi
bán lại qua nhiều người sẽ làm sai lệch so với giá trị thực. Như vậy, nếu để
lâu dài nền kinh tế sẽ khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
Tăng trưởng quá cao tức là dồn sức đầu tư quá lớn để phát triển kinh tế
mà trong bất kì nền kinh tế nào thì phải luôn có sự trợ cấp cho thành phần
nông thôn và nông nghiệp. Như vậy, khả năng tái sản xuất đã được đề ra và
dẫn tới các nghành nông nghiệp sẽ không được đầu tư một cách hợp lý.
Xét sự quản lý trên tầm vĩ mô, nhà nước đã qua mải miết theo đuổi mục
tiêu tăng trưởng kinh tế. Công tác điều hành chính sách tiền tệ chưa chặt chẽ,
chưa phù hợp với sự biến động phức tạp của thế giới.
Nói cách khác, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì phải kêu gọi
đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên phải cảnh báo rằng, hậu
quả sẽ rất khó lường cho mỗi quốc gia.
Hơn nữa, một đất nước cứ duy trì tốc độ cải cách kinh tế nhưng không ổn
định kinh tế vĩ mô. Điều này sẽ làm cho nền kinh tế dễ bị tổn thương, chậm
thích ứng trước những biến động chung của nền kinh tế thế giới.
Việc tăng trưởng kinh tế nóng ngoài việc là kết quả của việc chi tiêu
ngân sách chính phủ quá cao mà còn tính đến tín dụng ngân hàng tăng ở mức
cao xuất phát từ việc dự trữ ngoại hối hay nguồn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra,
một nước mà qua trình chu chuyển dòng vốn không rõ ràng. Vấn đề thị
trường cầm cố liên quan đến cho vay mua bất động sản gặp phải có thể lây lan
sang tài sản khác. Kết hợp với tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ không độc
lập. Tình trạng bong bóng bất động sản, thực hiện cơ chế thị trường nhưng lại
không thắt chặt cho vay bất động sản hay có chăng việc thắt chặt chỉ mang
yếu tố nhu cầu và có tính chất tạm thời. Đồng nội tệ vẫn chưa tách rời sự ảnh
hưởng với đồng ngoại tệ rõ hơn là tỷ giá vẫn còn bị phụ thuộc.
Tóm lại, việc tăng trưởng kinh tế nóng gói gọn lại trong công thức chung
nhất đứng dưới góc độ kinh tế đó là: quá trình chu chuyển dòng vốn trong lưu

thông, tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ độc lập.
1.3. Những biểu hiện của “tăng trưởng kinh tế nóng”
“Một nền kinh tế tăng trưởng nóng sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng suy
thoái sau cơn phát nhiệt, đặc biệt là khi cú sốc ngoại lai nếu không có biện
pháp ngăn chặn kịp thời để làm nguội dần nền kinh tế trước khi đưa nó về
trạng thái cân bằng phát triển và ổn định” ( Dẫn lời các chuyên gia kinh tế )
Có bốn dấu hiệu chính để nhận biết một nền kinh tế tăng trưởng nóng đó
là:
+ Lạm phát
+ Giá chứng khoán tăng nhanh
+ Đầu tư trong nước tăng
+ Việc nhập khẩu hàng tiêu dùng gia tăng mạnh
Thứ nhất, nguyên nhân của lạm phát không chỉ là giá cả các mặt hàng
xuất khẩu chiến lược (chẳng hạn như dầu mỏ) tăng, mà ngoài ra còn là thâm
hụt ngân sách chính phủ. Đây còn là sự phản ánh về mặt bằng giá trong nước.
Nhưng cũng là do quốc gia đó không kiểm soát được nguồn tín dụng ngân
hàng hơn nữa lại để cho tốc độ tăng quá lớn gây ra mối quan ngại về chất
lượng các hạng mục đầu tư của ngân hàng.
Thứ hai, về giá chứng khoán, nguồn vốn tư nhân (bao gồm vốn đầu tư
nước ngoài gián tiếp) đổ vào ồ ạt thường sẽ làm tăng mạnh các loại chứng
khoán, trong khi việc thu nhập của các doanh nghiệp thấp hơn nhiều so với
giá trị thực của các loại cổ phiếu. Dẫn đến tình trạng cổ phiếu biến động theo
tính chất hữu danh vô thực. Thông thường giá trị cổ phiếu thể hiện ở mức độ
kinh doanh, khả năng thích ứng thị trường và là biểu hiện sức mạnh của
doanh nghiệp nhưng ở đây thì không. Điều này làm cho thị trường chứng
khoán chao đảo gây mất cân bằng thị trường. Điều tệ hại hơn nữa là thị
trường chứng khoán bùng nổ theo kiểu bong bóng và đang đối mặt với rủi ro
bong bóng xì hơi hay nói cách khác thị trường đang phình ra nhưng bên trong
hoàn toàn rỗng. Do việc phụ thuộc vào các nguồn vốn đầu tư ngoài nước nên
việc đối mặt với hậu quả là nguồn vốn có thể bị rút đi bất cứ lúc nào.

Thứ ba, đầu tư trong nước tăng nhưng việc đầu tư lệ thuộc phần lớn vào
nước ngoài. Tài khoản vãng lai hay cán cân vãng lai không ổn định và liên tục
bị thâm hụt. Tăng truởng xuất khẩu không bù đắp được sự tăng mạnh mẽ của
nhập khẩu.
Thứ tư, nhập khẩu hàng tiêu dùng nói đúng hơn là lệ thuộc vào nhập
khẩu gây ra sự mất cân bằng trong cán cân xuất nhập khẩu. Điều này sẽ gây ra
sự mất cân bằng trong giá cả hàng tiêu dùng. Và việc tăng giá cả hàng tiêu
dùng trong nước là một điều đương nhiên. Không ai khác chính là người dân
phải gánh chịu trực tiếp hậu quả này.
Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế là phải đảm bảo cuộc sống cho nhân
dân. Sự mâu thuẫn ở đây, tăng trưởng kinh tế với mục tiêu phát triển đất nước
nhưng không đồng nhất với mục tiêu phát triển đời sống xã hội. Nếu xét từ
tầm vóc kinh tế thì tăng truởng kinh tế chỉ là cái đích đạt được mà thôi. Đây là
mục tiêu nhưng “hữu danh vô thực”. Một khi tăng trưởng dẫn đến tình trạng
nóng thì mục tiêu này khó lòng đạt được khi đảm bảo cho cả hai khía cạnh
phát triển.
1.4. Những hậu quả của “tăng trưởng kinh tế nóng”
Tăng trưởng kinh tế nếu đến mức quá nóng sẽ luôn đi kèm với mặt trái
của nó. Bất dù một quốc gia nào cũng muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu nên
họ đã chạy đua theo tăng trưởng. Nhưng quốc gia đó lại không lường trước
được hậu quả mà có thể gây ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Ở đây, chúng ta không thể xem xét đồng thời trong phạm vi của một
quốc gia. Vì mỗi nước có một điều kiện và tình hình thực tế nhất định nên
không thể qui đồng hậu quả của tăng trưởng kinh tế nóng.
Sau đây là những hậu quả mang tính chất chung nhất về tăng trưởng kinh
tế nóng:
Trên cơ sở phân tích thì tăng trưởng kinh tế phải đánh đổi với lạm phát.
Tức là, để tăng trưởng phải phát triển đầu tư. Nhưng nhà nước đó không thể
huy động được nguồn vốn nên phải tăng lượng cung tiền khi đó giá cả các
mặt hàng không thể kiểm soát và người gánh chịu là nhân dân. Qua thực tế

cho thấy, đại bộ phận dân chúng được hưởng thụ quá ít từ tăng trưởng nhưng
chịu đựng gần như toàn bộ hậu quả của nó. Gánh nặng kinh phí để trang trải
các điều kiện phúc lợi xã hội cơ bản không phải và không thể là lí do mà
người lao động bị gạt ra bên lề. Trong khi đó, chính họ là người với vai trò
tạo ra sản phẩm vật chất cho sự phát triển của đất nước.
Điều nay khiến cho nhà nước dùng quá nhiều vốn để đạt được nhiệm vụ
tăng trưởng. Hậu quả và là nguyên nhân sâu xa gây ra lạm phát.
Tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư đặc biệt là đầu tư công rất
nghiêm trọng. Do mải mê theo đuổi chỉ tiêu tăng trưởng, nhà nước xây dựng
cơ sở đầu tư thuận lợi để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nhưng lại
không chú ý đến tình hình kinh tế xã hội của từng địa phương. Điều quan
trọng là tăng đầu tư phải tăng năng suất lao động nếu không có khả năng tạo
giá trị gia tăng thì không cải thiện tương xứng với tốc độ tăng của cung tiền.
Khi ấy, nền kinh tế vấp phải những rào cản về mặt tài chính. Điều này cảnh
báo một nguy cơ tiềm tàng về mất cân bằng trong chi tiêu tài chính và tất yếu
sẽ gây khủng hoảng nếu không được sử lý kịp thời.
Sự mất mát về tài nguyên thiên nhiên do chi phí sản xuất kinh tế xã hội
cao. Bao giờ cũng vậy, một nhà nước muốn cải thiện mức độ tăng trưởng kinh
tế của mình họ luôn phải phát huy những nguồn lực sẵn có của quốc gia.
Nhưng chính vì vậy, nhà nước phải khai thác nhiều hơn nữa nguồn tài nguyên
cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng cũng thể lệ
thuộc hoàn toàn vào tài nguyên sẵn có. Chẳng hạn như Nhật Bản, một đất
nước không được điều kiện tự nhiên ưu đãi và luôn gánh chịu hậu quả của
thiên tai. Nhưng bằng chính trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến mà họ vẫn tự
phát triển kinh tế và tăng trưởng rất nhanh. Thế giới gọi đó là “Sự thần kỳ
Nhật Bản”
Ngoài ra, hậu quả tăng trưởng nóng còn là sự phân hoá giàu nghèo. Có
thể nhìn thấy rất rõ, bộ phận dân cư sống ở các thành phố, đô thị là những
người có “phản ứng” nhanh, nhạy nhất trong việc hưởng thụ thành quả tăng
trưởng. Hãy khoan nói về khoảng cách chất lượng sống giữa nông thôn và

thành thị mà nhiều năm nay ta vẫn hô hào “cần phải nhanh chóng rút ngắn”,
ngay ở các đô thị, chất lượng sống của một bộ phận người giàu và người
nghèo cũng ngày càng khác xa nhau. Tăng trưởng khiến một bộ phận giàu lên
nhưng lại làm cho một bộ phận nghèo đi vì không đáp ứng được yêu cầu tăng
trưởng đòi hỏi. Điều này dẫn đến dân chúng chỉ “nghèo tương đối” tức so với
thu nhập cá nhân thì lớn nhưng thấp hơn so với thu nhập trung bình của toàn
xã hội.
Tăng trưởng kinh tế nóng là do khả năng thu hút nguồn vốn FDI từ nước
ngoài đầu tư vào nội địa. Điều này đồng nghĩa với những khoản nợ lạm phát
cao làm cho tỷ giá nội tệ trong nước thấp. Một khi vấn đề này xảy ra thì tỷ giá
hối đoái mất cân bằng, đồng tiền bị mất giá, số tiền phải trả lớn hơn rất nhiều
so với vốn thực tế đã vay.
Tăng trưởng kinh tế luôn được hỗ trợ hay nói cách khác luôn được hậu
thuẫn bởi sự phát triển tuần hoàn của tiêu dùng và đầu tư. Và chính mức tiêu
dùng cá nhân và đầu tư chủ yếu đóng góp vào mức tăng trưởng GDP. Hai yếu
tố này có chiều hướng tiếp tục phát triển khi có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và chính sách tiền tệ. Nhưng sự phát triển quá nóng làm thả nổi thị
trường đầu tư, ách tắc trong tiền tệ và vấn đề lưu thông hàng hoá.
1.5. Sự liên quan giữa hai vấn đề: Lạm phát và “tăng trưởng kinh tế
nóng”
Thực ra khi phân tích vấn đề này ta đã khẳng định dấu hiệu của một nền
kinh tế đang tăng trưởng nóng là lạm phát. Nhưng như vậy, chúng ta không
thể cho rằng cứ lạm phát là nền kinh tế đang trong tình trạng nóng. Chẳng hạn
như cách đây khoảng một thập kỷ, cả thế giới đánh dấu một dự kiện là khủng
hoảng tiền tệ Châu Á. Khi đó, Việt Nam chỉ là một nước ở trình độ phát triển
thấp. Có ý kiến cho rằng sự phát triển kinh tế ì ạch thì Việt Nam khó lòng
phát triển kinh tế đất nước. Cũng vào thời điểm đó sự mất cân bằng trong
đồng nội tệ đã gây ra việc lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhưng
đấy không phải là tăng trưởng nóng.
Trong bất cứ quốc gia nào cũng vậy, họ luôn vươn tới mục tiêu tăng

trưởng kinh tế ổn định và bền vững, giá cả cân đối, đời sống cải thiện. Nhưng
tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với nguy cơ rủi ro cao là lạm phát. Vấn đề
này ở đây không chỉ đơn thuần là sự gia tăng đồng loạt giá cả trên thị trường.
Nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng làm mất cân bằng thị
trường chứng khoán khiến cho chỉ số chứng khoán không phản ánh đúng sự
thực. Nhất là trong điều kiện quốc gia cần tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nhưng để đạt được mục tiêu việc đánh đổi với lạm phát là điều đương nhiên.
Tuy nhiên, theo quan điểm nhìn từ tầm vĩ mô nền kinh tế thì mục tiêu tăng đà
phát triển nhất thiết phải kìm hãm bằng được lạm phát ở mức thấp nhất.
Chương 2: Một số vấn đề thực tiễn trong “tăng trưởng kinh tế
nóng”
2.1. Tăng trưởng kinh tế nhìn dưới góc độ Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những vấn đề trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Mức độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào yếu tố
đầu vào và đầu ra. Mục tiêu tối thượng đối với một quốc gia, nhất là một nước
nghèo như Việt Nam, đó là tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu sự đóng góp các
yếu tố kinh tế có ý nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng
yếu tố để có kế hoạch khai thác mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm
ẩn khả năng gia tăng lạm phát.
+ Tăng trưởng do yếu tố đầu vào
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp
của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự
đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán
ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số
lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%.Từ sự đóng
góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý. Một là, tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn
đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua
mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%,
ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn lên đến 42%. Đây

là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung
Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế
giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số
năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm
độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính
theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.Hai
là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào
yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt,
do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu
người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc
làm ở nông thôn còn cao.Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng
vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã
đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều
đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh
tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng
góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng cho
thấy, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng,
chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo
chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
+ Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao
TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao
động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây,
trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi
đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các
chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng
GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn
nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn

Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-
1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan
(trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong
thời kỳ 1981-1995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn
thấp.
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư
hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có
nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam
đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì
năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-
2007 còn 2,46 đồng /đồng. Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năm
2007 mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản
còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công
nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm
nghành dịch vụ chỉ đạt 38.159 nghìn đồng /người.Nếu quy ra USD theo tỷ giá
hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6
nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn
USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của
nhóm nghành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD. Các con số trên còn thấp xa so
với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn
thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn
USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất
nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư
thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn;
năng suất lao động thấp, nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn
luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát
trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại
mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất
lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.

+ Các yếu tố đầu ra
Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng
góp của tiêu dùng cuối cùng, của tích luỹ tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất
khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Có một số nhận xét
được rút ra từ đóng góp của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng.
Điều đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng
tiêu dùng cuối cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%);
mức tiêu dùng bình quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và
tốc độ tăng thường khá cao (mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc
độ tăng của GDP. Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua
bán trên thị trường ngày một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm
(đã loại trừ yếu tố giá) mấy năm nay liên tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng
11,2%, năm 2003 tăng 15,2%, năm 2004 tăng 10,8%, năm 2005 tăng 11,3%,
năm 2006 tăng 12,5%, năm 2007 tăng 11,4%. Khi tiêu dùng cuối cùng thông
qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở thành động lực của tăng trưởng
kinh tế thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mặt khác tạo áp lực
tăng cung tiền tệ, tạo áp lực lạm phát. Cùng với tăng trưởng tiêu dùng chung
thì tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã tăng rất cao về quy mô, đa dạng về
chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Cùng với xu hướng này cũng đã xuất hiện
tâm lý ưa chuộng hàng hiệu, hàng ngoại, thậm chí mua bán với bất kỳ giá nào.
thậm chí mua bán với. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích luỹ tài
sản chiếm tỷ trọng khá cao. Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết
kiệm để dành cho tích luỹ của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam
nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần
không nhỏ đã được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các
kênh gây ra những cơn sốt nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được
đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh. Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu
tư đang được chôn vào bất động sản, vào vàng. Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu
ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia tăng mạnh cả về quy mô, cả về

tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hoá, cả về dịch vụ. Riêng về
hàng hoá, năm 2007 lớn gấp 2,5 lần năm 2006, năm nay mới qua 3 tháng mà
đã gấp 3,8 lần cùng kỳ, khả năng cả năm có thể gấp rưỡi hoặc cao hơn so với
năm trước. Trước những biến động như vậy các nhà kinh doanh khẳng định
rằng việc tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế không phải là hiệu quả nhưng
phải chăng chúng ta quá chú tâm đến con số tăng trưởng mà không chú ý đến
thực trạng nền kinh tế đang diễn ra.
2.1.2. Kinh tế Việt Nam bộc lộ dấu hiệu “tăng trưởng nóng”
Báo cáo chỉ rõ, kinh tế của Việt Nam đạt mức tăng trưởng 8,5% vào năm
2007, tăng trưởng 3 năm liên tiếp trên mốc 8%/năm. Môi trường kinh doanh
tiếp tục được cải thiện với tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt trên 40% GDP.
Mức tăng trưởng này tăng liên tục nhờ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với
59.000 doanh nghiệp mới được đăng ký trong năm qua, tăng 26% so với năm
2006. Cam kết đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cũng tăng gấp đôi, lên
20,3 tỷ USD, tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt tới 43% GDP tính đến
cuối năm 2007, so với mức 1,5% của năm 2005. Tính đến cuối năm 2007, các
mặt hàng xuất khẩu không tính dầu thô tăng 27% và tổng giá trị xuất khẩu
chiếm hơn 68% GDP. Dự trữ ngoại tệ tăng hơn 10 tỷ USD, đạt 21,6 tỷ USD.
Hàng loạt điều tra về môi trường kinh doanh đều cho thấy xu thế mở rộng cả
về phạm vi và quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2008.
Tuy nhiên, báo cáo của WB (Ngân hàng thế giới) cũng khẳng định, nền
kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Theo ông
Martin Rama, chuyên gia kinh tế của WB, những “triệu chứng” của một nền
kinh tế nóng đó là tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mốc 6,6% (tháng 12/2006) tới
15,7% tính đến tháng 2/2008. Năm 2007 cũng là năm ghi nhận cán cân vãng
lai đã thâm hụt ở mức đáng ngại (ước tính khoảng 9,3-9,7% GDP). Tổng kim
ngạch nhập khẩu tăng gần 40%. Bên cạnh đó, giá tài sản cũng tăng cao thể
hiện ở giá cổ phiếu hồi đầu năm 2007 và giá bất động sản vào cuối năm. “Cơn
sốt” của thị trường bất động sản có nguy cơ tạo ra tình hình bong bóng rất
nguy hiểm. Bong bóng trên thị trường bất động sản xuất hiện tiếp sau bong

bóng của thị trường chứng khoán vào đầu năm 2007. Tín dụng tăng hơn 50%
trong năm 2007 đã góp phần đẩy giá cả tăng cao, tăng nhập khẩu và tạo bong
bóng.
Tốc độ tăng tín dụng quá lớn này cũng gây ra những mối lo ngại về chất
lượng các hạng mục đầu tư của Ngân hàng. Đặc biệt, tín dụng của các Ngân
hàng Cổ phần tăng quá cao, tới 95%. Trong thời gian cuối năm 2007, đầu
năm 2008 Ngân hàng Nhà nước lại có những biện pháp không linh hoạt, dẫn
đến tình trạng thiếu khả năng thanh toán của hệ thống các Ngân hàng thương
mại.
Về giá chứng khoán, nguồn vốn tư nhân (bao gồm vốn đầu tư nước ngoài
gián tiếp) đổ vào ồ ạt thường sẽ làm tăng mạnh giá các loại chứng khoán,
trong khi tổng doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cổ phần
chỉ tăng ở mức thấp hơn nhiều. Thực tế là chỉ số trên thị trường chứng khoán
Việt Nam đã tăng nhiều lần kể từ khi thành lập, hiện đã xấp xỉ ngưỡng 1.000
điểm. Đây là một sự tăng trưởng rất nóng, trong khi doanh thu của đa phần
các doanh nghiệp niêm yết chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Điều này có
nghĩa là thị trường chứng khoán đang bùng nổ theo kiểu bong bóng và đang
đối mặt với rủi ro bong bóng xì hơi, mà hậu quả có thể là việc các nhà đầu tư
nước ngoài rút vốn ra khỏi Việt Nam.
Tài khoản vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt liên tục suốt từ năm 2002,
có lúc lên tới 4,9% GDP, trong khi ở các nước đang phát triển nói chung khác
là thặng dư liên tục từ năm 2000. Chênh lệch về thặng dư trên tài khoản vãng
lai của các nước đang phát triển giữa 2 thời kỳ 1999-2001 và 2002-2004 là
1,3%, so với mức của Việt Nam là âm 6,2% (tức cán cân thương mại đã bị
xấu đi nhanh chóng), ước tính vào khoảng 9,3-9,7% GDP, rất khó có thể xác
định được các dòng vốn là ngắn hạn hay dài hạn do không có số liệu chính
thức.Nói cách khác, tăng trưởng xuất khẩu không đủ bù đắp được sự tăng
mạnh mẽ của nhập khẩu ở Việt Nam trong mấy năm qua. Điều này là do tiền
VND đã bị lên giá ở mức nhẹ trong thời kỳ 2002-2006, trong khi đồng bản tệ
của đa phần các nước đang phát triển bị phá giá, ở các cấp độ khác nhau.

Vấn đề thâm hụt thương mại cũng g ây nhiều khó khăn. Không giống
như nhiều nền kinh tế châu Á hướng ra xuất khẩu khác, Việt Nam từ lâu đã ở
trong tình trạng thâm hụt thương mại.Trong 11 tháng đầu năm nay, thâm hụt
thương mại của Việt Nam là 10,5 tỷ USD, so với mức 5,1 tỷ USD trong cả
năm 2006. Mức thâm hụt này cũng vượt quá mức dự tính 10 tỷ USD cho cả
năm nay của Bộ Công Thương. Mặc dù phần lớn lượng thâm hụt tăng thêm là
kết quả của việc nhập khẩu các loại hàng hóa trung gian và thiết bị sản xuất,
các nhà chuyên môn vẫn cho rằng, nhiều mặt hàng nhập khẩu là bán thành
phẩm, không đem lại giá trị gia tăng cao. Vào thời điểm hiện tại, Việt Nam có
đủ nguồn ngoại tệ đổ vào như FDI, kiều hối và ODA để bù đắp cho thâm hụt
thương mại. Tuy nhiên, mức thâm hụt liên tục ở mức cao sẽ cản trở sự phát
triển kinh tế trong dài hạn. Bộ Công Thương tính toán rằng, đến năm 2010,
thâm hụt thương mại của Việt Nam sẽ không còn. Nhưng dự báo này xem ra
quá lạc quan nếu xét đến mức thâm hụt lớn ở thời điểm hiện tại.
Phải chăng, tốc độ tăng mạnh của các yếu tố trên cho thấy rõ nền kinh tế
Việt Nam có dấu hiệu bắt đầu tăng trưởng nóng, mà một trong những nguyên
nhân quan trọng là sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn (từ) nước ngoài (gồm vốn
ODA, FDI, đầu tư gián tiếp, và kiều hối – đều có xu hướng gia tăng mạnh gần
đây). Những dấu hiệu không bình thường trên nên được sớm khắc phục, nếu
không nền kinh tế có thể gặp trở ngại, khi mà niềm tin của các nhà đầu tư
nước ngoài vào “sức khỏe” của nền kinh tế suy giảm hoặc có thêm các cú sốc
ngoại lai lớn khác. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, các
nước đang phát triển đã áp dụng một loạt các biện pháp giảm thiểu tác động
tiêu cực đi kèm với dòng vốn nước ngoài trong khi vẫn khai thác tác động tích
cực của nó đến tăng trưởng như: (1) tăng dự trữ ngoại hối; (2) thực thi cơ chế
điều hành tỷ giá linh hoạt hơn; (3) giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài và vốn
ngắn hạn; và (4) tự do hóa các giao dịch tài sản tài chính giữa cá nhân và tổ
chức trong nước với nước ngoài. Có thể nói hiện tại Việt Nam mới chỉ thực
hiện tốt biện pháp thứ ba. Tỷ trọng nợ nước ngoài trên GDP trung bình trong
các nước phát triển là 34% năm 2004. Tỷ trọng này của Việt Nam cũng là

34%, và có xu hướng giảm dần trong các năm tới. Tính theo tỷ trọng của giá
trị xuất khẩu, mức nợ của ta khoảng 78%. Mức nợ của ta như vậy là khá thấp
so với mức trung bình của nhóm các nước có thu nhập thấp (con số tương ứng
vào khoảng 46% và 100%). Mặt khác, cũng giống xu thế chung, tỷ trọng nợ
ngắn hạn trong tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đang có xu hướng giảm đi,
ở mức 8% trong năm 2004, so với mức trung bình của các nước đang phát
triển trên thế giới là 16.4%.
Tuy nhiên, đây không phải là kết quả của việc chi tiêu ngân sách quá cao
của Chính phủ. Theo tiêu chuẩn quốc tế, mức thâm hụt ngân sách của Việt
Nam trong năm 2007 ước tính vào khoảng 1% GDP. Mức đánh giá sơ bộ này
không khác nhiều so với các năm trước. Thâm hụt ngân sách chung (bao gồm
cả hạng mục chi tiêu ngoài ngân sách như phát hành trái phiếu của chính phủ
cho phát triển giáo dục, hạ tầng cơ sở và tái cấp vốn các ngân hàng thương
mại quốc doanh) ước tính ở mức 5% GDP. Nhưng chúng ta không thể xem
nhẹ khi việc làm này chịu nhiều sức ép điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
2.1.3. Nguyên nhân của những biểu hiện “tăng trưởng kinh tế nóng”
Nền kinh tế Việt Nam đang phải lần lượt gánh chịu với hàng loạt cơn bão
sau hơn một năm gia nhập nền kinh tế chung thế giới: Lạm phát không ngừng
gia tăng, thị trường chứng khoán rơi vào “chảo lửa”, tiền tệ sụt giảm, bất động
sản “đóng băng”.
Vấn đề mà Việt Nam gặp phải, đó là việc một mặt chúng ta muốn duy trì
tăng trưởng, song lại muốn kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất có thể chấp
nhận được (tức là dưới mức tăng trưởng). Tuy nhiên, một thực tế mà nhiều
quốc gia đã trải qua là tăng trưởng cao luôn phải đi song hành cùng lạm phát
gia tăng. Ở Việt Nam không phải là một ngoại lệ, chúng ta phải hi sinh một
trong hai mục tiêu.
Điều đáng nói là chúng ta đã mải mê theo đuổi tăng trưởng bằng cách
như kêu gọi đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên cần phải
cảnh báo rằng, hậu quả từ việc “nôn nóng” hai chỉ tiêu kêu gọi đầu tư nước
ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu là rất khó lường. Vì chúng chưa thực sự là lợi

thế của Việt Nam, chúng ta vẫn chưa đề cập đến ngon nguồn tiềm năng của
phát triển.
Chúng ta chưa tổ chức được một thị trường nội địa tốt. Với trên 85 triệu
dân thì không phải là thị trường nhỏ. Nếu một khi thị trường phụ thuộc vào
nước ngoài của ta bị đổ vỡ thì liệu rằng thị trường nội địa sẽ hấp thụ được bao
nhiêu phần trăm trong số 60% sản phẩm xuất khẩu. Đó là một câu hỏi và là
thách thức với nền kinh tế Việt Nam.
Nói tóm lại, chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong
nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ; vai trò của Nhà nước trong quản
lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế, chưa có biện pháp điều
chỉnh hợp lý; hoạt động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động
sản còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Nhưng cũng cần phải khẳng định, chúng
ta mới chỉ bộc lộ những dấu hiệu chứ đây không phải hoàn toàn là tăng
trưởng nóng nhưng cũng thực sự phải cảnh giác trước vấn đề này.
2.1.4. Hậu quả và biện pháp khắc phục những dấu hiệu “tăng trưởng kinh tế
nóng” ở Việt Nam hiện nay
+ Hậu quả
Điều đầu tiên có thể thấy được, nếu tăng trưởng kinh tế phải đánh đổi với
lạm phát. Mà cụ thể là, tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên
tới 15,7% tính đến tháng 2-2008. Cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đáng lo
ngại, tài sản tăng cao về giá trị, đặc biệt là cổ phiếu đầu năm 2007, giá bất
động sản cuối năm 2007. Lạm phát liên tục duy trì ở mức cao kéo theo giá
tiêu dùng tăng không kém khiến đời sống người dân không được cải thiện
nhiều. Thậm chí, cuộc sống của họ còn khó khăn hơn khi nước ta chưa tăng
trưởng kinh tế. Do khả năng dự trữ nguồn nội tệ thấp của các ngân hàng nhà
nước. Mặt khác, nguồn ngoại hối đổ vào trong khi tâm lý không an tâm trong
người dân và họ đã đổ đi mua vàng để tích trữ. Ngân hàng đói nguồn VND.
Thị trường chứng khoán sụt giảm, giá cổ phiếu trên thị trường OTC
xuống qua thấp, hàng loạt các nhà đầu tư thua lỗ bởi vậy tiền của ngân hàng
cũng theo đó mà sụt giảm.

Trong bối cảnh hiện nay, đây là môi trường rất tốt cho tình trạng đầu cơ.
Một cách thức quyết liệt để ngăn ngừa tình trạng đầu cơ là đưa ra các quy
định mới về tài sản. “Người ta có thể làm giàu rất nhanh khi đầu tư vào bất
động sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua, vậy thì việc đánh thuế lợi
nhuận thu được từ đất đai là hoàn toàn hợp lý, có thể giúp tạo nguồn tài chính
cho phát triển hạ tầng mà không tạo ra những biến động lớn trong nền kinh
tế” - Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận
định. Mặc dù vậy, kinh tế Việt Nam hiện vẫn đang mở ra rất nhiều những cơ
hội. Môi trường kinh doanh đang tiếp tục được cải thiện với tổng vốn đầu tư
toàn xã hội ước tính đạt trên 40%. Cam kết đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
(FDI) tăng gấp đôi, đạt 20,3 tỷ USD. Hàng loạt những điều tra về môi trường
kinh doanh gần đây đều cho thấy xu thế mở rộng cả về phạm vi và quy mô
kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2008. Theo đó làm cho xã hội
phân hoá phân hoá giàu nghèo một cách rõ rệt và biểu hiện rõ nhất ở lĩnh vực
bất động sản. Nếu như tăng trưởng tác động trực tiếp đến bộ phận người Việt
Nam thì tăng giá- lạm phát lại sẵn sàng loại bỏ bộ phận dân nghèo có thu
nhập thấp.
Cán cân xuất nhập khẩu bị chênh lệch ở mức rõ rệt. Nhập khẩu không đủ
do nước ta còn thiếu hàng tiêu dùng rất nhiều. Trong khi đó, xuất khẩu không
đủ để bù đắp. Điều này làm cho thị trường chao đảo khó kiểm soát. Hơn thế
nữa, đây là một dấu hiệu xấu cảnh báo nền kinh tế có khả năng bị khủng
hoảng và điều tất yếu sẽ xảy ra là sự suy thoái nền kinh tế.
Rõ ràng, việc chính phủ tác động quá mức không theo một trình tự xác
định hơn thế lại chạy đua theo tăng trưởng gây khó khăn trong việc tập trung
nguồn vốn cộng thêm tình trạng nhũng nhiễu trong đầu tư công.
+ Biện pháp khắc phục
Rõ ràng việc một nền kinh tế muốn tăng trưởng kinh tế để thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu thì việc gánh chịu những biến đổi không đáng có là điều
đương nhiên. Vấn đề ở đây là nhà nước phải có chính sách hợp lý để bình ổn
thị trường.

Đề cập đến vấn đề này, chính phủ ta đưa ra những giải pháp như sau:
Thứ nhất, kiềm chế tăng giá thị trường dưới mức tăng trưởng kinh tế.
Bằng cách thực hiện tốt các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và chủ
động điều hành để đảm bảo cân đối kinh tế mà trước hết là cân đối về hàng
hoá, tiền tệ cán cân thanh toán, thu chi ngân sách. Thực hiện các giải pháp
đồng bộ mở rộng thị trường đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thương
mại góp phần hạn chế nhập siêu. Tổ chức tốt và bảo đảm thị trường hàng hoá
lưu thông thông suốt và tháo gỡ những khó khăn về tình trạng giải ngân
chậm, ách tắc trong giải phóng mặt bằng, đẩy mạnh cải cách hành chính trong
thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu và đảm bảo cung cầu. Cần có biện pháp
tính toán không để xảy ra tình trạng khan hiếm các mặt hàng chiến lược thiết
yếu: lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu… Riêng điều chỉnh
giá với giá một số mặt hàng, nhà nước giảm giá bán xăng và giữ nguyên giá
than. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu hiện nay là kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý,
đặc biệt quan tâm tới an sinh xã hội, hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, người làm
công ăn lương chịu ảnh hưởng nhiều của lạm phát, để những năm tới tiếp tục
phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, cải thiện đời sống nhân
dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội X đề ra cho cả nhiệm kỳ. Chính phủ
nghiên cứu trình Quốc hội cho điều chỉnh tốc độ tăng giá cả năm 2008, tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm 2008 ở mức độ phù hợp. Trong tình hình hiện nay,
đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu rất cao của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ mạnh
mẽ của toàn dân, sự điều hành tập trung, thống nhất, quyết liệt, bằng những
giải pháp đồng bộ, có hiệu quả của Chính phủ.
Thứ hai, theo các chuyên gia kinh tế nhận định, “Việt Nam phải phá
được tam pháp bất khả thi”. Ở đây có nghĩa là: sự chu chuyển dòng vốn, tỷ
giá cố định và chính sách nội tệ. Để giải quyết được điều này, nhà nước tiếp
tục từng bước tăng lãi suất, thực hiện tỷ giá kinh hoạt, chưa đưa giải pháp
mạnh dẫn đến thay vì đưa lại điểm cân bằng đã vượt lên, thay vì giá quá cao
sẽ chuyển về giá quá thấp. Cần phải giảm rủi ro đầu tư ngoại hối bằng cách đa

dạng hóa danh mục đầu tư cho nguồn dự trữ này và san xẻ nó cho khu vực tư
nhân. Nói cách khác, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư ra nước
ngoài - một xu hướng tuy đã hình thành nhưng vẫn còn chưa rõ nét, với khối
lượng đầu tư còn rất khiêm tốn, từ 300 đến 400 triệu USD trong năm qua -
thay vì chỉ chú trọng đến kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực hiện
chính sách tiền tệ chặt chẽ, chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ. Ngân hàng
Nhà nước nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh
toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất
động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ
chức kinh doanh tiền tệ khác. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm
tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ
chức tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác giám sát các tổ
chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường, thông lệ
quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị
trường tín dụng, tiền tệ. Quản lý chặt chẽ việc thành lập mới, việc phát hành
cổ phiếu, tăng vốn điều lệ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền tệ,
chứng khoán, bất động sản, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà
nước, các ngân hàng thương mại theo hướng đề ra những yêu cầu, tiêu chí
theo thông lệ của nền kinh tế thị trường để các chủ thể kinh doanh tiền tệ phải
thật sự lành mạnh, bảo đảm lợi ích của mình và của cả nền kinh tế. Kiểm soát
vốn đầu tư nước ngoài và tỉ giá. Điều hành tỉ giá giữa VND với USD và các
loại ngoại tệ nói chung với biên độ hợp lý. Sớm áp dụng các biện pháp quản
lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) như nhiều nước đã áp dụng thành công.
Tiếp tục có giải pháp tích cực, có hiệu quả, chống đô la hóa nền kinh tế.Việc
này cần chuyển tiếp quá độ, thực hiện các bước diễn tiến bình thường, giảm
sức ép với tất cả các mặt của nền kinh tế. Cụ thể, chấm dứt bong bóng bất
động sản, thực hiện cơ chế thị trường, tín dụng thắt chặt cho vay để mua bất
động sản, chi tiêu công thắt chặt. Về tiền tệ nhà nước ta phải tách rời ảnh
hưởng của đồng đô la, cần có biện pháp và chính sách mềm dẻo, uyển chuyển
trong việc giữ tỷ giá VND/USD cho phù hợp với giá dầu mỏ và những biến

động lớn về lạm phát trong nước và quốc tế, bởi nếu kìm nén tỷ giá càng lâu
thì áp lực lạm phát càng lớn. Đây là điều nước ta đang hướng tới vì thực tế
cho thấy chính sách của Việt Nam để điều tiết vấn đề này vẫn không mấy khả
quan trong thời gian gần đây.
Thứ ba, quản lý tốt việc dự trữ ngoại hối trong khi đang tăng nhanh.
Nếu quản lý không tốt, điều này sẽ gây ra cái hại lớn vì dự trữ ngoại hối nếu
tập trung vào tay Ngân hàng thì Nhà nước sẽ trút toàn bộ gánh nặng rủi ro về
tiền tệ và lãi xuất bảng cân đối tài sản của mình nên có thể gây ảnh hưởng xấu
đến vấn đề ngân sách. Vì vậy, cần phải giảm rủi ro bằng cách đa dạng hoá
danh mục đầu tư cho nguồn dự trữ này và san sẻ nó cho khu vực tư nhân. Nói
cách khác, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư ra nước ngoài-
một xu hướng tuy đã hình thành ở nước ta nhưng chưa rõ nét, với khối lượng
đầu tư còn rất khiêm tốn, từ 300 đến 400 triệu USD trong năm qua- thay vì
chỉ chú trọng kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thứ tư, cần chủ động hình thành các điều kiện và tiêu chuẩn minh bạch
hoá củng cố quản lý tài chính doanh nghiệp, thắt chặt các quy định về quản lý
rủi ro trong hệ thống tài chính để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài phòng
ngừa rủi ro mang tính hệ thống. Khi đã đạt được những điều kiện này, nên
tiến hành tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn để tiếp tục thu hút vốn
nước ngoài, kể cả ngắn hạn, phục vụ cho các mục tiêu phát triển. Sự cứng
nhắc trong kiểm soát vốn có thể làm tăng sự nghi ngờ của các nhà đầu tư vào
tính lành mạnh của hệ thống tài chính.
Thứ năm, xây dựng mục tiêu xuất khẩu đó là chìa khoá của tăng
trưởng, giảm bớt sự nóng lên của nền kinh tế. Mặc dù chưa có mối liên hệ rõ
nét về tăng trưởng và xuất khẩu, nhưng tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn
hai lần so với tăng trưởng GDP. Vì thế, tăng trưởng khu vực sản xuất hướng
ra xuất khẩu có thể làm giảm tăng trưởng của khu vực sản xuất phi xuất khẩu
(hướng tới thị trường nội địa) bởi các nguồn lực đã bị thu hút mạnh về phía
khu vực xuất khẩu. cần có chính sách và tháo gỡ các khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, duy trì và thúc đẩy được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu :

nghiên cứu việc giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp xuất khẩu; điều hành
chính sách tài chính, tiền tệ chủ động, linh hoạt, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp có hợp đồng sản xuất, xuất khẩu có hiệu quả, đa dạng các hình thức
thanh toán Về lâu dài, cần có chiến lược, kế hoạch, cơ chế, chính sách để cơ
cấu lại việc sản xuất hàng xuất khẩu, giảm nhanh xuất khẩu khoáng sản và
giảm dần xuất khẩu sản phẩm nguyên liệu thô, hàng gia công lắp ráp, tăng
xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá
trị gia tăng cao; mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác mới, các thị
trường mới Đây là mục tiêu trong việc hoạch đinh chính sách và chiến lược
nhưng chưa thể khẳng định hoàn toàn “cứ có xuất khẩu là có tăng trưởng”
Khi đã đạt được những điều kiện trên, nên chăng chúng ta cần phải tiến
hành tự do hoá giao dịch trên tài khoản vốn để tiếp tục thu hút vốn nước
ngoài, kể cả ngắn hạn, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển. Hơn hết là ổn định
tính lành mạnh trong hệ thống tài chính. Điều này sẽ tạo đà cho nền kinh tế
luôn trong tình trạng ổn định về quy mô cũng như chất lượng tăng trưởng.
2.2. Các nước trên thế giới đã và đang làm gì để kiềm chế tốc độ “tăng
trưởng kinh tế nóng”
Thực ra, khi chúng ta đề cập đến vấn đề này trên tầm vóc thế giới thì
hoàn toàn khác. Vì có những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng
chưa gọi là tăng trưởng nóng. Điều này còn tuỳ thuộc vào trình độ và điều
kiện phát triển của mỗi quốc gia.
Theo thống kê của sở tài chính tiền tệ thế giới, Trung Quốc và một số
nước nữa trên thế giới đang có mức tăng trưởng kinh tế ở mức cao và có thể
nói là nóng trên mức bình thường. Vì thế tôi xin lấy Trung Quốc làm ví dụ
điển hình cho nền kinh tế tăng trưởng quá nóng như hiện nay.
Như chúng ta đã biết, Trung Quốc là một nước có dân số đông nhất thế
giới với hơn 1,5 tỷ người. Trong vài năm trở lại đây nền kinh tế phát triển
thần tốc. Cũng vì thế, suốt hơn một thập kỷ qua, mức tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc luôn duy trì ở mức hai con số. Trong năm 2007, Trung Quốc tăng
trưởng kinh tế 11,3% cao kỷ lục suốt trong 13 năm qua và cao hơn 0,2 điểm

phần trăm với mức tăng trưởng 11,1% năm 2006. Đây là năm thứ năm liên
tiếp, tổng sản phẩm quốc nội tăng hơn 10% GDP tính theo quý lần lượt tăng:
quý 1 tăng 11,1% đến quý 4 tăng 14,4%. Giá trị sản lươngu của nghành sản
xuất nguyên liệu là 2890 nhân dân tệ, tăng 3,7% ;của nghành chế biến là
12.140 tỷ nhân dân tệ, tăng 13,4% ;của nghành dịc vụ là 9.630 tỷ nhân dân tệ,
tăng 11,4%. Thực sự thì nền kinh tế Trung Quốc đã có những dấu hiệu tăng
trưởng quá nóng từ hàng chục năm trước. Trong vòng 5 năm từ sau năm
2003, kinh tế Trung Quốc luôn tăng tưởng với tốc độ cao hơn 10%/năm. Do
đó đã xuất hiện những dự báo cho rằng Trung Quốc sẽ thực hiện các biện
pháp nhằm hạ nhiệt nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng. Điều này dẫn đến
một nguy cơ là thay vì nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh thì lại dẫn
đến tình trạng tăng trưởng quá nóng đồng nghĩa với sức ép lạm phát tăng.
Đề cập đến biện pháp khắc phục nhằm nỗ lực hạ nhiệt nền kinh tế.
Không chỉ riêng gì Trung Quốc mà các nước khác cũng đã và đang đề ra
những biện pháp như sau:
Trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc hiện nay, bảo đảm duy trì kinh tế tiếp
tục phát triển ổn định, nhanh và hài hoà là điều hết sức quan trọng, trong đó
ngăn chặn tăng trưởng kinh tế từ quá nhanh sang quá nóng, ngăn chặn giá cả
gia tăng diễn biến thành lạm phát tiền tệ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu .
Hơn nữa, chính phủ cần tăng cường và cải thiện các biện pháp quản lý nền
kinh tế ở tầm vĩ mô nhằm duy trì đà mở rộng và tăng trưởng kinh tế. Chính
phủ cần nỗ lực duy trì đồng nội tệ và chính sách thuế ổn định, đồng thời tiến
hành các bước cần thiết để điều chỉnh nền kinh tế. Đó là việc thông qua biện
pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế bằng cách tăng xuất khẩu và kiểm
soát mức nhập khẩu hiện nay nhằm bình ổn tăng trưởng kinh tế. Chính phủ
Trung Quốc đã đặt ra mục tiêu ưu tiên hàng đầu cho quá trình vận hành kinh
tế trong năm nay là ngăn chặn sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế và
quản lí giá cả. Để thực hiện mục tiêu trên, chính phủ Trung Quốc đã quyết
định sẽ nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng, và phát huy hợp lí vai
trò điều chỉnh lãi suất. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc cũng sẽ kiện toàn lại

hệ thống tỷ giá hối đoái đối với đồng Nhân dân tệ và mở rộng biên độ dao
động của tỷ giá hối đoái. Như vậy trên thực tế chính phủ Trung Quốc đã
tuyên bố thực hiện chính sách hạ nhiệt nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng
tại nước này. Lựa chọn thay đổi từ chính sách tiền tệ ổn định được duy trì
trong 12 năm qua sang chính sách tiền tệ siết chặt của chính phủ Trung Quốc
là điều đã được dự báo từ trước. Để cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, nhà
nước sẽ tìm cách kích thích tiêu dùng trong nước đồng thời cần duy trì quản
lý đầu tư, một trong những chính sách thắt chặt kinh tế vĩ mô. Nhà nước tăng
lãi xuất, giảm bớt dự án đầu tư dành nhiều quan tâm cho tỷ lệ thất nghiệp.
Điều chỉnh cơ cấu tăng trưởng bằng cách kích cầu, giảm đầu tư và nhập khẩu.

×