Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nghiên cứu tình hình thất nghiệp gắn liền với quá trình xóa đói giảm nghèo, chính phủ có những giải pháp và chính sách gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.11 KB, 22 trang )

Bài tập Kinh tế Vĩ mô :
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP GẮN LIỀN VỚI QUÁ
TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, CHÍNH PHỦ CÓ NHỮNG GIẢI
PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH GÌ ?
Giáo viên bộ
môn
: Bùi Ngọc Tân
Sinh viên thực
hiện
: Nguyễn Hữu Tài
(Nhóm 2)
Lớp : Kế toán K07
Mục lục
Trang
 Mở đầu 2
 Nội dung chính 3
Phần một : Lý luận về vấn đề thất nghiệp và xoá đói giảm
nghèo. Mối quan hệ giữa thất nghiệp và quá trình xoá đói giảm
nghèo mà hiện nay Chính phủ Việt Nam đang thực hiện. 3
Phần hai : Thực trạng thất nghiệp gắn liền với quá trình xoá
đói giảm nghèo. Những giải pháp và chính sách của Chính phủ
Việt Nam về các vấn đề này. 9
 Các chỉ số xã hội 17
 Kinh tế Việt Nam và khu vực 2007 qua số liệu thống kê 19
 Kết luận 24
 Tài liệu tham khảo 25
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Thất nghiệp và đói nghèo là vấn đề luôn luôn gây nhức nhối đối với hầu hết
các quốc gia, kể cả những nước phát triển. Làm rõ tỷ lệ thất nghiệp và đói
nghèo sẽ đánh giá chính xác mức sống và tình hình ổn định kinh tế, chính


trị, xã hội tại quốc gia đó.
Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nội dung của đường lối đổi mới chính là thể
hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Tuy nhiên giống như
các nước khác trong thời kỳ hiện nay, chúng ta cũng phải đối phó với tình
trạng thất nghiệp trầm trọng và tình trạng nghèo đói. Đảng và Nhà nước ta
đã và đang có những biện pháp và chính sách cụ thể để chống lại tình hình
thất nghiệp và đẩy mạnh quá trình xoá đói giảm nghèo qua đó đã thực hiện
tốt được các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc (UN) đề ra.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Khái quát những vấn đề lý luận về thất nghiệp và quá trình xoá đói
giảm nghèo, mối quan hệ giữa thất nghiệp và đói nghèo.
- Các nguyên nhân gây ra tình hình thất nghiệp và đói nghèo. Thực trạng,
hậu quả của thất nghiệp và đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.
- Chính phủ có những giải pháp và chính sách gì để thực hiện quá trình
xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN MỘT
LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO.
MỐI QUAN HỆ GIỮA THẤT NGHIỆP VÀ QUÁ TRÌNH
XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO MÀ HIỆN NAY
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM ĐANG THỰC HIỆN.
1. LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP VÀ ĐÓI NGHÈO
Lý luận về Thất nghiệp
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có
việc làm mà không tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất: mất mát, nghiệp:
việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc
làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội.

Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của công cuộc công
nghiệp hóa. Ở nông thôn, mặc dù có tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp
một phần, làm việc ít thời gian ở nông thôn, nhưng thất nghiệp không bị coi
là vấn đề nghiêm trọng.
Ảnh hưởng của thất nghiệp tới xã hội và nền kinh tế
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao
động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, áp lực tâm lý và tất nhiên là không có
khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu
dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia
đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu cụ thể [1]chỉ ra rằng, gia
tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm
chất lượng sức khỏe.

Theo một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công việc
thu nhập thấp (trong khi tìm công việc phù hợp) bởi các lợi ích của bảo hiểm
xã hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía
người sử dụng lao động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với
những người làm công cho mình (như không cải thiện môi trường làm việc,
áp đặt năng suất cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến, v.v ).
Cái giá khác của thất nghiệp còn là, khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi
xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ,
năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với
ý nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.
Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của công
đoàn, công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau
cùng là chủ nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với
người muốn gia nhập công việc, hạn chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc
tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao
động nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích
của việc tìm cơ hội thu nhập khác.

Chi phí cho doanh nghiệp và giảm tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ thất
nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn
lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và
dịch vụ.
Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất
theo quy mô.
Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt
giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so
với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
Nguyên nhân của thất nghiệp
Trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong xã hội tư bản. Ở xã
hội cộng đồng nguyên thủy, việc phải duy trì trật tự trong bầy đàn buộc mọi
thành viên phải đóng góp lao động và được làm việc. Trong xã hội phong
kiến châu Âu, truyền đời đất đai đảm bảo rằng con người luôn có việc làm.
Ngay cả trong xã hội nô lệ, chủ nô cũng không bao giờ để tài sản của họ (nô
lệ) rỗi rãi trong thời gian dài. Các nền kinh tế theo học thuyết Mác-Lênin cố
gắng tạo việc làm cho mọi cá nhân, thậm chí là phình to bộ máy nếu cần
thiết (thực tế này có thể gọi là thất nghiệp một phần hay thất nghiệp ẩn
nhưng đảm bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).
Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận,
mặt khác họ không phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải người lao động, do
đó họ vui lòng chấp nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình
trạng thất nghiệp. Người lao động không có các nguồn lực sản xuất trong tay
để tự lao động phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất nghiệp.
Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau.
Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản
xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn
đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế
học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên

ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê mướn người
lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ
yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất
nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản.
Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần
đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
Việc áp dụng nguyên lý cung - cầu vào thị trường lao động giúp lý giải tỷ lệ
thất nghiệp cũng như giá cả của lao động.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới ở Châu Phi, Trung Đông và Châu Mỹ
Latinh chỉ ra, ở các nước đang phát triển, tình trạng thất nghiệp cao trong
phụ nữ và thanh niên còn là hậu quả của những quy định về trách nhiệm chủ
lao động.
Các loại thất nghiệp
• Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có
một số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác.
• Thất nghiệp cơ cấu: do sự không tương thích của phân bố lao
động và phân bố chỗ làm việc (khác biệt địa lý hoặc khác biệt kỹ
năng). Người thất nghiệp không muốn hoặc không thể thay đổi nơi ở
hoặc chuyển đổi kỹ năng.
• Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung
lao động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
• Thất nghiệp kỹ thuật: do việc thay thế công nhân bằng máy
móc hoặc công nghệ tiên tiến hơn.
• Thất nghiệp thông thường: khi thu nhập thực tế xuống dưới
mức chấp nhận được.
• Thất nghiệp theo học thuyết Mark: là mức cần thiết để thúc đẩy
công nhân làm việc và giữ mức lương thấp
• Thất nghiệp theo mùa: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu
theo thời tiết. Ví dụ: công nhân xây dựng trong mùa mưa, giáo viên
dạy trượt tuyết trong mùa hè.

Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Số người không có việc làm
Tổng số lao động xã hội
Lý luận về Xoá đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất
nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu
lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa vị trí trong ba nước
xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững
vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương
thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Nguyên nhân đói nghèo ở nước ta
• Nguyên nhân lịch sử, khách quan:
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến
tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang,
bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát
trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh,
học tập cải tạo trong một thời gian dài.
Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng
chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính
sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu
của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở
nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã
làm thui chột động lực sản xuất.
Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm
cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp

thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh
thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số
tăng cao.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị
lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính
sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông
dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các công trình thâm dụng vốn
của Nhà nước.
• Nguyên nhân chủ quan:
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu
nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6 triệu
hộ) do các nguyên nhân khác như sau:
Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với
chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ
lệ nghèo tăng lên.
Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống
ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm
quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình
đẳng cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp.
Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các
thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh,
sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản
phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như
khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi
không lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch,
quan liêu, tham nhũng.
Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ
yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu

mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi
kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả
thấp, không thế chấp, môi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở
mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp
ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng
nhà nước.
Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu
của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được
thương yêu, chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ
phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến
lượt con cái các em có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa
đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các
dân tộc cao.
Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ
vào nông nghiệp.
Hiệu năng quản lý chính phủ thấp.
PHẦN HAI
THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP
GẮN LIỀN VỚI QUÁ TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO.
NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP
CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VỀ CÁC VẤN ĐỀ NÀY
2.1. THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP GẮN LIỀN VỚI QUÁ TRÌNH XOÁ
ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Thất nghiệp là vấn đề phổ biến đối với hầu hết các quốc gia, kể cả
những nước phát triển. Làm rõ tỷ lệ thất nghiệp sẽ đánh giá chính xác mức
sống và tình hình ổn định kinh tế, chính trị, xã hội tại quốc gia đó.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bước vào hội nhập với
kinh tế thế giới, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội, thì

tình trạng thất nghiệp đang là một trong những vấn đề nan giải và hết sức
bức xúc. Hàng năm có từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động,
nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn.
Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận
không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau bị mất việc làm, đời
sống rất khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã hội.
Từ số liệu thống kê trên có thể thấy, ở các vùng kinh tế trọng điểm tuy
quy mô đầu tư lớn, tốc độ tăng trưởng cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp của lực
lượng lao động vẫn cao hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước và cao hơn
hẳn so với các vùng kinh tế chậm phát triển.
Nguyên nhân là do các vùng kinh tế trọng điểm giữ vị trí đứng đầu
trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ tiên tiến cho nên đòi
hỏi chất lượng lao động cao. Trong khi đó, không ít ngành nghề đào tạo lại
không phù hợp với yêu cầu của thị trường, dẫn đến lao động không có nghề
phù hợp, khó tìm kiếm việc làm.
Thống kê cũng cho thấy, từ năm 2001 tới nay, lực lượng lao động đang
tiếp tục tăng với tốc độ cao; bình quân mỗi năm tăng 2,4%, tương đương với
khoảng hơn một triệu lao động. Trong đó, khu vực thành thị tăng gấp 2,5 lần
so với nông thôn
Riêng năm 2005, so với năm 2004, lực lượng lao động Việt Nam được
bổ sung 1,143 triệu người nhưng tỷ lệ đã qua đào tạo không cao. Đến nay, tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo mới chiếm 24,8% tổng lực lượng lao động, chưa
đạt chỉ tiêu 30% đã đặt ra. Đó là chưa kể tới chất lượng lao động đã qua đào
tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động phát triển, đặc biệt là
các vùng kinh tế trọng điểm, các khu đô thị tập trung.
Rõ ràng, khoảng trống việc làm ở các vị trí có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, tay nghề giỏi vẫn chưa được lấp đầy. Chất lượng lao động và số
lượng lao động tăng không song hành đang làm gia tăng áp lực việc làm ở
Việt Nam.

Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi
ở khu vực thành thị phân theo vùng (%)

199
9
2000
200
1
2002
200
3
2004
200
5
200
6

bộ
2007
Cả nước 5,88 6,42 6,28 6,01 5,78 5,60 5,31 4,82 4,64
A. Phân
theo
vùng
ĐB sông Hồng 8,00 7,34 7,07 6,64 6,38 6,03 5,61 6,42 5,74
Đông Bắc 6,95 6,49 6,73 6,10 5,93 5,45 5,12 4,32 3,97
Tây Bắc 5,87 6,02 5,62 5,11 5,19 5,30 4,91 3,89 3,42
Bắc Trung Bộ 7,15 6,87 6,72 5,82 5,45 5,35 4,98 5,50 4,92
DH Nam Trung
Bộ 6,55 6,31 6,16 5,50 5,46 5,70 5,52 5,36 4,99
Tây Nguyên 5,40 5,16 5,55 4,90 4,39 4,53 4,23 2,38 2,11

Đông Nam Bộ 6,33 6,16 5,92 6,30 6,08 5,92 5,62 5,47 4,83
ĐB sông Cửu
Long 6,40 6,15 6,08 5,50 5,26 5,03 4,87 4,52 4,03
B. Một
số thành
Hà Nội 8,96 7,95 7,39 7,08 6,84
Đà Nẵng 6,04 5,95 5,54 5,30 5,16
TP, Hồ Chí
Minh 6,88 6,48 6,04 6,73 6,58
Đồng Nai 5,65 4,75 5,14 5,27 4,86
Lao động nữ nói chung (%)
TT Danh mục Tỷ lệ
1. Tổng số lao động nữ trong cả
nước
48,0% (so với TS lao động cả nước)
- Lao động nữ thành thị 46,0% (so với TS lao động thành thị)
- Lao động nữ nông thôn 49,0% (so với TS lao động nông
thôn)
2 Tình trạng có việc làm của nữ 48,0% (so với TSLĐ có việc làm cả
nước)
- Nông thôn 48.0% (so với TSLĐ có việc làm ở
nông thôn)
- Thành thị 45.1% (so với TSLĐ có việc làm ở
thành thị)
3 Tình trạng thất nghiệp của lao
động nữ
41,6% (so với TS LĐ thất nghiệp cả
nước)
- Thành thị % (so với TSLĐ thất nghiệp ở thành
thị)

- Nông thôn 42,7% (so với TSLĐ thất nghiệp ở
nông thôn)
[Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 1999]
Giải pháp
Nước ta còn nghèo, vốn đầu tư còn phải đi vay, kỹ thuật - công nghệ
còn phải đi mua. Để sản xuất sản phẩm xuất khẩu cũng cần phải bỏ ra nhiều
ngoại tệ để nhập nguyên-phụ liệu, có loại phải nhập đến 80-90% Nhưng ta
lại có nguồn lực lao động khá dồi dào, giá rẻ. Đây là những vấn đề cần được
phân tích, trên cơ sở khắc phục những mặt tồn tại, phát huy thế mạnh, để lực
lượng lao động mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất, đồng thời góp phần bình
ổn xã hội. Thực tế đang thu hút và yêu cầu sự quan tâm từ phía Nhà nước,
các ngành kinh tế cũng như mỗi người lao động.
Trong các vấn đề quan trọng hàng đầu, nổi cộm nhất là việc sử dụng lao
động và thất nghiệp là 1 trong 5 đỉnh của “ngũ giác mục tiêu” (tăng trưởng
kinh tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, tỉ lệ nghèo thấp, cán cân thanh toán
có số dư). Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập,
sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng
trưởng kinh tế trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài.
Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia
tăng. Thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất
thiện”, trở thành vấn đề bức bối mà nhiều gia đình cũng như cộng đồng phải
tốn nhiều tiền của, công sức để khắc phục.Chúng ta có thể rất vui mừng khi
thấy tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành
thị đã giảm liên tục từ 6,9% năm 1998 xuống còn 5,6% năm 2004. Song,
tình trạng thất nghiệp hiện nay ở nước ta vẫn có một số vấn đề đáng lưu ý.
Nếu nhìn kỹ vào cơ cấu, tỉ lệ thất nghiệp của lao động ở khu vực thành thị
cũng còn nhiều điều cần quan tâm. Theo nhóm tuổi, ở nhóm tuổi càng trẻ thì
tỉ lệ thất nghiệp càng cao: nhóm 15-19 tuổi tỉ lệ thất nghiệp lên đến
13,9%,nhóm 20-24 tuổi 13,8%, nhóm 25-29 tuổi 7,2%, nhóm 30-34 tuổi
5,2%, nhóm 35-39 tuổi 4%, nhóm 40-44 tuổi 3,9% Theo trình độ chuyên

môn, thất nghiệp không chỉ có ở lực lượng lao động chưa qua đào tạo (8%),
mà còn ở các nhóm lao động đã qua đào tạo, như qua đào tạo nghề 1,8% đã
tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp 4,4%, đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học
3,8%. Thực tế trên là rất đáng lo ngại. Trong tổng số lao động thất nghiệp ở
thành thị, số người chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp
các cơ sở đào tạo chiếm tới 73,7%. Đó là sự đáng tiếc vì những người này
còn trẻ tuổi, có sức khỏe, có trình độ học vấn, tay nghề Theo mức độ thất
nghiệp, số người thất nghiệp dài hạn (từ 12 tháng trở lên) chiếm 56,7%, từ 6
đến dưới 12 tháng chiếm 21,4%, cộng hai loại này đã chiếm 78,1%; còn từ 1
đến dưới 6 tháng chiếm 18,2% và dưới 1 tháng chỉ chiếm 3,7%.
Một chuyển biến đáng vui mừng là tỉ lệ thời gian lao động ở khu vực nông
thôn chưa được sử dụng đã giảm từ 28,9% năm 1998 xuống còn 21% năm
2004. Nhưng, do tỉ trọng lực lượng lao động ở nông thôn lớn, nên nếu quy
số thời gian chưa được sử dụng trên ra số người thất nghiệp, thì tỉ lệ số
người chưa có việc làm của cả nước lên đến khoảng 15%. Vấn đề đặt ra là
cần phát triển mạnh hơn nữa các thành phần kinh tế, bởi chính khu vực
ngoài Nhà nước mới là khu vực thu hút được nhiều nhất số lao động tăng
thêm (năm 2004 so với năm 1990 tổng số lao động đang làm việc trong các
ngành kinh tế tăng gần 13 triệu người, khu vực Nhà nước chỉ tăng 1 triệu
người, chiếm 8,4% tổng số tăng, còn khu vực ngoài Nhà nước tăng hơn 11,8
triệu người, chiếm tới 91,6% tổng số tăng. Nói một cách công bằng, sự gia
tăng mạnh mẽ về số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có vốn đầu tư
nước ngoài trong những năm qua đã trực tiếp giải quyết việc làm cho lực
lượng lao động.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, vấn đề đầu tiên cũng là cuối cùng
quyết định sức sống của một nền kinh tế, quyết định mức độ giàu nghèo của
xã hội vẫn là con người. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ châu á đã trở nên
giàu mạnh nhờ có chiến lược đào tạo nghề, bồi đắp nguồn nhân lực một cách
bài bản, lâu dài. Từ đó, họ chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu hiện đại, lấy
dịch vụ làm động lực để tăng nhanh thu nhập, đặc biệt là từ đó tạo điều kiện

cho sức lao động có thêm giá trị gia tăng. Thiết nghĩ, Việt Nam cần có quan
điểm đào tạo nghề, tạo việc làm rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển
trong nước cũng như quốc tế để đón cơ hội, nhất là đối với mục tiêu xuất
khẩu lao động chất xám ra nước ngoài hoặc tại chỗ. Quý 1 năm nay, mặc dù
còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 16 ngàn lao
động, trong đó có cả việc đưa nhân công sang những thị trường “xịn” như
Canada, Anh hay gõ cửa thị trường Nam Âu, Trung Đông bên cạnh một số
thị trường truyền thống như Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc. Việc xuất
khẩu lao động vẫn đã và đang là hướng mở cho đáp ứng mục tiêu giải quyết
một phần việc làm trong nước. Ngoài ra, nguồn nhân lực trí thức, trước hết
tại khu vực đô thị, cần được định hướng sớm và cụ thể về nghề nghiệp
chuyên môn, phải có tính chuyên nghiệp cao (như sáng tạo phần mềm,
chuyên gia máy tính) để tự tạo việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay
Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là chủ trương, chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững gắn với bảo
đảm công bằng xã hội. Đảng và nhà nước đã xây dựng nhiều chương trình,
kế hoạch, thực hiện theo lộ trình hợp lý và được sự hợp tác, giúp đỡ của
quốc tế, công tác XĐGN của Việt Nam bước đầu đạt được những kết quả
tích cực. Tuy nhiên còn nhiều khó khăn, thách thức cần được tập trung giải
quyết nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ XĐGN nâng cao mức sống người dân
góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội đất nước bền vững.
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam,
vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên
177 nước, chỉ số phát triển giới (tiếng Anh:Gender Development Index-
GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh:Human
Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo
chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ
nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%.


NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác XĐGN là
một chủ trương lớn, nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, mục tiêu kinh
tế - xã hội cấp thiết. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên phải
đến năm 1998 Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và chương trình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và
miền núi mới chính thức ra đời và được duy trì, liên tục phát triển từ đó cho
đến nay. Thực tế ở nước ta, tỷ lệ đói nghèo thành thị đã giảm nhanh hơn khu
vục nông thôn, nhưng lại không ổn định, năm 1998 là 9,2%, năm 2002 là
6,6% nhưng năm 2004 lại tăng lên 10,8%. Trong khi đó ở nông thôn tỷ lệ
đói nghèo giảm chậm hơn nhưng tương đối ổn định từ 45,5% năm 1998
xuống 35,6% năm 2002 và còn 27,5% vào năm 2004. Khu vực đồng bào dân
tộc tốc độ giảm nghèo chậm và còn rất cao, từ 75,2% xuống 69,3%, cho thấy
công tác XĐGN ở các vùng đồng bào dân tộc khó khăn hơn nhiều so với
vùng dân cư người Kinh.
Hơn nữa, sự phân bổ hộ nghèo giữa các vùng, miền là không đồng đều.
Năm 2005 mặc dù tỷ lệ hộ nghèo trong toàn quốc giảm xuống chỉ còn 7%,
tuy nhiên có vùng chỉ có 1,7% hộ nghèo như vùng Đông Nam Bộ, trong khi
đó có vùng số hộ nghèo chiếm 12% tổng số hộ nghèo trong cả nước như Tây
Bắc.
Nhìn chung trong cả nước, hộ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực miền
núi và những khu vực có điều kiện tự nhiên khó khăn như Tây Bắc, Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, còn các vùng như đồng bằng
sông Hồng, Đông Nam Bộ tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể so với giai đoạn
trước. Tính theo chuẩn mới (năm 2005) áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010,
năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% tổng số hộ của
cả nước, so với chuẩn cũ thì tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam cao hơn trước,
khoảng 15%. Trong đó, vùng Tây Bắc: 42%; Đông Bắc: 33%; Đồng bằng
sông Hồng: 14%; Bắc Trung Bộ: 35%; Duyên hải Nam Trung Bộ: 23%; Tây

Nguyên: 38%; Đông Nam Bộ: 9%; và vùng đồng bằng sông Cửu Long:
18%.
Theo Nghị quyết kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XII đặt ra là giảm tỷ
lệ hộ đói nghèo của cả nước xuống còn 14,7%. Tuy nhiên, chênh lệch về thu
nhập giữa các vùng, các nhóm dân cư đang có xu hướng tăng lên là nguyên
nhân tạo ra một bộ phận người nghèo và ảnh hưởng xấu tới kết quả chung
của công tác XĐGN.
Tỷ lệ nghèo chung của dân tộc Kinh là 23,1%, nhưng ở nhóm dân tộc
ít người là 69,3%. Khoảng cách giàu nghèo của dân tộc Kinh là 4,7 lần, dân
tộc ít người là 22,1 lần. Những vùng có tỷ lệ nghèo nhiều nhất cũng là
những vùng có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống.
Cả nước và
theo vùng
Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2000 (%
so với tổng số
hộ cả nước)
Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2004 (%
so với tổng số
hộ cả nước)
Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2005 (%
so với tổng số
hộ trong cả
nước)
Tổng số hộ
nghèo cả nước
và chia theo
vùng (tính đến

cuối năm 2004)
Cả nước 17,18 8,30 7,00 1.416.002
Đông Bắc 22,35 10,36 8,00 179.872
Tây Bắc 33,96 14,88 12,00 81.986
ĐB sông
Hồng
9,76 6,13 5,15 289.647
Bắc Trung
Bộ
25,64 13,23 10,50 302.431
Nam Trung
Bộ
22,34 9,56 8,00 164.289
Tây Nguyên 24,90 13,03 11,00 111.508
Đông Nam
Bộ
8,88 2,25 1,70 58.222
ĐB sông Cửu
Long
14,18 7,40 6,78 228.047
Người nghèo hiện nay tập trung vào những nhóm dân cư rất đặc thù,
bao gồm: Những người sống ở những vùng sâu, xa; người dân tộc thiểu số;
người dễ bị tổn thương. Khả năng XĐGN đối với họ khó khăn hơn nhiều so
với bộ phận nghèo khác. Giảm đói nghèo đối với nhóm người này khó hơn
nhiều so với nhóm dân cư thuộc dân tộc kinh và những nhóm người nghèo
sống ở vùng đồng bằng, gần đô thị. Việc triển khai các biện pháp hỗ trợ để
giúp họ giảm nghèo đói đòi hỏi phải rất đa dạng, mang tính đặc thù, phù hợp
với đặc trưng văn hóa, tập quán của từng nhóm người.
Mặt khác, tình trạng nghèo về lương thực, thực phẩm đã được cải thiện
rất đáng kể ở khu vực đô thị và đồng bằng nhưng khu vực các vùng dân tộc,

vùng cao số tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm còn rất cao, xấp xỉ
mức 40% trong cả nước. Nghèo đói về lương thực, thực phẩm phản ánh mức
độ trầm trọng của đói nghèo ở một bộ phận dân cư trong việc tiếp cận lương
thực, thực phẩm để duy trì cuộc sống của họ. Đồng thời cho thấy một nghịch
lý, trong khi Việt Nam đã sản xuất dư thừa lương thực, thực phẩm, xuất
khẩu hàng triệu tấn gạo hàng năm, nhưng vẫn tồn tại một bộ phận dân cư
không đủ ăn và lại tập trung chủ yếu ở nông thôn và bộ phận đồng bào dân
tộc.
GIẢI PHÁP
Để công tác XĐGN tiếp tục đạt được kết quả cao hơn nữa, trong thời
gian tới đòi hỏi các cấp ủy chính quyền và người dân cần thực hiện tốt một
số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, thông qua các chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp –
nông thôn, hỗ trợ nông dân kinh tế vùng; Chương trình 135 giai đoạn II để
thực hiện mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo.
Thứ hai, các địa phương phải bố trí ngân sách hàng năm để thực hiện
Chương trình; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động XĐGN, đặc biệt thu hút
nguồn lực từ cộng đồng và quốc tế; thực hiện chặt chẽ việc giám sát, đánh
giá rút kinh nghiệm từ thực tiễn.
Thứ ba, tập trung vào các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách
mạng, vùng biên giới, hải đảo vùng dân tộc ít người và các đối tượng khó
khăn nhất, đặt biệt ưu tiên phụ nữ và trẻ em nghèo; đẩy mạnh công tác
truyền thông nâng cao nhận thức trách nhiệm giảm nghèo trong các cấp,
ngành; khơi dậy ý chí, quyết tâm vượt nghèo vươn lên làm giàu của người
dân; chú trọng kiện toàn về tổ chức và tăng cường cán bộ có năng lực, nhiệt
huyết cho công tác giảm nghèo; có chính sách, cơ chế khuyến khích, mang
tính đột phá áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, chuyển giao công nghệ
thích hợp đến các xã nghèo, người nghèo; phát hiện, xây dựng và nhân rộng
mô hình giảm nghèo có hiệu quả, phù hợp với địa phương, có sự tham gia
trực tiếp của chính người nghèo; khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo

nghề và tạo việc làm ổn định và tăng thu nhập cho người nghèo để XĐGN
bền vững …
Thứ tư, tập trung đẩy lùi lạc hậu, nâng cao trình độ dân trí, coi đó là
“chìa khóa” để XĐGN bền vững. Tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác
XĐGN và trách nhiệm của các ban, ngành … Việc hỗ trợ ngân sách thông
qua hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng, nhưng không phải cứ “rót”
tiền cho các xã nghèo là giúp họ thoát nghèo. Các chương trình dự án cũng
không nên đầu tư mô hình ở quy mô xã mà phải thực hiện tại từng thôn –
bản. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để công cuộc XĐGN thành công chính
là sự nỗ lực từ chính bản thân mỗi người nghèo.
Công cuộc XĐGN đang là vấn đề rất được sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo chính quyền. Thực vậy, một đất nước muốn vươn lên ngang tầm
với các nước trong khu vực và thế giới thì trước tiên cuộc sống của người
dân trong nước phải no đủ, sung túc, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu thiết yếu.
Chúng ta tin tưởng rằng với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, nhất định công cuộc XĐGN của đất nước sẽ sớm giành được thắng
lợi.
KẾT LUẬN

×