Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Vẻ đẹp của chữ “tâm” trong văn hóa ứng xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.25 KB, 20 trang )

Vẻ đẹp của chữ “tâm” trong văn hóa ứng xử
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vũ trụ bao la thời gian vô cùng, không gian vô tận. Mỗi con
người từ lúc hiện hữu cho đến lúc mất đi, đó chỉ là một khoảng thời gian
được tính bằng giây. Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta phải sống theo
lời Phật dậy “Khi ta sinh ra mọi người cười chỉ riêng mình ta khóc, ta
phải sống sao cho khi mất đi mọi người khóc còn ta mỉm cười”. Để làm
được điều đó đã để lại trong chúng ta biết bao trăn trở suy tư, là sống thế
nào cho đẹp, sống thế nào cho có hạnh phúc, sống sao cho hợp tình hợp
lý…
Câu hỏi trên từ lâu đã thấm sâu vào tâm hồn người Việt nói riêng và
người phương Đông nói chung. Vì thế mà ngay từ xa xưa ông cha ta đã
chăm lo đến việc trồng người, giáo dục con người sống có văn hóa và
đúng đạo làm người. Nhưng chúng ta cũng đều biết rằng, trong sự phát
triển của xã hội với hàng ngàn, hàng triệu mối quan hệ phức tạp. Ít ai có
thể hoàn thiện được mình. Có những người đã sống bung lung chạy theo
danh vọng vật chất như ngựa không cương kiềm tỏa, không biết dừng
nghỉ, dễ bị sa đọa. Bởi họ đã không biết đến luân thường đạo lý, họ đã trà
đạp lên tất cả những mối quan hệ tốt đẹp: Cha con, anh em, bạn bè và
thầy cô để miễn sao đạt được mục đích. Ngày nay xã hội phát triển cùng
với sự bùng nổ của công nghệ thông tin khi mà con người ta không còn
quan tâm tới đạo tâm và coi đồng tiền là cán cân công lý thì vai trò của
chữ “Tâm” càng phải được đề cao. Để xã hội ổn định và ngày càng hưng
thịnh, con người cần phải có cái tâm, đó là lương tâm trong sáng, cái chân
tâm, cái thiên tâm. Khi mà cái tâm trong mỗi con người được hình thành
sớm bao nhiêu thì sự hoàn thiện về mặt nhân cách càng đầy đủ bấy nhiêu.
Như đại thi hào Nguyễn Du đã nói trong tác phẩm “Truyện Kiều” “Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Vậy vẻ đẹp của chữ “tâm” ấy trong văn hóa
ứng xử của người phương Đông là gì? Những chất liệu nào đã hun đúc lên
chữ “tâm” thanh cao ấy trong tâm hồn con người Việt Nam nói riêng và
người phương Đông nói chung. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu ý nghĩa và


giá trị thiết thực của nó.
Trước khi đi vào nội dung của bài, vì sự hiểu biết còn hạn chế nên
khi viết còn nhiều sơ xuất. Em hy vọng được sự chỉ bảo và giúp đỡ của
thầy.
2
NỘI DUNG
1. Văn hóa ứng xử là gì ?
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh
của xã hội loài người. Ở phương Đông có từ “văn hóa” đã có trong đời
sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ Văn và hóa:
xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (quan hồ nhân văn dĩ
hóa thành thiên hạ)
1
. Văn tiếng Hán nghĩa là đẹp, giáo là giáo hóa. Người
sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng năm 77-76 trước Công
nguyên thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người
- Văn trị giáo hóa. Song đến thời cận đại, xuất hiện từ Culture với nghĩa
là gieo trồng phải giữ gìn, bảo vệ, quan tâm theo cả nghĩa đen và nghĩa
bóng. Ngoài ra còn rất nhiều người định nghĩa về văn hóa, như nhà xã hội
học Taylor, Unesco. Trong từ điển Văn hóa Việt Nam có định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể các giá trị về vật chất và tinh thần được con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Trong vô vàn cách cách hiểu, cách
định nghĩa về văn hóa, ta có thể tạm quy văn hóa về hai loại theo
PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là lối sống,
lỗi nghĩa, lối ứng xử … văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn
nghệ, học vấn…”
2
. Tùy theo từng trường hợp mà có cách định nghĩa khác
nhau. Văn hóa là cái phi tự nhiên, văn hóa là phẩm chất người, là cái gì
còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta học tất

cả. Văn hóa là làm đẹp cuộc sống, mang ý nghĩa nhân văn.
Ứng xử là cách xử sự hành sự. Ứng là ứng đối, ứng đáp, ứng phó.
Xử là sự phản ứng của người khác tác động đến mình trong một hoàn
cảnh cụ thể. Ứng xử phụ thuộc vào trình độ, gia phong, kinh nghiệm sống,
sự giáo dục của gia đình và toàn thể xã hội.
Từ cách hiểu về văn hóa và ứng xử ta đi đến định nghĩa về văn hóa
ứng xử: Đó là lối sống, lối suy nghĩ, lối hành động, là triết lý sống của
1
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vượng chủ biên- Nxb Giáo dục. Tr 17
2
Chu Dịch
3
một con người với tự nhiên, xã hội trong một phạm vi hẹp, vi mô tới một
phạm vi rộng, vĩ mô (cơ quan, đoàn thể, xã hội, nhân gian).
1.1. Bản chất của văn hóa ứng xử
Bản chất của văn hóa ứng xử là tâm và nhẫn. Đạo Phật dạy rằng
“Nhẫn” tức là: Nhịn được cái tức một lúc, tránh được mối lo trăm ngày…
Muốn hòa thuận trên dưới, nhẫn nhịn đứng hàng đầu. Cái gốc trăm nết,
nết nhẫn nhịn là cao. Cha con nhẫn nhịn nhau, vẹn toàn đạo lý. Vợ chồng
nhẫn nhịn nhau. Con cái khỏi bơ vơ. Anh em nhẫn nhịn nhau trong nhà
đều yên ấm. Bạn bè nhẫn nhịn nhau tình nghĩa chẳng phai mờ. Tự mình
nhẫn nhịn được. Ai ai cũng mến yêu. Người mà chưa biết nhẫn, chưa phải
là người ngay”. Trong quan niệm của đạo Phật về chữ “Nhẫn” đã thâu tóm
cách ứng xử trong các quan hệ xã hội. Chữ “Nhẫn” có hai bộ phận trên
trên là bộ đao (dao nhọn) dưới là chữ tâm. Dao nhọn mà đâm vào tim chịu
được là “Nhẫn”.
“Nhẫn nhất thời phong bình lãng tính
Thoái nhất bộ hải khoát thiên không”
(Nhịn một lúc gió yên sóng lặng
Lùi một bước nhìn biển rộng trời cao”

Nhẫn là sự nhẫn nhịn, nhẫn thế, thậm chí là nhẫn nhục là nhận phần
thiệt về mình. Trong cuốn Đông Tây Kim Cổ: Hình ảnh Việt Vương Câu
Tiễn là điển hình về “Nhẫn”. Ông đã 10 năm nằm gai nếm mật, ăn phân
giặc và nhẫn nhục để lâý lòng tin của vua Ngô Vương Phù Sai. Sau mười
năm Phù Sai tin và tha, Việt Vương Câu Tiễn đã quay lại giết Phù Sai.
Hay trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Lưu Bị vì muốn Khổng Minh là quân
sư cho mình nên đã ba lần đến lều cỏ. Con Trương Phi do không “Nhẫn”
được nên đã báng bổ. Cuối cùng ông đã làm nên sự nghiệp lớn cho nhà
Hán. Đức tính “Nhẫn” ấy còn được thể hiện rõ nét trong hình ảnh Chủ
tịch Hồ Chí Minh năm 1946 khi cách mạng Việt Nam ngàn cân treo sợi
tóc, hai chín vạn quân Tưởng đã tràn sang Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Lư Hán, với khẩu hiệu “Diệt Cộng” “cầm hồ”, chúng đã gây ra những tội
4
ác man rợ: bắt giết người Việt Nam, bắt nộp gạo, gái đẹp. Bác Hồ đã bảo
dân tộc Việt Nam phải “Nhẫn”. Bởi “nhu thắng cương, nhẫn thắng
cường”. Hay trong ca dao, tục ngữ cũng đã đề cập đến “Nhẫn”, vì nhẫn
nhịn nhau trong cuộc sống mới có thể hạnh phúc, yên ấm. Chẳng hạn:
“Chồng nóng thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì”
Để hiểu về bản chất của văn hóa ứng xử, bên cạnh việc tìm hiểu về
chữ nhân chúng ta cần tìm hiểu về chữ “Tâm”. Chữ “Tâm” là phiên âm
của tiếng Hán, là chữ tượng hình của người Trung Quốc (một vầng trăng
khuyết ba sao trên trời). Tâm là tim là trung tâm của trung tâm, là bộ phận
quan trọng nhất, quí giá nhất. Vì thế mà người ta ví Hà Nội là trái tim của
cả nước. Trong toán học: “Tâm” được hiểu là điểm cách đều tất cả các
điểm trên một đường tròn, hoặc trên mặt cầu, điểm chính giữa, tim, lòng,
tâm mặt cầu, tâm trái đất”
3
.
“Tâm” là lương tâm, đức độ, tấm lòng, là lòng nhân ái với con

người với đồng loại.
Tâm đồng thời cũng là sự bao dung, độ lượng, lòng vị tha, từ bi.
“Tâm” cũng có thể hiểu là tâm tư, tâm tính, tâm can, tâm khảm.
Trong văn học và nghệ thuật “Tâm” là toàn tâm toàn ý cho công
việc, sự nghiệp, lý tưởng mà mình theo đuổi (Lêvintan, Becthoven,
Picatssoo) .
Theo từ điển tiếng Việt “Tâm” được định nghĩa là mặt hồng cầu, ý
chí của con người.
Phương Tây với nền văn minh du mục, trọng “động” nên chữ “Tâm”
không được coi trọng như người phương Đông. Ở phương Đông với nền
văn minh nông nghiệp, gắn liền với cây lúa nước. Nên đời sống của người
phương Đông thường ổn định, định cư lâu dài trên một địa bàn nhất định
chứ khong nay đây mai đó như nền văn minh du mục. Từ đó đã hình thành
nên nếp sống, trật tự phép tắc, trong mối quan hệ giữa người với người.
3
Từ điển Tiếng Việt, tr 896 - Nxb Đà Nẵng
5
Chính vì thế mà chữ “Tâm” được đặc biệt coi trọng. Điều đó được chứng
minh trong gia đình người Việt, chữ “Tâm” được trưng bày trong nội thất
gia đình người Việt ở một vị trí quan trọng nhất. Nhưng theo tư tưởng của
Chu Dịch “Tâm” không đơn giản chỉ là quả tim mà “Tâm” còn là tâm tư,
đạo đức của con người. Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư
luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối với nhau và
đối với xã hội”
4
. Đạo là chỉ những mối quan hệ nhằm duy trì một trật tự từ
gia đình đến xã hội. Đó là mối quan hệ vua - tôi, cha mẹ - con cái, chồng -
vợ, anh - em, bạn bè.
Trong năm mối quan hệ trên ba quan hệ đầu là phục tùng tạo thành
tam cương bày tôi phải trung thành với vua, con cái phải có hiếu, phải

phục tùng cha mẹ, vợ phải phục tùng chồng. Ta có thể hiểu đạo là đường
đi lối lại của nền nếp, có phép tắc rõ ràng. Theo nghĩa đen và nghĩa bóng
của từ, đạo là con đường đúng đắn từ nơi đi cho đến nơi tơi. Phương
châm ứng xử là luân thường đạo lý: Trung dung, trung đạo là trung hòa
giữa đạo và lấy đạo làm chuẩn”
5
.
Đức là những qui định, những yêu cầu phải thực hiện cho đúng
trách nhiệm của mỗi giới, mỗi người. Ví dụ với nữ giới là công - dung -
ngôn - hạnh. Đối với nam giới là nhân - nghĩa - lễ - trí - tín. Theo Khổng
Tử phải có đủ ba điều nhân - trí - dũng thì mới đạt đức, mới là đấng quân
tử. Đến Mạnh Từ (390 - 305 TCN) thời Chiến quốc bỏ “dũng” thay bằng
“lễ nghĩa” thành bốn đức Nhân - lễ - nghĩa - trí. Đến đời Hán thêm “Tín”
thành năm đức (ngũ thường). Chú trọng đến Nhân và Dũng. Nhân được đề
cao là do nguồn gốc trọng tình của người phương Nam. Dũng có nguồn
gốc từ truyền thống trọng sức mạnh của người phương Bắc. Từ những
điều trên, ta có thể khẳng định chứ “Tâm”, cái tâm là phần người trong
con người vậy. Chữ “Tâm” gắn liền với cách ứng xử của con người. Mọi
cách ứng xử đều xuất phát từ Tâm, (thiện tâm, từ tâm - ác tâm, tà tâm).
4
Đề cương bài giảng Đạo đức học - Dương Văn Duyên
5
Đại học Trung dung Nho giáo - Nxb Khoa học xã hội - tr 91.
6
Thiện tâm (từ tâm) độ lượng, nhẫn, yêu thương, tôn trọng người
khác, luôn mong người thành đạt, thành tâm.
Ác tâm (tà tâm) ti tiện, ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo, đố kỵ, ghen tỵ,
xúc phạm người khác.
“Tâm” là sự kết hợp một cách hài hòa, bảy đức tính xấu và tốt của
con người. (ái, hỉ, ố, nộ, ai, lạc, dục) (yêu, ghét, vui, buồn, tức, giận).

Người có “Tâm” là người được giáo dục tử tế, được hình thành
những đức tính đầu tiên của “Tâm” từ rất bé qua sách vở, cha mẹ, người
thân và xã hội. Khi đã hiểu được bản chất của văn hóa ứng xử là “Tâm”
và “Nhẫn” cũng như việc tìm hiểu các quan niệm về “Tâm” chúng ta phải
hành sự sao cho phù hợp. Vậy một câu hỏi đặt ra là trong văn hóa ứng xử
chúng ta phải làm thế nào cho đúng đạo “Tâm”? Bí quyết thành công
trong văn hóa ứng xử là gì? Để trả lời cho câu hỏi trên chúng ta tạm thời
đưa ra năm bí quyết thành công trong văn hóa ứng xử:
Biết người biết ta trăm trận trăm thắng
Khôn chết, dại chết, biết sống.
Hãy trân trọng nhân cách tiếp xúc với chúng ta, (luôn giữ nụ cười
trên môi và giữ giọng nói ngọt ngào). Bởi ngạn ngữ Pháp có câu: “Cách
cho hơn cho của đem cho”.
Hãy trân trọng, tôn trọng quan tâm đến người khác (không bao giờ
được phê bình người khác trước người thứ ba).
Trong văn hóa ứng xử bao gồm văn hóa nói và văn hóa hành động.
Trong văn hóa nói có thể nói bằng mắt vì mắt là cửa sổ của tam hồn. Tất
cả lời nói và hành động phải phù hợp với đạo “Tâm”.
2. Chữ “tâm” là gì?
2.1. Quan niệm của Khổng Tử về chữ “Tâm”
Như ta đã biết Việt Nam, Trung Hoa là hai đất nước “núi liền núi,
sông liền sông” và có mối quan hệ văn hóa độc đáo. Có thể nói, Việt Nam
là đất nước chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa trong rất nhiều
linh vực. Trải qua hơn nghìn năm Bắc thuộc cùng chính sách đống hóa
7
người Việt Nam, văn hóa Trung Hoa đã để lại dấu ấn đậm nét trong tâm
hồn mỗi người đất Việt. Tuy nhiên, Việt Nam là đất nước có truyền thống
yêu nước, thông minh, cần cù sáng tạo. Vì thế mà dân tộc ta đã kế thừa
tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt là nền văn hóa Nho học mà tiêu
biểu là Khổng Tử. Khổng Tử được người đời mệnh danh là cha đẻ của

Nho giáo và là “Vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời). Nho giáo là
tục ngữ bắt nguồn từ chữ “Nho”. Theo Hán tự “Nho” là chữ “nhân”
(người) đứng cạnh chữ “nhu” (nhu cầu chờ đợi). Nho giáo là hệ thống
giáo lý của nhà Nho nhằm tổ chức xã hội có hiệu quả
6
. Khi bàn đến chữ
“Tâm” Khổng Tử chú trọng đến việc làm người như thế nào (tức là chú
trọng đến đạo đức). Theo ông đỉnh cao của lâu đài đạo đức là đức nhân.
Bằng chứng là trong cuốn “Luận ngữ” có tới sáu mươi lần Khổng Tử đề
cập đến “Nhân” nhà Nho không giải thích chữ Nhân là yêu thương đồng
loại định cho nó một nội dung cụ thể rất khó, vì đó là đức tính tối cao,
khiến cho con người trở thành “con người nhất”. Nêu cần phải định nghĩa
nội dung chủ yếu thì có thể nêu lên bốn điểm:
“Rộng lượng với mọi người
Hiểu biết để có một thái độ đúng trong mọi hoàn cảnh.
Dũng cảm nhận trách nhiệm
Giữ mình đúng lễ. Nói tóm lại là có tính người, tình người”
7
“Nhân” là chuẩn mực đạo đức tối cao của Khổng Tử, là cốt lõi trong
hệ thống tư tưởng của ông. “Nhân” gồm hai chữ nhân (người) và chữ nhị
(hai) có nghĩa rằng xử lý tốt mối quan hệ giữa người và người. Bản thân
của “Nhân” chính là “ái nhân” (yêu người), ái nhân thể hiện ở hai khía
cạnh. Khía cạnh thứ nhất là “Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân”, tức là điều gì
mình không muốn thì cũng không nên đem đến cho người khác. Khía cạnh
thứ hai “Kỷ dục lập nhi lập thân”, kỷ dục đạt nhi đạt nhân tức là muốn
sống hạnh phúc thì cũng nên làm cho người khác hạnh phúc, muốn thành
đạt thì cũng giúp người khác thành đạt. Nếu ai cũng làm được điều trên
6
Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc - Doãn Chính - Nxb Chính trị Quốc gia.
7

Khổng Tử gia giáo - Nxb Giáo dục
8

×