Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.87 KB, 28 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
o0o
TIỂU LUẬN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
THU HÚT NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 6
GVHD : PGS. TS QUYỀN ĐÌNH HÀ
LỚP : CH23 - QLKTD
HÀ NỘI - 2014
NHÓM 6 - LỚP CH23QLKTD - KHOA QLKT- HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VN
Nhóm của gồm 5 học viên:
HỌ VÀ TÊN MÃ SINH VIÊN
1. Lý Thu Doan
23160 283
2. Hoàng Minh Giang
23160 294
3. Nguyễn Hoàng Giáp
23160 295
4. Trịnh Văn Thảo
23160 335
5. Phùng Thị Yến
23160 401
6.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất
kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để đạt tăng trưởng
kinh tế cao, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả càng trở nên
cần thiết đối với tất cả các quốc gia muốn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước


một cách nhanh chóng nhất.
Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường gần 30 năm.
Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng trưởng nhanh,
lạm phát vẫn ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như
vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó
nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm
thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về
vốn
tư đó. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể vào việc đạt được những thành tựu kinh tế
xã hội của đất nước. Để có thể thu hót và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát
triển kinh tế - xã hội cần có những biện pháp cụ thể và toàn diện.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng nêu trên, em đã lựa chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
Mục đích đích của đề tài là tập trung phân tích vai trò của nguồn viện trợ ODA đối với
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và tình hình quản lý, sử dụng nguồn viện trợ
ODA để từ đó đa ra một số kiến nghị để tăng cường thu hút nguồn vốn viện trợ này.
Nội dung tiểu luận: bao gồm 2 phần được trình bày theo bố cục sau:
Phần I: Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Phần II: Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam
Do sự mới mẻ của công tác nghiên cứu, cũng như sự hạn chế về thời gian và
trình độ lý luận nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp
ý của quý thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!
4
PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA)
1.1. Khái niệm chung về ODA
1.1.1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các

khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức
thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính
quốc tế (IMF, ADB, WB ) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện
bằng việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu
đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản
vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên).
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một
phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ
bên ngoài.
1.1.2. Phân loại ODA
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODA được xem có mấy loại:
a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại:
− Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận
không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự
thỏa thuận giữa các bên. Viện trợ không hoàn lại thường được
thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật
− Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tùy
theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ
thích hợp. Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay)
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
− ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không
hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức
Hợp tác kinh tế và phát triển.
b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
5
− ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia

thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
− ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB )
hay tổ chức khu vực (ADB, EU ) hoặc của một Chính phủ của một nước
dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện
thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc) . Các
tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
c. Phân loại theo mục tiêu sử dụng:
− Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ)
nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng
hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân
thanh toán hoặc có thể chuyển hóa thành hỗ trợ ngân sách.
− Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài)
trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
− Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được
một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho
một mục đích
tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào.
− Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các dự án
này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên
gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để
soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
− Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng
cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi
đầu tư. Chuyển giao
tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn

là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành
chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
6
1.1.3. Các nguồn cung cấp ODA
* Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3
nguồn ODA chủ yếu:
− Liên xô cũ, Đông Âu.
− Các nước thuộc tổ chức OECD.
− Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
* Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương,
và các tổ chức viện trợ song phương.
− Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
+ Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP)
+ Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF)
+ Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP)
+ Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
+ Tổ chức y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
+ Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
− Các tổ chức tài chính quốc tế:
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
− Liên minh Châu Âu (EU).
− Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
− Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ (OPEC)
− Quĩ Cô - Oét.
* Các nước viện trợ song phương:
− Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và

phát triển kinh tế (OECD).
− Các nước đang phát triển.
7
1.2. Đặc điểm và vai trò của ODA
1.2.1. Đặc điểm của ODA
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau
− Thứ nhất, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương hóa
có xu
thế giảm đi. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập
đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị giữa các
quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ
chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng
góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển
dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thể tăng lên, ODA đa phương có xu
hướng giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên
thực tế là trong các năm 1980 - 1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng
ODA song phương từ 67% tăng lên 69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa phương
giảm từ 33% xuống 31% (Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
− Thứ hai, sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA. Trên thế
giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ
các nhà nước liên bang tăng
lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà thuộc Nam Tư
cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang
cần đến sự hỗ trợ quốc tế. Ở Châu Á, Trung Quốc các nước Đông Dương,
Myanmar … cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát
triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là
rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn
đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các
nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận,
các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác

như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm
nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội
quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các
nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách
là bạn hàng
thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối
ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt… cũng
là nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài
gia còn có thêm lý do
đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược,
8
viện trợ khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh
lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn
vốn này.
Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ
của các nước đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu
vùng Sahara
và Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ
trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối
với các vùng Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm,
từ tài khóa
1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng
Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại
Dương từ
20,3% lên 22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14%.
− Thứ ba, sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều.
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác
nhau, có thể
là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ
hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều

vào ý muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết
lập các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận
thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm
thị trường trao đổi buôn bán
hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ
ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên
những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các
nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có
thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai
− Thứ tư, triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan. Mặc dù Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước phát triển để
cung cấp ODA cho các
nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA lớn như Nhật Bản, Mỹ …
thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có
một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch đã có tỷ lệ ODA
chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không
lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát
triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung
9
cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối
lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang
có những dấu hiệu đáng lo
ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các
vấn đề xã hội trong nước, chịu sức Ðp của dư luận đòi giảm viện trợ để tập
trung giải quyết các vấn đề trong nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các năm
1991-1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt.
Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước
đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các
nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất

lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại,
xu hướng vận động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho
một số nước đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể
huy động được lại tuỳ thuộc vào chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng
hấp thụ vốn nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được
những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác.
1.2.2. Vai trò của ODA
ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp nhận, tuy
vậy đối với mỗi bên nó sẽ mang một ý nghĩa khác nhau.
a. Đối với nước xuất khẩu vốn
Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt động
thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng của
vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với những điều
kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sù gia tăng về buôn bán giữa hai quốc gia. Ngoài ra,
nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về mặt
kinh tế - văn hóa đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên.
Nguồn ODA đa phương mặc dù cũng có ưu điểm giúp các nước tiếp nhận khôi
phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham
nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu nghèo trong các tầng lớp
dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc sử dụng
nguồn vốn này trong nước.
Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các nước cung cấp không
nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các mục đích
quân sự.
10
d. Đối với các nước tiếp nhận
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không
thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận
ODA đã đạt được.

− Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu
vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước.
− Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát
triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó
sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình
tự duy trì và phát triển.
− Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc
tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
− ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có
thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của
các tổ chức tài chính quốc tế mang lại.
− ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng
cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp
cơ sở hạ tầng về kinh tế.
− ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và
vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp
cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường.
Đồng thời nguồn vốn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ
sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo
− ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh
nghiệp.
− Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy
móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước từ
các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện có thêm
nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự
giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
* Bên cạnh những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn
chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận được

11
nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng
cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố trọng điểm
cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố
ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi
ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung
cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự
phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do
mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho
tư bản nước ngoài tràn vào …
1.3. Tình hình cung cấp và tiếp nhận ODA trên thế giới
1.3.1. Tình hình chung
Nguồn ODA song phương được phân bố rộng khắp trên thế giới do các nhà tài
trợ một mặt phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế như qui định bắt buộc của
Liên Hiệp Quốc, mặt khác bản thân các nhà tài trợ cũng muốn nâng cao vị thế của
mình, vươn rộng tầm ảnh hưởng
ra các khu vực khác. Hơn nữa, trật tự an ninh mà các nhà tài trợ chủ trương thiết lập
tại nước nhận viện trợ dựa trên mong muốn một nền kinh tế phụ thuộc vào nền kinh tế
của họ.
Ở Châu Á: Nhật là nước đầu tư lớn nhất. Trung Quốc và Đông Nam á là khu vực
thu hút nhiều ODA nhất.
Châu Phi: Là khu vực tập trung hầu hết các nước nghèo, kém phát triển nên
nguồn viện trợ chủ yếu là viện trợ không hoàn lại và thường chiếm tỉ lệ cao.
1.3.2. Nhà tài trợ
a. ODA song phương
Mục đích của các nước cung cấp viện trợ đều là xác lập vị trí toàn diện và áp đặt
vai trò của mình ở khu vực muốn thôn tính. Do đó việc phân bổ ODA diễn ra khác
nhau giữa các khu vực.

Trong số các nước cung cấp ODA song phương, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những
nước dẫn đầu thế giới.
Cụ thể:
− Ở Châu Á: Nhật Bản với mục tiêu là phải thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp
giữa các nước trong khu vực, sao cho Nhật sẽ là nước đóng vai trò chủ đạo về
12
nền kinh tế nên đứng đầu trong danh sách các nhà tài trợ ở Châu Á là Nhật
Bản.
− Châu Phi: Nước cung cấp ODA chiếm tỉ lệ cao nhất là Pháp.
− Châu Mỹ La Tinh: Mỹ là nước có tỉ lệ viện trợ lớn nhất.
− Châu Đại Dương: Pháp đứng đầu với tỉ lệ viện trợ 46,9%.
− Trung Đông: Mỹ có tỉ lệ viện trợ ODA cao nhất.
13
e. ODA song phương
Các tổ chức tài chính quốc tế thường là những nhà tài trợ lớn với lượng vốn cung
cấp lớn hơn nhiêù lần so với các quỹ của Liên hiệp quốc.
Một số tổ chức đa phương cung cấp ODA nhiều nhất trong năm 2013
Đơn vị tính: tỉ USD
Tổ chức đa phương Đầu tư
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 61,5
Ngân hàng thế giới (WB) Bình quân 28,6 tỉ/năm
Công ty tài chính quốc tế (IFC) 17,9
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) 5,8
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
(UNDP)
2,186
Chương trình lương thực thế giới (WFP) Bình quân 1,5 tỉ /năm
Cao uỷ LHQ về người tị nạn (UNHCR) 1,3
(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư - tháng 7/2013)
1.3.3. Khu vực tiếp nhận

Trước đây, khi Liên xô và Đông âu chưa tan rã, viện trợ phát triển chính thức
ODA được phân bố theo chế độ chính trị của từng nước. Thế giới lúc bấy giờ chia làm
hai cực do Liên xô và Mỹ đứng đầu luôn có sự cạnh tranh và thù địch. Khối SEV (hội
đồng tương trợ kinh tế), đứng đầu là Liên xô, tập trung viện trợ giúp đỡ các nước trong
hệ thống xã hội chủ nghĩa còn khối tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu cũng ra sức
dùng các khoản viện trợ để mua chuộc sự trung thành của các nước thuộc thế giới thứ
3 theo những quan điểm của Mỹ.
Từ đầu thập niên 90 với sự kết thúc chiến tranh lạnh, nguồn vốn ODA được mở
rộng ra khắp các nước trên thế giới không kể thuộc hệ thống chính nào. Các nước nhận
được nguồn hỗ trợ nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào vị thế kinh tế của từng khu vực, từng
nước. Những năm gần đây, vốn ODA trên thế giới có chiều hướng tập trung vào khu
vực Châu á, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, Trung quốc là nước thu hút nhiều ODA
nhất trong khu vực này.
14
PHẦN 2. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI
VIỆT NAM
2.1. Tình hình thu hút ODA của Việt Nam thời gian qua
Trong thời kỳ đầu của sự nghiệp Đổi mới và phát triển đất nước, nguồn vốn viện
trợ phát triển chính thức (ODA) như những “viên gạch” đầu tiên giúp Việt Nam xây
dựng nền tảng để thu hút các nguồn lực khác. Trong 20 năm qua, các nhà tài trợ đã
cung cấp cho Việt Nam một nguồn tài chính đáng kể, góp phần thực hiện cải cách kinh
tế và hội nhập quốc tế.
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Paris (Pháp) từ ngày
9-10/11/1993 đã đặt nền tảng cho quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng
đồng tài trợ quốc tế dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau, tin cậy và xây dựng. Kể từ đó, một
diễn đàn đối thoại thường niên về chính sách phát triển và viện trợ giữa Chính phủ
Việt Nam và các nhà tài trợ được thiết lập với tên gọi là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà
tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị CG).
Đến nay, ở Việt Nam đã có 51 nhà tài trợ, gồm 28 song phương và 23 đa phương
có các chương trình ODA thường xuyên. Tính đến tháng 12/2012, đã có 20 Hội nghị

CG thường niên và 15 Hội nghị CG giữa kỳ (tổ chức đầu tháng 6 hàng năm) được tổ
chức. Thông qua các hội nghị này, 78,195 tỷ USD vốn ODA đã được các nhà tài trợ
cam kết dành cho Việt Nam. Tổng vốn ODA cam kết thường gia tăng, năm sau cao
hơn năm trước, kể cả những năm kinh tế thế giới khủng hoảng (như trong năm 2008)
hoặc khi kinh tế của một số nước tài trợ gặp khó khăn.
Điều này thể hiện sự đồng tình và ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc
tế đối với công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn, sự tin tưởng của các
nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam.
Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến 2012
đạt trên 58,4 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay ưu đãi
đạt 51,6 tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD
và chiếm khoảng 11,6%. Vốn ODA giải ngân qua 20 năm đã đạt 37,59 tỷ USD, chiếm
trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.
Trong số 51,607 tỷ USD các khoản ODA vay ưu đãi đã ký kết, phần lớn có lãi
suất rất ưu đãi, thời gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới
1%/năm, thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% khoản
vay có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10 năm ân hạn;
còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn.
15
Biểu đồ 2 Tổng vốn ODA cam kết, ký kết, giải ngân thời kỳ 1993-2012 (Đơn vị tỉ USD)
Đồ thị 2 Tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA giai đoạn 1993-2012
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo số liệu thống kê, tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA tăng dần từ
80% trong thời kỳ 1993-2000 lên 93% thời kỳ 2006-2010 và gần đây đã ở mức 95,7%
trong hai năm 2011-2012.
Biểu đồ 2 Cam kết ký, giải ngân vốn ODA thời kỳ 1993 – 2012 (Đơn vị tỉ USD)
Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa tương
xứng với mức cam kết.
Năm 2013 là thời điểm đánh dấu một trang mới trong quan hệ giữa Việt Nam với
cộng đồng nhà tài trợ quốc tế, bởi sẽ có thay đổi về "chất" trong thu hút và sử dụng

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong bối cảnh có sự thay đổi nói trên
thì năm 2013, Việt Nam vẫn nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các nhà tài trợ, tổng
mức ODA cam kết khoảng 7 tỷ USD, tăng 18,5% so với năm trước. Đây là mức tài trợ
cao nhất từ trước đến nay, đồng thời kết quả giải ngân đạt 4,5 tỷ USD, là mức khả
quan so với nhiều năm trước. Thực tế này cho thấy, Việt Nam đang làm tốt việc sử
dụng vốn đúng mục tiêu, đạt hiệu quả như thỏa thuận với nhà tài trợ.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập
trung bình, quan hệ giữa Việt Nam với các bên cung cấp ODA sẽ được áp dụng theo
thông lệ mới của thế giới. Cụ thể, từ nay Việt Nam sẽ tổ chức những cuộc gặp trực tiếp
và thảo luận để đi đến thống nhất về nhu cầu nhận ODA cũng như khả năng cung cấp
của từng nhà tài trợ theo định kỳ hằng năm. Nếu xét từ góc độ chung và tiền lệ từ các
16
nước khác, các khoản vay sẽ kém ưu đãi hơn hoặc lượng vốn cho vay cũng có thể thấp
hơn so với thời kỳ mà nước ta còn ở mức thu nhập thấp. Từ đó, vấn đề đặt ra là duy trì
mức vay ổn định trong những năm tới, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
trong tình hình mới.
2.2. Tình hình sử dụng ODA
Mặc dù ODA chỉ chiểm khoảng 4% GDP song lại chiếm tỷ trọng đáng kể trong
tổng nguồn đầu tư từ NSNN (bình quân chiếm khoảng 15-17%). Điều này rất có ý
nghĩa trong bối cảnh ngân sách dành cho đầu tư phát triển của nước ta còn hạn hẹp
trong khi nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội lại rất lớn. Căn cứ vào nhu
cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra
trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa
ra định hướng chiến lược, chính sách ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng giai đoạn.
Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA của Chính phủ bao gồm:
(1) Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi,
lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xoá đói, giảm nghèo).
(2) Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
(3) Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và
phát triển và một số lĩnh vực khác).

(4) Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
(5) Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Biểu đồ 2 Cơ cấu sử dụng vốn ODA cho từng ngành, lĩnh vực
Đánh giá khái quát, việc sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua được đánh giá
đã góp phần tác động tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thể
hiện trên các mặt sau đây:
− Một là, thời gian qua, ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh
tế và xã hội. Các công trình sử dụng vốn ODA đã góp phần tăng trưởng kinh
tế và cải thiện đời sống của nhân dân, cụ thể:
+ Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Các chương trình và
dự án ODA đã góp phần cải thiện và phát triển sản xuất nông nghiệp, thay
đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam, như: các chương trình phát triển thủy lợi,
giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phát
triển lưới điện nông thôn… Các dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng nông thôn
đã góp phần cải thiện đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
17
bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong
các lĩnh vực y tế, giáo dục , góp phần quan trọng vào công tác xoá đói
giảm nghèo tại các vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, các chương trình, dự án ODA cũng đã hỗ trợ công tác nghiên
cứu khoa học, công nghệ nông nghiệp giúp nâng cao chất lượng, an toàn
sản phẩm nông nghiệp, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
+ Về năng lượng và công nghiệp: Nhờ có ODA, Việt Nam đã xây dựng hàng
loạt các dự án nguồn thuỷ điện, nhiệt điện và năng lượng tái tạo, lưới điện
và trạm phân phối góp phần nâng cao năng lực sản xuất, truyền tải, phân
phối, quản lý hệ thống điện, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải cao với
tốc độ 15%-17%/năm.
+ Về giao thông vận tải – bưu chính viễn thông: Đây là ngành tiếp nhận vốn
ODA nhiều nhất. Trong thời kỳ 1990-2013, ngành Giao thông Vận tải đã

hoàn thành và đang thực hiện 132 dự án với tổng vốn ODA hơn 17 tỷ USD,
trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và đang thực
hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD. Các chương trình, dự án
ODA trong lĩnh vực này đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ
thống giao thông quốc gia cũng như giao thông vùng và tại các tỉnh, thành.
+ Trong phát triển đô thị và bảo vệ môi trường: Từ nguồn vốn ODA, hầu hết
các thành phố, thị xã, thị trấn đã được xây dựng mới, cải tạo hoặc mở rộng
hệ thống cung cấp nước sinh hoạt, thoát nước và một số nhà máy xử lý
nước thải. Nhiều thành phố ở Việt Nam đã được cải thiện về môi trường
bằng các dự án vốn ODA, điển hình thành công là dự án kênh Nhiêu Lộc -
Thị Nghè ở thành phố Hồ Chí Minh, với sự hỗ trợ vốn vay của Ngân hàng
Thế giới (WB), dòng kênh tưởng như đã chết này lại hồi sinh, trở thành con
kênh xanh, sạch, đẹp.
+ Trong giáo dục và đào tạo: Tất cả các cấp học đều nhận được sự hỗ trợ
thông qua các chương trình và dự án ODA, giúp tăng cường năng lực dạy
và học, hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi được đến trường, đẩy mạnh giáo dục cho
tất cả mọi người. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các dự án hỗ trợ kỹ thuật,
chủ yếu bằng viện trợ không hoàn lại, đã đào tạo và đào tạo lại cho hàng
vạn cán bộ Việt Nam ở các cấp về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, quản lý kinh tế, tài chính ngân hàng, quản trị công Các chương trình
và dự án ODA đưa tới Việt Nam những chuyên gia quốc tế từ khu vực và
thế giới, thông qua đó, cán bộ Việt Nam đã học hỏi được không những về
18
chuyên môn mà còn phong cách làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách
nhiệm đối với công việc được giao.
+ Về y tế: các chương trình, dự án ODA đã tăng cường cơ sở vật chất và kỹ
thuật cho công tác khám và chữa bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế,
xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc
gia Ngoài ra, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, phòng chống
HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm được thực hiện bằng vốn ODA đã

đem lại hiệu quả tích cực. Sự hỗ trợ của ODA đối với ngành y tế trong thời
gian qua đã góp phần vào những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện các
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) liên quan tới y tế.
Ngoài ra:
+ Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: Nhiều kỹ năng và kinh nghiệm quản
lý tiên tiến được chuyển giao cho các cơ quan, các trung tâm nghiên cứu,
cũng như các bộ, ngành và địa phương với sự hỗ trợ của các chương trình,
dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây dựng Dự án
phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu
Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển
hình.
+ Về xây dựng thể chế: Thông qua việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, Việt Nam
đã học hỏi được những kiến thức, kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện môi
trường thể chế, pháp lý trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế và khu vực, nhất là quá trình chuẩn bị gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhiều dự thảo luật và văn bản quy
phạm pháp luật dưới luật đã được xây dựng với sự hỗ trợ của nguồn vốn
ODA, như: Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư
nước ngoài, Luật Doanh nghiệp…
− Hai là, về hiệu quả sử dụng vốn ODA, theo các báo cáo đánh giá chung các
dự án đã hoàn thành trong khuôn khổ các hội nghị đánh giá chung về tình
hình thực hiện dự án lần thứ 5 (JPPR V - 2007) và lần thứ 6 (JPPR VI -
2009) giữa Tổ công tác ODA của Chính phủ và Nhóm 6 Ngân hàng phát triển
"Việt Nam tiếp tục là nước sử dụng nguồn vốn ODA tốt - các dự án đã hoàn
thành của 6 Ngân hàng đều được đánh giá thành công”. Nhận định này
được đưa ra dựa trên các báo cáo hoàn thành dự án do các ngân hàng phát
triển thực hiện, các báo cáo đánh giá và kiểm toán độc lập. Riêng đợt đánh
19
giá vào cuối tháng 12 năm 2008, trong tổng số 96 thì chỉ có hai dự án đánh

giá là “không thành công”.
− Ba là, về đóng góp của ODA cho tăng trưởng GDP, mức đóng góp này đã có
xu hướng tăng dần theo các năm và thường tăng cao vào những thời kỳ
kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức (chẳng hạn, trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997-1998 và khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu 2008 - 2009). Trong năm 2009, ODA chiếm khoảng
4,1% so với GDP, một tỷ trọng không lớn song có thể thấy tác động tích cực
của nó trong việc kích cầu đầu tư, góp phần vào việc duy trì đà tăng trưởng
của nền kinh tế Việt Nam.
− Bốn là, về vấn đề trả nợ ODA, từ năm 1993 đến nay Việt Nam luôn trả được
nợ và trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi, chưa để xảy ra tình trạng nợ nước ngoài quá
hạn, vượt khả năng thanh toán. Tuy nhiên, áp lực trả nợ sẽ ngày càng tăng do
vay ưu đãi ODA giảm dần và vay thương mại tăng lên vì Việt Nam đã thoát
ra khỏi nhóm nước nghèo theo tiêu chuẩn tài trợ ODA. Bên cạnh đó, Việt
Nam vay Nhật Bản chủ yếu bằng đồng Yên, vì vậy có thể số tiền trả nợ sẽ
đắt hơn mỗi năm, do xu hướng đồng Yên lên giá. Nợ bằng USD cũng sẽ cần
nhiều tiền hơn để
thanh toán, do Nhà nước mới điều chỉnh tỷ giá gần đây.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 là 31 tỷ
USD, trong đó nợ Nhật Bản lớn nhất với số tiền 8,4 tỷ USD, tiếp đó là đến Hiệp hội
Phát triển Quốc tế (IDA) với số tiền 6,1 tỷ USD, Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)
3,8 tỷ USD, Cộng hòa Pháp hơn 1 tỷ USD… Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, đến năm 2015 nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ tăng lên 57 tỷ USD, và Việt Nam sẽ
phải trả nợ nước ngoài khoảng 6 – 6,6 tỷ USD trong 5 năm từ 2011 đến 2015. Rõ ràng,
đây là khoản tiền không nhỏ trong bối cảnh nguồn thu ngân sách của đất nước còn hạn
hẹp.
Vấn đề đặt ra hiện nay là Việt Nam cần luôn luôn cảnh báo và nghe cảnh báo về
con số nợ để có kế hoạch vay và trả nợ an toàn. Một trong những yếu tố quan trọng
nhất để đảm bảo an toàn là phải có hiệu quả đầu tư. Cần thay đổi một cách căn bản
tư duy lâu nay coi ODA như một thứ “tiền chùa”, đồng thời có chính sách và

biện pháp sử dụng ODA có chọn lọc.
2.3. Nhận xét chung
Có một số lý do quan trọng giải thích cho những kết quả trong việc thu hút và sử
dụng ODA mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua.
20
− Thứ nhất, chế độ chính trị ổn định và sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã
hội của đất nước đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước được cộng
đồng viện trợ ưa thích.
− Thứ hai, Việt Nam đã hưởng lợi nhờ đạt được những kết quả ấn tượng về tăng
trưởng kinh tế và giảm đói nghèo nhanh đúng vào thời điểm mà các nhà tài
trợ đang tập trung hơn vào lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo và sẵn sàng viện trợ
cho những nước sử dụng tốt nguồn vốn này.
− Thứ ba, tiến trình hội nhập sâu và chủ động vào kinh tế thế giới và khu vực,
sự năng động của nền kinh tế, tiến trình cải cách hành chính và mong muốn
của Chính phủ Việt Nam tiếp tục gắn bó với các nhà tài trợ đã khiến họ càng
nhiệt tình với Việt Nam hơn. Đối với nước nhận viện trợ, ODA được xem
như một nguồn lực thực sự nếu nó được kết hợp hiệu quả với các nguồn lực
trong nước khác để đạt được các mục tiêu quốc gia trong từng thời kỳ nhất
định. Đối với các nhà tài trợ, ODA sẽ trở thành một nguồn viện trợ thực sự
nếu nó được chuyển cho nước tiếp nhận để gián tiếp hay trực tiếp tạo ra các
điều kiện cho phát triển. Từ hai cách tiếp cận trên, và từ những tác động của
nguồn vốn này trong thời gian qua, có thể khẳng định rằng ODA ở Việt Nam
đã trở thành một nguồn vốn thực sự và có hiệu quả trong tiến trình đổi mới.
Bên cạnh những thành công trong thu hút và sử dụng vốn ODA, còn tồn tại
nhiều vấn đề mà Việt Nam cần phải giải quyết để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả
hơn trong tương lai, trong đó nổi bật là vấn đề giải ngân. Mặc dù việc thực hiện và
giải ngân vốn ODA đã đạt được những tiến bộ nhất định, song thực tế cũng đã chỉ ra
còn nhiều hạn chế trong việc tiếp nhận, sử dụng hiệu quả nguồn lực này, thể hiện ở
những điểm sau:
− Một là, năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA còn kém, chưa đáp ứng được yêu

cầu. Có thể nhìn nhận thực trạng này thông qua tỷ lệ giải ngân so với nguồn
vốn ODA đã ký kết trong 20 năm qua chỉ đạt khoảng 67%. Riêng thời kỳ
2006-2010, khoảng 7 tỷ USD vốn ODA đã ký kết, nhưng chưa giải ngân, trong
đó có nhiều chương trình, dự án được hưởng các điều kiện tài chính ưu đãi cao
phải chuyển tiếp sang thời kỳ 2011-2015.
− Nhiều chương trình và dự án chậm tiến độ, nhiều trường hợp phải xin gia hạn.
Do chậm tiến độ thực hiện, mà một số dự án bị cắt giảm, hủy một số hạng
mục, hoặc phải tái cấu trúc toàn bộ dự án, gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả sử
dụng nguồn vốn này.
− Hai là, thiết kế của một số chương trình, dự án ODA chưa sát với thực tế Việt
Nam nói chung và của các địa phương nói riêng. Một số dự án ODA thí điểm
21
những mô hình phát triển, như: tín dụng quy mô nhỏ, quản lý và kinh doanh
nước sạch, phát triển sinh kế, bảo vệ và phát triển rừng , nhưng chỉ hoạt động
khi còn dự án, mà không nhân rộng được và áp dụng trong thực tế sau khi dự
án kết thúc. Đồng thời, trong cùng một lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, các
nhà tài trợ áp dụng các mô hình khác nhau, dẫn đến trùng lặp, kém hiệu quả và
lãng phí nguồn lực của địa phương, cũng như của các nhà tài trợ.
− Ba là, việc lồng ghép các chương trình và dự án của Chính phủ trên địa bàn với
các chương trình và dự án ODA, nhiều khi có sự trùng lặp, có những nội dung
gần nhau, như: xóa đói giảm nghèo, giao thông nông thôn, nước sạch nông
thôn làm hạn chế hiệu quả nguồn vốn. Thực tế đã xảy ra trên cùng một địa
bàn thôn, xã có nhiều công trình cùng một lĩnh vực do nhiều nguồn vốn tài
trợ, song chính quyền địa phương không đủ năng lực quản lý và thiếu nguồn tài
chính nhằm duy trì hoạt động của các công trình này một cách có hiệu quả để
phục vụ lâu dài cho người dân.
− Bốn là, nhiều bộ, ngành và địa phương để xảy ra những vụ việc vi phạm các
quy định quản lý ODA của Chính phủ và của nhà tài trợ, có tình trạng tham
nhũng gây ảnh hưởng đến uy tín quốc gia.
− Năm là, sự phối hợp trong nội bộ các bộ, ngành, giữa Trung ương, địa phương

và các nhà tài trợ chưa thật sự thông suốt, nhất là các lĩnh vực có sự tham gia
của nhiều nhà tài trợ hoặc các chương trình, dự án đa ngành đa cấp và đa mục
tiêu.
− Sáu là, tổ chức quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực và trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế, nhất là ở
các địa phương. Nhân sự các ban quản lý dự án thường không ổn định, trong
nhiều trường hợp hoạt động kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa
thực hiện thường xuyên, có hệ thống và bài bản.
22
PHẦN 3. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THU HÚT VÀ S

DỤNG VỐN ODA TRONG THỜI GIAN T

I
3.1. Định hướng chính sách
Trong thời gian tới, ODA cần tập trung thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2015 – 2020, giải quyết các tắc nghẽn của quá trình phát triển về cơ sở
hạ tầng kinh tế - kỹ thuật - xã hội, khung thể chế pháp lý và nguồn nhân lực chất
lượng cao, đồng thời tránh các bẫy mà các nước khi bước vào nhóm nước có thu nhập
trung bình thường gặp phải. Cụ thể, ODA cần ưu tiên để:
− Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật quy mô lớn, đồng bộ và hiện
đại, bao gồm:
+ Phát triển đường cao tốc, cảng biển, sân bay quốc tế,
+ Phát triển công nghiệp điện (nguồn và lưới điện), trong đó tập trung xây
dựng các nhà máy điện sử dụng nguồn năng lượng mới và năng lượng tái
tạo có tác dụng bảo vệ môi trường;
+ Phát triển thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông, đặc biệt ở khu vực nông
thôn;
+ Phát triển đô thị và vệ sinh môi trường (cấp thoát nước, giao thông đô thị,

xử lý nước thải, rác thải, );
+ Phát triển các ngành nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, các công trình
thủy lợi quy mô lớn và các lĩnh vực hạ tầng khác liên quan đến chương
trình nông nghiệp, nông thôn và nông dân theo tinh thần của Nghị quyết
Trung ương 5.
− Hỗ trợ thực hiện các dự án trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, trong đó ưu tiên
xây dựng các trường đại học; phát triển các khu công nghệ cao; các trường
dạy nghề nhằm phát triển nguồn nhân lực trình độ cao; các bệnh viện khu
vực hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, Ngoài ra, ODA cần tập trung hỗ trợ
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (xóa đói giảm nghèo, an sinh xã
hội, HIV/AIDS, nông nghiệp, nông thôn và nông dân).
− Hỗ trợ thực hiện các dự án trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đối phó với biến
đổi khí hậu, hỗ trợ phát triển và ứng dụng các công nghệ thân thiện với môi
trường và xây dựng mô hình tăng trưởng xanh,
− Hỗ trợ xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đáp ứng yêu cầu của giải đoạn
phát triển mới; tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học
kỹ thuật, quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ xã hội
(dịch vụ công, y tế, giáo dục, đào tạo, ).
23
− Ngoài ra, ODA cũng cần ưu tiên sử dụng cho những lĩnh vực sản xuất có khả
năng hoàn trả cao các loại vốn vay ODA kém ưu đãi để tạo ra công ăn việc
làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo.
3.2. Các giải pháp
Để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA trong thời gian tới, nhất là trong
bối cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, cần phải
thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, cần nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA: ODA nên
được coi là nguồn lực có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực trong nước
đối với mọi cấp độ thụ hưởng. Một điều quan trọng nữa là cần nâng cao quyền tự chủ

trong huy động và sử dụng ODA để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,
ngành và địa phương, và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Hai là, sử dụng ODA có chọn lọc, phù hợp và kết hợp hài hòa với các nguồn
vốn đầu tư khác. Thực tế, các tranh luận chính sách chính không còn là liệu có nên
thu hút ODA hay không mà vấn đề là làm cách nào để tối đa hóa các lợi ích của
ODA. Do vậy, chất lượng trong thu hút ODA sẽ quan trọng hơn là số lượng ODA.
Điều này có nghĩa là việc huy động và sử dụng ODA cần phải căn cứ vào các yếu tố
kinh tế - xã hội và phải đánh giá kỹ các lợi ích mang lại từ việc chuyển giao vốn, kiến
thức, công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Ba là, cần đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA. Các cơ quan quản lý nhà nước
về ODA cần tiếp tục hoàn thiện thể chế và quy trình thủ tục để rút ngắn thời gian
trình, duyệt của phía Việt Nam. Các Bộ, ngành và địa phương cần tăng cường
hoàn thiện công tác quy hoạch theo hướng giảm thiểu tối đa việc thay đổi, điều chỉnh
các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA, tạo thuận lợi cho công tác di dân, giải phóng
mặt bằng và tái định cư trên địa bàn dự án; thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống
theo dõi và đánh giá ODA ở cấp Bộ, ngành và địa phương; kịp thời phát hiện và xử lý
các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA thuộc
thẩm quyền. Các ngành, các cấp cần đảm bảo bố trí đầy đủ và kịp thời nguồn vốn đối
ứng cho các chương trình, dự án ODA và giám sát việc giải ngân nguồn vốn này.
Tổ công tác ODA của Chính phủ cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong
việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Việt Nam và là cầu nối với nhà tài trợ trong
việc giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuẩn bị, chuẩn bị thực hiện
và thực hiện các dự án.
Bốn là, tối đa hóa hiệu quả và tác động lan tỏa của ODA. Việc huy động và sử
dụng ODA phải dựa trên sự đánh giá tương quan giữa chi phí và lợi ích của các
24
chương trình và dự án để đảm bảo rằng các chương trình và dự án này có hiệu quả
cao, tạo ra tác động lan tỏa tối đa và đóng góp vào phát triển kinh tế. Một vấn đề quan
trọng nữa là tránh việc sử dụng tràn lan và dài trải vốn ODA, dẫn đến gánh nặng
nợ nần cho đất nước. Hiệu quả của ODA phải được đặt trong mối quan hệ với tăng

trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Hơn nữa, chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành và địa phương phải
được xem xét để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Năm là, mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các
chương trình và dự án phục vụ các lợi ích công cộng. Huy động sự tham gia của các
đối tượng thụ hưởng là một cách quan trọng để đảm bảo nguồn vốn ODA được sử
dụng công khai, minh bạch, có hiệu quả, và tránh được thất thoát, lãng phí và tham
nhũng.
Sáu là, xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA. Phân cấp quản lý và
sử dụng ODA là tiến trình không thể đảo ngược trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Điều quan trọng là Việt Nam cần phải xác định được phân cấp đến mức độ
nào và những dự án nào cần được phân cấp. Từ cách nhìn này, những kết quả và kinh
nghiệm phân cấp trong thời gian qua cần được xem xét. Một hệ thống các tiêu chí cho
việc phân cấp ODA bao gồm thời gian và chi phí thực hiện dự án, năng lực quản lý
ODA và hiệu quả hoạt động cũng cần phải được xây dựng.
Bẩy là, tăng cường theo dõi và quản lý ODA, bao gồm các giải pháp sau:
− Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, rõ ràng, đơn giản, minh bạch của hệ thống
pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng ODA;
− Tăng cường nỗ lực chống tham nhũng của Chính phủ;
− Đẩy nhanh cải cách hành chính và hiệu quả hành chính nhà nước;
− Nâng cao đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo lại cán bộ quản lý dự án;
− Hoàn thiện chính sách tài chính đối với ODA bao gồm thực hiện quản lý
nợ nước ngoài và đảm bảo chính sách thuế thông thoáng đối với các chương
trình và dự án ODA;
− Tăng cường quản lý vốn ODA theo Luật Ngân sách nhà nước.
Tám là, xây dựng kế hoạch giảm dần ODA với thời gian trả nợ ngắn và gắn với
điều kiện chặt chẽ. Kinh nghiệm từ các nước ASEAN và Trung Quốc cho thấy rằng
lượng ODA huy động phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ nhất
định. ODA có khuynh hướng giảm ở các nước ASEAN cả về lượng và bình quân đầu
người. Việt Nam cũng cần phải bắt đầu nghiên cứu kế hoạch và chiến lược giảm dần

ODA, đặc biệt là ODA có điều kiện, đồng thời tăng cường thu hút các nguồn vốn
25

×