Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận PHƯƠNG THỨC đối tác CÔNG – tư (PPP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.7 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH CÔNG
ĐỀ TÀI
PHƯƠNG THỨC ĐỐI TÁC CÔNG – TƯ (PPP):
KHUÔN KHỔ THỂ CHẾ TẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Lớp: Tài chính doanh nghiệp 01 – K23
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
1. Lê Thị Huyền Anh
2. Lê Văn Hiển
3. Thái Thị Cẩm Hợp
4. Huỳnh Thanh Nhân
5. Hoàng Xuân Quý
6. Nguyễn Thanh Phúc
7. Nguyễn Hoàng Trí
TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2014
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Mục lục
Lời mở đầu 1
1.Tổng quan về phương thức đối tác công – tư (PPP) 2
1.1.1Khái niệm 2
1.1.2Những đặc điểm cơ bản của PPP 3
1.3.1Hợp đồng dịch vụ/ quản lý 5
1.3.2Nhượng quyền khai thác (Franchise)/ cho thuê (Leasing) 5
1.3.3Thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (DBFO: Design - Build - Finance -
Operate) 5
1.3.4Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT: Build - Operate - Transfer) 5
1.3.5Xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO: Build - Transfer - Operate) 6
1.3.6Xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO: Build - Own - Operate) 6


2.Môi trường thể chế về PPP và việc áp dụng PPP tại Việt Nam 7
2.1.1Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh PPP 7
2.1.2Đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh PPP. .8
2.1.3Đánh giá môi trường thể chế về PPP ở Việt Nam dưới góc độ các nhà đầu tư
11
2.2.1Trước khi Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được
ban hành 12
2.2.2Từ khi Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban
hành 16
2.3.1Những vấn đề trong cơ chế quản lý, điều phối vĩ mô về PPP 20
2.3.2Những vấn đề trong triển khai các dự án PPP 21
2.3.3Những vấn đề trong xây dựng cơ chế hợp tác, xác định trách nhiệm, phân
chia lợi ích/ rủi ro giữa các bên, ưu đãi trong các dự án PPP 22
3.Khuyến nghị hoàn thiện khuôn khổ thể chế PPP tại Việt Nam 23
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 26
Nhóm 6 – TC01 – K23
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Nhóm 6 – TC01 – K23
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Lời mở đầu
Trong ba thập kỷ vừa qua, công cuộc đổi mới đã giúp Việt Nam đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Góp phần quan trọng vào đó là đường
lối chính sách huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế, tăng cường đầu tư vào
xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng và động lực cho tăng trưởng, nỗ lực xây dựng thể
chế, cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực công.
Trong bối cảnh ngân sách quốc gia của các nước đang phát triển tương đối eo hẹp,
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) sụt giảm, việc huy động sự tham gia của
khu vực tư nhân (đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài) vào các dự án kết cấu hạ tầng là
rất cần thiết, mà phương thức đối tác công - tư (Public - Private Partnership, PPP) là

một hình thức thích hợp, đã có lịch sử phát triển lâu dài ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, phương thức hợp tác công - tư với các hình thức như BOT, BTO,…
đã sớm được áp dụng triển khai ở nhiều dự án hạ tầng, nhưng phải đến Quyết định
71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác
công - tư (PPP), phương thức này mới được nhìn nhận và xem xét một cách cơ bản.
Kể từ đó tới nay, thực tiễn thí điểm triển khai các dự án theo hình thức PPP đã đạt
được một số kết quả nhất định, song cũng còn không ít trở ngại, khó khăn cả về nhận
thức, khuôn khổ thể chế và thực tiễn quá trình triển khai.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc phải thiết kế thể chế PPP như thế nào nhằm thu
hút được các nhà đầu tư tiềm năng vào phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam trong thời
gian tới, trong môi trường pháp lý và năng lực cụ thể tại Việt Nam, nhóm đã chọn đề
tài:
“Phương thức đối tác công – tư (PPP): Khuôn khổ thể chế tại Việt Nam”
Nghiên cứu này được thực hiện gồm ba nội dung chính: giới thiệu bản chất, đặc
điểm của mô hình hợp tác công - tư; đánh giá môi trường thể chế PPP và việc áp dụng
PPP ở Việt Nam, đặc biệt là những bất cập và những nội dung cần sửa đổi trong Nghị
định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức
BOT, BTO và BT, và Quyết định 71 nêu trên; trên cơ sở đó, khuyến nghị những vấn
đề cần lưu ý để hoàn thiện khuôn khổ thể chế PPP cho Việt Nam.
Nhóm 6 – TC01 – K23 1
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
1. Tổng quan về phương thức đối tác công – tư (PPP)
1.1. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của PPP
1.1.1 Khái niệm
Phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership – PPP) được định nghĩa
dưới nhiều khía cạnh và có nhiều phiên bản khác nhau, tùy theo bối cảnh của các quốc
gia hoặc tổ chức nghiên cứu. Cụ thể:
Theo cuốn sách “PPP: Hướng dẫn cho chính quyền địa phương” xuất bản tháng
5/1999, Chính quyền bang British Columbia, Canada coi Đối tác công tư là “sự phối
hợp giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức tư nhân nhằm mục đích cung cấp cơ sở hạ

tầng công, các tiện nghi cho cộng đồng và các dịch vụ liên quan” (Ministry of
Municipal Affair, 1999).
Trong khi đó, Sổ tay hướng dẫn về PPP do Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
phát hành năm 2008 coi thuật ngữ “mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân” miêu tả
một loạt các mối quan hệ có thể có giữa các tổ chức nhà nước và tổ chức tư nhân liên
quan đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực dịch vụ khác” (ADB, 2008).
Trong nghiên cứu “Khai thác lợi thế của PPP: Vai trò của chiến lược hỗ trợ tài
chính trong phát triển bền vững”, Colverson và Perera coi PPP “là một hình thức được
áp dụng trong một số dạng hợp đồng giữa nhà nước và khu vực tư nhân nhằm mục tiêu
cung cấp dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng” (Colverson và Perera, 2012).
Một số tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực PPP như Hội đồng PPP của
Canada (Canadian Council for Public Private Partnership), Hội đồng quốc gia về PPP
của Mỹ (National Council for Public Private Partnership) cũng đưa ra những khái
niệm riêng của mình về PPP. Chẳng hạn như “PPP là một liên doanh hợp tác giữa khu
vực công và tư, dựa trên lợi thế của mỗi bên nhằm xác định nhu cầu của cộng đồng
thông qua việc phân bố hợp lý nguồn lực, rủi ro và lợi ích”.
Có thể nhận thấy, mặc dù tồn tại dưới những dạng khác nhau trong thuật ngữ hoặc
cách diễn giải, song về bản chất, PPP là một hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu
vực tư nhân, nhằm tích hợp được những điểm mạnh/ lợi thế nhất của cả hai khu vực
này trong việc thực hiện một dự án nào đó. Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, lĩnh
Nhóm 6 – TC01 – K23 2
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
vực truyền thống của PPP là phát triển cơ sở hạ tầng song hiện tại được mở rộng hơn
sang các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục…
Phân tích sâu sắc hơn bản chất của sự hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân
cho thấy, trong mối quan hệ này, Nhà nước có thể đóng vai trò như “bên cấp vốn” (tức
là hỗ trợ về vốn, tài sản… cho khu vực tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ công trên
cơ sở ký hoặc không ký hợp đồng giữa hai bên). Nhà nước cũng có thể đóng vai trò là
“bên mua dịch vụ” (do tư nhân cung cấp) một cách lâu dài; hoặc “nhà điều phối” tạo ra
những diễn đàn để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân.

1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của PPP
Chia sẻ rủi ro (và lợi ích): Forward và Aldis (2009), Kappeler và Nemoz (2010),
Quium (2011) và Planning Commission (2004) đều thống nhất cho rằng việc chia sẻ
rủi ro là vấn đề trung tâm và là đặc điểm nổi bật nhất của mô hình PPP. Bao gồm:
• Rủi ro trong quá trình xây dựng do những lý do như sự vỡ nợ của nhà thầu, môi
trường bị tàn phá.
• Rủi ro về thị trường do những nguyên nhân cầu không tương xứng, mức thuế sử
dụng dịch vụ không thực tế.
• Rủi ro về tài chính do sự thay đổi về tỷ giá, lãi suất, thuế tăng lên, do lạm phát…
• Rủi ro trong quá trình vận hành và bảo trì do hợp đồng bị ngừng lại, những rủi ro
về mặt công nghệ hoặc lao động.
• Rủi ro về mặt pháp lý do những thay đổi trong hệ thống luật pháp, do tình trạng vỡ
nợ của nhà cung cấp dịch vụ.
Chủ thể tham gia PPP:
• Đối tác công có thể là các bộ ngành, các chính quyền địa phương hoặc các doanh
nghiệp nhà nước.
• Đối tác tư nhân có thể là các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư trong nước hoặc
nước ngoài.
Nhóm 6 – TC01 – K23 3
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Một số đặc điểm khác của phương thức PPP được Kappeler và Nemoz (2010) mô tả
bao gồm:
• Mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa đối tác công và tư.
• Các nội dung chính của dự án PPP bao gồm “thiết kế, xây dựng, vận hành hoặc/ và
bảo trì”, gắn liền với nguồn tài chính từ đối tác tư nhân.
• Đối tác công trả công cho đối tác tư trong suốt vòng đời của dự án PPP, căn cứ
vào chất lượng dịch vụ cung cấp.
1.2. Mục tiêu chính của phương thức PPP
Cải thiện đáng kể việc cung cấp các dịch vụ công bằng việc góp phần vào sự gia
tăng chất lượng và số lượng đầu tư.

Tăng cường tiềm năng của tài sản khu vực công, bao gồm cả doanh nghiệp nhà
nước, và do đó cung cấp giá trị cho người nộp thuế và lợi ích rộng lớn hơn cho nền
kinh tế.
Cho phép các bên liên quan nhận được sự chia sẻ lợi nhuận công bằng trong PPP.
Nhóm 6 – TC01 – K23 4
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
1.3. Các phương thức thực hiện của PPP
1.3.1 Hợp đồng dịch vụ/ quản lý
Hợp đồng dịch vụ: là hợp đồng thoả thuận giữa một cơ quan/ đơn vị thuộc khu vực
công (sau đây gọi là cơ quan nhà nước) có thẩm quyền với một đơn vị/ công ty tư
nhân, trong đó cơ quan nhà nước thuê đơn vị tư nhân thực hiện một hoặc một số nhiệm
vụ, dịch vụ cụ thể trong một thời gian nhất định.
Hợp đồng quản lý: là hợp đồng giữa cơ quan nhà nước (khuvực công) với đối tác
tư nhân, trong đó thoả thuận cho khu vực tư nhân được quản lý một tiện ích hay dịch
vụ công.
1.3.2 Nhượng quyền khai thác (Franchise)/ cho thuê (Leasing)
Phương thức nhượng quyền khai thác, theo nghĩa rộng, là một hình thức tổ chức
thực hiện PPP, trong đó khu vực nhà nước dựa trên các tài sản/ cơ sở hạ tầng do nhà
nước xây dựng và sở hữu (sau đây gọi là tài sản/ cơ sở hạ tầng sẵn có), nhượng lại
quyền khai thác, kinh doanh cho khu vực tư nhân. Trong mô hình này, đối tác tư nhân
được lựa chọn sẽ được dành quyền vận hành và duy trì dịch vụ công.
Có hai hình thức cụ thể đối với phương thức này, đó là: Nhượng quyền khai thác
(Franchise) và cho thuê (Leasing).
1.3.3 Thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (DBFO: Design - Build - Finance -
Operate)
DBFO là một phương thức PPP, trong đó đối tác tư nhân thực hiện tất cả các giai
đoạn của một dự án để cung cấp dịch vụ công, bao gồm: thiết kế (D), xây dựng (B), tài
trợ (F) và vận hành dự án (O) thông qua một hợp đồng dài hạn.
1.3.4 Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT: Build - Operate - Transfer)
BOT là một phương thức PPP trong đó khu vực nhà nước và đối tác tư nhân thoả

thuận cho phép đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng (bao gồm: xây mới, nâng cấp, phát
triển) công trình cơ sở hạ tầng và được phép kinh doanh (vận hành, khai thác) công
trình cơ sở hạ tầng đó trong một thời hạn nhất định nhằm thu lại chi phí đã bỏ ra và thu
một khoản lợi nhuận. Kết thúc thời hạn hợp đồng, đối tác tư nhân phải chuyển giao
không bồi hoàn công trình cơ sở hạ tầng cho khu vực nhà nước.
Nhóm 6 – TC01 – K23 5
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
1.3.5 Xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO: Build - Transfer - Operate)
Hợp đồng BTO là một hình thức hợp đồng PPP, được ký kết giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và đối tác tư nhân, trong đó đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng công
trình cơ sở hạ tầng, sau khi xây dựng xong công trình, đối tác tư nhân chuyển giao
quyền sở hữu tài sản cho nhà nước, ngược lại, nhà nước dành cho đối tác tư nhân
quyền khai thác, sử dụng công trình đó trong một thời hạn nhất định.
1.3.6 Xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO: Build - Own - Operate)
Phương thức BOO là phương thức trong đó khu vực nhà nước và đối tác tư nhân
thoả thuận: đối tác tư nhân bỏ vốn xây dựng tài sản/cơ sở hạ tầng dịch vụ công và
được phép khai thác, vận hành tài sản/cơ sở hạ tầng. Đối tác tư nhân có quyền sở hữu
tài sản trong suốt vòng đời của nó.
Nhóm 6 – TC01 – K23 6
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2. Môi trường thể chế về PPP và việc áp dụng PPP tại Việt Nam
2.1. Môi trường thể chế PPP tại Việt Nam
2.1.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh PPP
Để đảm bảo tính minh bạch và công bằng giữa các bên tham gia hợp đồng PPP,
khung pháp lý cần phải thiết kế đủ rộng để giúp các nhà đầu tư tư nhân tránh các rủi
ro. Hiện nay, hai văn bản có tính pháp lý cao nhất là Luật Đấu Thầu và Luật Đầu Tư.
Luật Đấu Thầu quy định về quy trình, thủ tục, các hình thức đấu thầu để lựa chọn nhà
thầu cung cấp dịch vụ, mua sắm hàng hóa và xây lắp với các gói thầu của các dự án.
Lĩnh vực đấu thầu ở Việt Nam nói chung đang bị chia nhỏ và quản lý không tập trung,
các quy định về đấu thầu nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật gây nên

tình trạng chồng chéo và gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện về các phương diện:
Đấu thầu lựa chọn nhà thầu; thực hiện hợp đồng BOT, BTO và BT; Đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đối tác – công tư; Đấu thầu theo phương
thức mua sắm tập trung. Thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật Đầu Tư (hiệu lực từ ngày 01/07/2006) quy định việc quản lý
hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh theo hướng không còn những quy định
mang tính phân biệt đối xử bất hợp lý hoặc áp đặt có lợi cho chủ nhà. Quy định về ưu
đãi, hỗ trợ và đảm bảo đầu tư cũng như các quy định về quyền tự chủ kinh doanh,
quyền lựa chọn hình thức đầu tư đều được áp dụng thống nhất đối với tất cả các nhà
đầu tư không phân biệt các thành phần kinh tế.
Bên cạnh đó, còn kể tới sự liên quan của các hoạt động PPP với Luật Ngân Sách
và Luật Xây Dựng. Luật Ngân Sách nhà nước quy định tổng thể về chi đầu tư phát
triển, bao gồm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu
hồi vốn; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính của nhà
nước; góp vốn cổ phần, liên doanh; dự trữ bổ dung nhà nước. Luật Xây Dựng quy định
quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có hoạt động xây dựng, bao gồm thẩm
quyền lập và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng.
Tính cho tới thời điểm hiện nay, các văn bản còn hiệu lực thi hành gồm Nghị Định
108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức Hợp Đồng Xây Dựng - Kinh Doanh -
Chuyển Giao, Hợp đồng Xây Dựng – Chuyển Giao – Kinh Doanh, Hợp Đồng Xây
Nhóm 6 – TC01 – K23 7
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Dựng - Chuyển Giao; Nghị Định 24/2011/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị Định
108/2009/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí
điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.
2.1.2 Đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh PPP
Các quy định về đầu tư theo phương thức hợp đồng BOT, BTO và BT
Nghị Định 108/2009/NĐ-CP và Nghị Định 24/2011/NĐ-CP quy định cụ thể về
các nội dung: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồng dự án;
nguồn vốn thực hiện dự án; lĩnh vực đầu tư; Lựa chọn Nhà Đầu Tư đàm phán hợp

đồng dự án; thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện dự án; Ưu đãi và đảm bảo
đầu tư đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp dự án.
Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn, các quy định về đầu tư theo các hình thức BTO,
BOT và BT bộc lộ một số hạn chế cơ bản.
Thứ nhất, cơ quan nhà nước trở nên bị động khi đàm phán do không đánh giá một
cách chủ động và độc lập về tính khả thi của dự án, các yếu tố đầu vào, chỉ tiêu kinh tế
và hiệu quả dự án.
Thứ hai, chưa giải quyết được đầy đủ vấn đề phân chia trách nhiệm và rủi ro
trong đầu tư. Theo các hình thức này, Nhà nước không có nghĩa vụ phải bỏ vốn tham
gia đầu tư vào dự án, Nhà đầu tư chịu trách nhiệm bỏ vốn và gánh chịu toàn bộ rủi ro
trong quá trình xây dựng và vận hành dự án mà lẽ ra Nhà nước phải chia sẻ.
Thứ ba, có một vài vấn đề cụ thể chưa được quy định cụ thể như sử dụng bảo lãnh
chính phủ chưa rõ ràng, thời hạn chuyển giao của BOT không được xác định, vai trò
của chính phủ và những cơ quan phát triển dự án và nhà đầu tư tư nhân trong việc chịu
rủi ro và chi phí khi phát triển dự án, điều chỉnh mức giá và lệ phí mà người sử dụng
phải trả, đảm bảo nợ vay và quyền can thiệp của người cho vay.
Những hạn chế này dẫn tới hạn chế khả năng huy động vốn từ các nhà đầu tư và
việc thương thảo hợp đồng ít thành công.
Nhóm 6 – TC01 – K23 8
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Quy chế thực hiện thí điểm PPP theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày
19/11/2010 về ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo phương thức đối tác công –
tư và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg là cơ sở pháp lý để bước đầu thực hiện dự án đầu tư
theo phương thức kết hợp Nhà nước và Tư nhân, mở ra khả năng mạnh mẽ hơn nguồn
vốn tư nhân tham gia đầu tư vào xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng. Quyết định gồm có
một số nội dung cơ bản để tiến hành dự án PPP gồm: phần tham gia nhà nước vào dự
án; chuẩn bị dự án và lập danh mục dự án; lựa chọn nhà đầu tư và ký kết hợp đồng dự
án; nội dung hợp đồng dự án; cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện dự án; quyết
toán và chuyển giao công trình; ưa đãi và bảo đảm đầu tư. Tuy nhiên, theo các quy

định của quy chế thí điểm, việc triển khai thực hiện dự án vẫn có một số khó khăn,
vướng mắc cần được tháo gỡ.
Thứ nhất, quy định phần vốn chủ sở hữu của Nhà đầu tư trong tổng mức đầu tư
của dự án là khá cao, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được.
Thứ hai, quy định giới hạn phần vốn tham gia của Nhà nước trong một dự án PPP
không quá 30% tổng vốn đầu tư mà không tính tới đặc thù của từng dự án, khiến một
số dự án PPP tiềm năng đã không được chấp nhận.
Thứ ba, chưa quy định rõ phần tham gia vốn của nhà nước trong dự án (nội dung,
hình thức và điều kiện sử dụng) và mối quan hệ giữa phần vốn này với việc đảm bảo
tính khả thi của dự án.
Thứ tư, chưa quy định rõ cơ chế cấp vốn và quản lý vốn thuộc phần tham gia vốn
nhà nước.
Thứ năm, chưa tính tới tiêu chí hấp dẫn về mặt thương mại của các dự án được
xếp vào danh mục PPP để có thể đảm bảo khả năng tiếp cận tài chính từ các bên cho
vay.
Thứ sáu, lĩnh vực thí điểm đầu tư còn hạn chế giới hạn trong 9 lĩnh vực.
Nhóm 6 – TC01 – K23 9
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Bảng so sánh: Phạm vi điều chỉnh và lựa chọn dự án trong các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh PPP hiện hành
Nội
dung
Quyết định 71 NĐ108/ NĐ24
Phạm
vi điều
chỉnh
Quy định điều kiện, thủ tục và nguyên tắc áp
dụng thí điểm đối với một số dự án đầu tư
phát triển hạ tầng, cung cấp dịch vụ công theo
hình thức đối tác công tư. Đầu tư theo hình

thức đối tác công – tư là việc Nhà nước và
Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện Dự án
phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ
công trên cơ sở Hợp đồng Dự án.
QĐ 71 áp dụng thí điểm đối với một số dự án
đầu tư theo hình thức PPP. Ngoài đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng còn đầu tư cung cấp dịch
vụ công.
Quy định lĩnh vực, điều
kiện, trình tự, thủ tục đầu
tư, ưu đãi đầu tư; quyền
và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng BOT,
BTO và BT.
Hợp đồng được ký kết
giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và Nhà đầu tư
để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng.
Lựa
chọn dự
án
Dự án thực hiện phải đáp ứng tiêu chí sau:
• Dự án quan trọng, quy mô lớn, có yêu
cầu cấp thiết cho nhu cầu phát triển kinh
tế.
• Dự án có khả năng hoàn vốn cho nhà
đầu tư từ nguồn thu hợp lý của người dử
dụng.
• Dự án có khả năng khai thác được lợi

thế về công nghệ, kinh nghiệm quản lý,
vận hành và sử dụng hiệu quả năng lực
tài chính của khu vực tư.
Gồm các dự án quan trọng
quốc gia và các dự án còn
lại được phân thành các
nhóm A, B và C theo quy
định của pháp luật về xây
dựng.
Nhóm 6 – TC01 – K23 10
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2.1.3 Đánh giá môi trường thể chế về PPP ở Việt Nam dưới góc độ các nhà đầu tư
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg bước đầu đã mở hành lang pháp lý cho việc thí điểm
mô hinh đầu tư mới – mô hình đối tác công – tư kết hợp. Tuy nhiên, thực tế sau hơn ba
năm triển khai thí điểm PPP đã phát sinh nhiều bất cập, vướng mắc mới đòi hỏi phải
có sự điều chính Quyết định 71 cũng như bổ sung thay thế bằng các văn bản pháp lý
có liên quan.
Thứ nhất, cụm từ “thí điểm” tạo cảm giác bất an và không chắc chắn đối với các
nhà đầu tư.
Thứ hai, những lĩnh vực của PPP rất hạn hẹp, mặc dù các điều khoản cho phép
chính phủ có thể bổ sung, nhưng cơ chế kém minh bạch và rắc rối này thị trường và
các nhà đầu tư đánh giá là cách không tích cực.
Thứ ba, quy định về mức tham gia tối đa của vốn nhà nước là 30% sẽ loại bỏ tới
80% các dự án về PPP, trong khi không có quy định rõ phần đóng góp của nhà nước
cụ thể bao gồm những nội dung nào.
Thứ tư, quy trình phê duyệt dự án PPP còn phức tạp và thẩm quyền cuối cùng của
mọi dự án PPP đều thuộc chính phủ, kể cả với các dự án nhỏ.
Thứ năm, Việt Nam không có một khung pháp lý đồng nhất cho những dự án
theo hình thức PPP. Nghị định 108 dành cho các dự án BOT và quyết định 71 dành
cho các dự án PPP có những nội dung không đồng nhất và cũng không kết nối với

nhau gây bối rối cho nhà đầu tư vì không xác định được khi đến Việt Nam đầu tư sẽ
được áp dụng quy định pháp lý nào cho những dự án của họ.
Thứ sáu, cần phải có một khuôn khổ pháp lý có hiệu lực mạnh mẽ hơn để bảo
đảm thực thi PPP ở Việt Nam. Ở những nước không có luật PPP song vẫn triển khai
hình thức PPP rất thành công (tiêu biểu như Anh, Nhật Bản) là bởi hiệu lực hợp đồng
trong hệ thống pháp lý các nước này rất mạnh mẽ, đồng thời có năng lực đàm phán,
quy trình quản lý dự án, cơ chế tài phán giải quyết tranh chấp hợp đồng tốt.
Nhóm 6 – TC01 – K23 11
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2.2. Tình hình thực hiện PPP tại Việt Nam
2.2.1 Trước khi Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được
ban hành
PPP không còn là phương thức quá mới mẻ, bản thân Việt Nam đã có những dạng
thức PPP tồn tại từ trước như BTO, BOT (được coi là mô hình PPP truyền thống). Xét
về bản chất và các phương thức trong quan hệ đối tác công - tư (PPP), thực chất Việt
Nam đã và đang thực hiện 2 phương thức PPP chủ yếu là hình thức hợp đồng BOT và
nhượng quyền.
Tính tới thời điểm 31/12/2010 theo báo cáo từ 48 tỉnh, thành phố trực thuộc TW
và một số Bộ, có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và 02 Bộ có dự án đầu tư theo hình
thức hợp đồng BOT, BTO, BT. Tổng số dự án có tất cả 384 dự án đầu tư với tổng số
vốn đầu tư 1.114.663 tỷ đồng đã được cấp phép và đang kêu gọi đầu tư. Trong số đó,
các địa phương quản lý 342 dự án với tổng số vốn đầu tư là 660.832 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 89,1% về số dự án và 59,3% về tổng vốn đầu tư. Bộ Giao thông vận tải quản lý
29 dự án với tổng số vốn đầu tư là 88.111 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,6% về số dự án và
7,9% về vốn đầu tư; Bộ Công thương quản lý 13 dự án với tổng số vốn đầu tư là
365.720 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,4% về số dự án và 32,8% về số vốn đầu tư.
Phân loại theo hình thức đầu tư như sau:
• Dự án BOT: 129 dự án với tổng số vốn đầu tư 604.389 tỷ đồng;
• Dự án BTO: 02 dự án với tổng số vốn đầu tư 918 tỷ đồng;
• Dự án BT: 211 dự án với tổng số vốn đầu tư 324.129 tỷ đồng;

• Dự án BT kết hợp BOT: 42 dự án với tổng vốn đầu tư 185.227 tỷ đồng;
Nhóm 6 – TC01 – K23 12
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Tỷ trọng số các dự án phân theo hình thức đầu tư (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét về số dự án, chủ yếu là dự án đầu tư theo hình thức BT, chiếm 54,95%; tiếp
đến là dự án theo hình thức BOT, chiếm 33,59%; dự án BT kết hợp BTO chiếm
10,94%; hình thức dự án BTO chỉ chiếm 0,52%.
Tỷ trọng vốn đầu tư các dự án phân theo hình thức đầu tư (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong khi đó, xét về vốn đầu tư, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn đầu tư là
dự án đầu tư theo hình thức BOT, chiếm 54,22%; dự án theo hình thức BT tuy chiếm
tỷ trọng số dự án nhiều nhất, nhưng chiếm 29,08% tỷ trọng về vốn; dự án BT kết hợp
BTO chiếm 16,62%; hình thức dự án BTO chỉ chiếm 0,08%.
Nhóm 6 – TC01 – K23 13
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Phân theo lĩnh vực đầu tư:
• Xây dựng công trình giao thông: 254 dự án với tổng vốn đầu tư 563.114 tỷ
đồng;
• Xây dựng hệ thống cấp nước sạch: 08 dự án với tổng vốn đầu tư 4.490 tỷ đồng;
• Xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải và cải tạo môi trường: 50
dự án với tổng vốn đầu tư 139.403 tỷ đồng;
• Xây dựng nhà máy điện, đường dây tải điện: 13 dự án với tổng vốn đầu tư
365.720 tỷ đồng;
• Xây dựng nhà làm việc, khu công nghiệp, khu đô thị và các dịch vụ công cộng
khác: 59 dự án với tổng vốn đầu tư 41.935 tỷ đồng.
Tỷ trọng số dự án phân theo lĩnh vực đầu tư (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét về số dự án, chiếm chủ yếu là dự án xây dựng các công trình giao thông,
chiếm 66,15%; tiếp đến là các dự án xây dựng nhà làm việc, khu công nghiệp, khu đô

thị và các dịch vụ công cộng khác chiếm 15,36%; xây dựng hệ thống thu gom, xử lý
nước thải, chất thải và cải tạo môi trường chiếm 13,02%; xây dựng nhà máy điện,
đường dây tải điện là 3,39%; xây dựng hệ thống cấp nước sạch là 2,08%.
Nhóm 6 – TC01 – K23 14
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Tỷ trọng vốn đầu tư các dự án phân theo lĩnh vực đầu tư (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét về tổng vốn đầu tư, tương ứng với đó, vốn đầu tư xây dựng công trình giao
thông chiếm đến 50,52% tổng vốn đầu tư. Trong khi đó, xây dựng nhà làm việc, khu
công nghiệp, khu đô thị và các dịch vụ công cộng khác tuy chiếm 15,36% về số dự án
nhưng chỉ chiếm 3,76% tổng vốn. Ngược lại, xây dựng nhà máy điện, đường dây tải
điện chỉ chiếm 3,39% số dự án, nhưng lại chiếm tới 32,81% tổng số vốn. Xây dựng hệ
thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải và cải tạo môi trường chiếm 12,51% tổng
vốn. Xây dựng hệ thống nước sạch chiếm 0,4%.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù khung pháp lý cho việc thu hút nguồn
vốn này theo hình thức BOT, BTO và BT được ban hành không chậm hơn nhiều so
với đầu tư trong nước, từ năm 1998 đến nay cũng chỉ có 10 dự án BOT được cấp phép
và đang hoạt động, với tổng vốn đầu tư 5,9 tỷ USD, một con số rất khiêm tốn so với
nhu cầu.
Nhóm 6 – TC01 – K23 15
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2.2.2 Từ khi Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban
hành
Để đẩy mạnh thu hút nguồn lực vốn tư nhân, cần có sự thay đổi mạnh về phương
thức thu hút đầu tư so với các hình thức truyền thống (BOT, BTO, BT) vốn chưa phát
huy hiệu quả cao. Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công tư ban hành ngày 9/11/2010 có
hiệu lực từ ngày 15/1/2011 với thời gian thí điểm từ 3 đến 5 năm, đã bước đầu vận
dụng mô hình PPP hiện đại trong thu hút vốn đầu tư tư nhân.
Theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg, có 8 lĩnh vực được thực hiện thí điểm PPP

là đường bộ, đường hàng không, đường sắt, đường sông, hệ thống xử lý nước thải
(lỏng và rắn), điện năng và y tế. Đối với các dự án PPP thì vốn nhà nước tối đa là 30%,
còn lại là của tư nhân trong nước hoặc nước ngoài, nhưng trong 70% còn lại thì 30%
phải là vốn chủ sở hữu, còn lại thì tư nhân được phép đi vay nhưng phải đảm bảo
không được dẫn đến nợ công.
Tình hình thực hiện các dự án thí điểm PPP tại các Bộ, ngành và địa phương
Các dự án PPP đã được Chính phủ chấp thuận chủ trương:
• Dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết
Dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết là dự án đầu tiên thí điểm áp dụng mô
hình đầu tư đối tác công tư (PPP) tại Việt Nam do Bộ GTVT chủ trì thực hiện với sự
hỗ trợ của WB, AUSAID và đại diện các Bộ, ngành liên quan (thông qua Tổ công tác
liên ngành triển khai thực hiện dự án). WB cam kết tài trợ vốn ODA cho Chính phủ
Việt Nam. Trong đó vốn vay IDA để tham gia phần vốn đóng góp từ phía Chính phủ
vào dự án, hỗ trợ nhà đầu tư tham gia dự án được vay vốn IBRD.
Nhà đầu tư Bitexco là đơn vị đề xuất dự án, lập Báo cáo nghiên cứu khả thi cho dự
án và được chỉ định là Nhà đầu tư thứ nhất của dự án. Nhà đầu tư thứ hai sẽ được lựa
chọn thông qua đấu thầu rộng rãi quốc tế để cùng với nhà đầu tư thứ nhất hợp thành
phía đối tác tư nhân của dự án.
Theo tiến độ dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi đã được phê duyệt và hiện đang
cập nhật bổ sung về tổng mức đầu tư và thiết kế cơ sở. Chính phủ đã phê duyệt cơ chế
Nhóm 6 – TC01 – K23 16
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
đặc thù để quản lý và thực hiện dự án nhằm tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy việc xây
dựng tuyến đường (theo Quyết định 1597/QĐ-TTg ngày 26/10/2012).
Bộ GTVT đề xuất phương án Chính phủ không vay khoản IBRD, chỉ vay IDA của
WB 429 triệu USD sử dụng làm VGF, phần còn lại các Nhà đầu tư tự thu xếp. Bộ
GTVT, Bộ KH&ĐT thống nhất với WB cơ cấu vốn vay cho dự án, điều chỉnh lại kế
hoạch vay WB tài khóa 2012-2014 phù hợp với thỏa thuận của WB và triển khai các
bước tiếp theo. Đề xuất tách công tác giải phóng mặt bằng (dự kiến chi phí GPMB
khoảng 107 triệu USD) thành một dự án độc lập, triển khai thực hiện trước công tác

khảo sát chi tiết, thiết kế bình đồ và cắm cọc GPMB tại hiện trường. Đồng thời, bố trí
vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước cho các công tác này của Dự án đảm bảo thực hiện
kịp với tiến độ chung của dự án. Xác định tiêu chí chủ yếu để lựa chọn nhà đầu tư thứ
hai qua đấu thầu quốc tế rộng rãi là mức VGF đề xuất thấp nhất. Nhà đầu tư sẽ thu xếp
tài chính, khảo sát thiết kế kỹ thuật, lựa chọn nhà thầu và dự kiến khởi công vào tháng
10/2014. Để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết
theo hình thức đối tác công - tư (PPP), Bộ Giao thông Vận tải phối hợp với Ngân hàng
Thế giới tổ chức giới thiệu, quảng bá dự án tại một số nước châu Á để kêu gọi, tìm
kiếm nhà đầu tư thứ hai cho dự án.
• Dự án “Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ”
Hiện tại, báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án do liên danh nhà thầu tư vấn quốc
tế Ubitec-Teckad lập (từ tháng 6/2012) đang tiếp tục được hoàn thiện. Dự kiến đề xuất
phần tham gia của Nhà nước đầu tư vào dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi được
trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt và tổ chức lựa chọn Nhà đầu tư thực
hiện Dự án theo hình thức PPP năm 2013.
Dự án liên quan đến hai lĩnh vực lần đầu được triển khai đó là đấu thầu qua mạng
và mô hình PPP nên quá trình triển khai gặp rất nhiều khó khăn: (1) khung pháp lý về
mô hình PPP chưa đầy đủ; (2) rất hạn chế số chuyên gia trong và ngoài nước có kinh
nghiệm trong cả hai lĩnh vực; (3) yêu cầu sự đồng thuận cao, phối hợp quyết liệt giữa
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là giữa các cơ quan thuộc Chính phủ;
(4) chưa có chế tài bắt buộc việc thực hiện đấu thầu qua mạng; (5) tính đồng bộ số hóa
Nhóm 6 – TC01 – K23 17
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
các nguồn tài liệu (trong các Hồ sơ thầu) và công tác an toàn, bảo mật thực tế còn
nhiều hạn chế.
Các dự án PPP đã và đang được nghiên cứu tại các Bộ, ngành:
Bộ Giao thông Vận tải: hiện đang nghiên cứu thực hiện 02 dự án theo mô hình
PPP, gồm dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, dự án đường cao tốc Ninh Bình
- Hà Tĩnh (Bãi Vọt). Trong đó, đặc biệt ưu tiên thúc đẩy tiến độ dự án đường cao tốc
Biên Hòa - Vũng Tàu. Hiện phía Nhật Bản đã nghiên cứu triển khai dự án bằng nguồn

vốn PSIF. Đối với dự án đường cao tốc Ninh Bình - Hà Tĩnh, Bộ đang nghiên cứu
triển khai theo mô hình PPP và xác định thời điểm, phạm vi đầu tư phù hợp.
Bộ Y tế: Dự án cung cấp các dịch vụ hậu cần bệnh viện: công ty Hellmann - Đức
đề xuất hợp tác từ tháng 4/2012 với đề nghị Bộ Y tế ký một Thỏa thuận khung hành
động. Theo đó, đề nghị Bộ Y tế đồng ý để Công ty Hellmann triển khai dự án trong
vòng 10 năm trên quy mô tối thiểu của cả nước là 100 bệnh viện. Tuy nhiên, đến nay
dự án vẫn đang vướng mắc về thủ tục lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo
nghiên cứu khả thi từ chính phía Công ty Hellmann. Xác định đây là dự án có lợi ích
xã hội rất cao và rất tiềm năng theo mô hình PPP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Y tế
cùng với các bộ, ngành, đơn vị liên quan đang nỗ lực thúc đẩy triển khai dự án này,
trong điều kiện phía nhà đầu tư phải đáp ứng các quy định hiện hành của Việt Nam.
Các dự án PPP đã và đang được nghiên cứu tại các địa phương:
TP. Hà Nội (02 dự án): Dự án đầu tư Vành đai 4 (QL3 đến QL32); Dự án hệ thống
cấp nước sông Đuống.
Tỉnh Thanh Hóa (02 dự án): Dự án cầu đường Nguyệt Viên; Dự án hệ thống xử lý
nước thải Khu kinh tế Nghi Sơn.
TP. Đà Nẵng (06 dự án): Dự án phát triển mạng lưới xe buýt thành phố; dự án xử
lý bùn trên địa bàn thành phố; dự án mở rộng hệ thống mạng Internet không dây công
cộng; Xây dựng nút giao thông khác mức tại nút ngã ba Huế; Xây dựng cảng Liên
Chiểu; Xây dựng bãi đỗ xe ngầm.
Tỉnh Đồng Nai (01 dự án): Dự án Đường liên cảng huyện Nhơn Trạch.
Tỉnh Sóc Trăng (01 dự án): Dự án Nâng cấp nhà máy xử lý nước thải tập trung
khu công nghiệp An Nghiệp.
Nhóm 6 – TC01 – K23 18
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Tỉnh Quảng Trị (03 dự án): Dự án xây dựng trung tâm hậu cần Đông Hà, cảng cạn
Lao Bảo; Dự án cấp nước sông Nhùng.
Các đề xuất nêu trên của các địa phương chủ yếu chỉ mới dừng lại ở mức đăng ký
tên dự án và chưa được thực hiện đề xuất với đầy đủ hồ sơ theo quy định tại Quyết
định 71 để có cơ sở nghiên cứu, triển khai các bước tiếp theo. Hiện tại, chỉ có dự án

Đường liên cảng huyện Nhơn Trạch thuộc tỉnh Đồng Nai và dự án Nâng cấp nhà máy
xử lý nước thải tập trung khu công nghiệp An Nghiệp thuộc tỉnh Sóc Trăng đang có
những bước phối hợp nghiên cứu, triển khai thực hiện cụ thể hơn.
Nhóm 6 – TC01 – K23 19
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng PPP tại Việt Nam
2.3.1 Những vấn đề trong cơ chế quản lý, điều phối vĩ mô về PPP
Khung pháp lý về phương thức PPP chưa đầy đủ, hoàn thiện. Văn bản hướng dẫn
cụ thể thiếu nên các dự án được đề xuất cũng không triển khai được hoặc không khả
thi. Đồng thời, cơ chế quản lý hiện nay đã khiến công tác điều phối vĩ mô về PPP rất
khó khăn, chồng chéo và đạt hiệu quả thấp.
Sự phối hợp giữa Văn phòng PPP thuộc Cục Quản lý Đấu thầu với các Bộ, ngành
khác có liên quan chưa được chặt chẽ và sự đóng góp của các Bộ, ngành khác trong
việc thúc đẩy hoàn thiện hóa khung pháp lý về PPP (tiêu biểu là sửa đổi QĐ 71 và
soạn thảo ban hành các Văn bản hướng dẫn) là tương đối hạn chế. Một số Bộ, ngành,
địa phương vẫn chưa thực sự thống nhất và đồng thuận trong việc thực hiện thí điểm
mô hình PPP. Bản thân sự tham gia của các Bộ, ngành có đại diện là thành viên Ban
Chỉ đạo còn chưa thực sự chủ động, khẩn trương.
Mục tiêu chính của việc phát triển phương thức PPP là để hướng tới thu hút các
nguồn vốn nước ngoài vào phát triển các dự án hạ tầng cần thiết cho Việt Nam trong
giai đoạn tới. Để có thể tạo dựng môi trường pháp lý đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực có rủi ro cao này, việc hướng các quy định pháp luật gần
hơn và bảo đảm đồng bộ, dễ hiểu, dễ thực thi theo chuẩn chung của quốc tế là đặc biệt
cần thiết nhưng cho đến nay sự tham gia của những luật gia và chuyên gia về luật từ
phía Việt Nam tham gia cùng với các tư vấn quốc tế trong việc soạn thảo sửa đổi
Quyết định 71 cũng như các văn bản hướng dẫn liên quan vẫn còn thiếu vắng.
Ở cấp địa phương, năng lực trong quản lý và điều phối về PPP càng đáng lo ngại.
Nhận thức về triển khai PPP chưa thực sự được coi là khác biệt, hấp dẫn hơn so với
các mô hình đầu tư truyền thống khác. Bản thân nhận thức của đội ngũ cán bộ làm
công tác vẫn chưa hiểu rõ bản chất và mục tiêu của mô hình PPP do là phương thức

mới, chưa có tiền lệ nên còn nhiều lúng túng trong cơ chế quản lý, áp dụng.
Nhóm 6 – TC01 – K23 20
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
2.3.2 Những vấn đề trong triển khai các dự án PPP
Việc lựa chọn áp dụng phương thức PPP cho một dự án đầu tư hạ tầng là một khó
khăn cho cả cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương và trung ương và có khả năng
gây lãng phí lớn nguồn lực công. Chính quyền ở cấp địa phương trong nhiều trường
hợp không tiên liệu được tất cả những chi phí có thể phát sinh. Do vậy, rất có khả năng
sẽ đề xuất áp dụng phương thức PPP tùy tiện trong khi nhiều dự án hoặc có quy mô
quá nhỏ, hoặc hoàn toàn có khả năng áp dụng các phương thức đầu tư giản tiện hơn.
Các Bộ, ngành và địa phương chưa đề xuất các dự án thực sự có tính thương mại, đủ
sức hấp dẫn các nhà đầu tư hoặc chất lượng chuẩn bị dự án kém.
Một số dự án có tính thương mại và hấp dẫn nhà đầu tư nhưng gặp những vấn đề
phức tạp, vướng mắc khác, khó triển khai như:
• Dự án tuyến đường trên cao số 1 ở TP. Hồ Chí Minh và dự án đoạn đường vành
đai 4 ở Hà Nội, đoạn từ quốc lộ 2 đến quốc lộ 32 là 2 dự án có tính thương mại
tốt do chi phí đầu tư và giải phóng mặt bằng thấp, cũng như lưu lượng giao
thông dự báo là cao nhưng việc thực hiện hai dự án này phải phụ thuộc vào việc
triển khai các dự án liên quan, điều tương tự cũng đang xảy ra với Dự án đường
liên cảng Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, đã làm giảm đi tính hấp dẫn của các dự
án.
• Dự án đường cao tốc Ninh Bình - Thanh Hóa, Nghi Sơn - Bãi Vọt, Biên Hòa -
Vũng Tàu, đã được nghiên cứu có tính khả thi cao, tuy nhiên vướng mắc do
đã chỉ định nhà đầu tư, nhà tài trợ,…
Một số dự án đã được triển khai dưới hình thức khác chuyển sang, thủ tục để giải
quyết việc chuyển đổi các dự án này là rất lớn và không đơn giản.
Việc đưa ra Hợp đồng dự án trong hồ sơ mời thầu là bước tiến trong quá trình
minh bạch hóa hoạt động đấu thầu, song việc bảo đảm tính giản tiện cho chấm thầu
bằng cách cố định các tiêu chí và chỉ để mở 1 tiêu chí để chấm thầu không thực sự tạo
điều kiện cho những hồ sơ dự thầu có hồ sơ kỹ thuật mang tính đột phá.

Cơ chế thẩm định đánh giá hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội còn lỏng
lẻo, mơ hồ, dễ dẫn tới phán đoán sai về hiệu quả của dự án.
Nhóm 6 – TC01 – K23 21
Tiểu luận Tài chính công GVHD: PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Quy trình sử dụng và hoàn trả vốn PDF còn khá phức tạp, khả năng nắm bắt và
thực hiện được quy trình này ở cấp địa phương không chắc chắn, trong khi việc tăng
cường đào tạo nâng cao năng lực cán bộ địa phương thực hiện được quy trình này sẽ
mất rất nhiều thời gian với hiệu quả không chắc chắn.
2.3.3 Những vấn đề trong xây dựng cơ chế hợp tác, xác định trách nhiệm, phân
chia lợi ích/ rủi ro giữa các bên, ưu đãi trong các dự án PPP
 Tỷ lệ đóng góp của nhà nước và tỷ lệ đóng góp tối thiểu vốn chủ sở hữu của
nhà đầu tư tư nhân
Theo Nghi định 108, tỷ lệ đóng góp vốn chủ sở hữu của nhà nước trong các dự án
được định nghĩa một cách không rõ ràng bao gồm một số yếu tố tính toán được và
không thể tính toán được mà Nhà Nước có thể cung cấp cho các dự án. Theo Quyết
định 71, một mức giới hạn 30% được áp dụng. Việc duy trì một mức giới hạn (có thể
là 30%, có thể là 49%) hoặc không đặt ra mức giới hạn này là một quyết định khó
khăn trong quá trình sửa đổi bởi những rủi ro mà các phương án này có thể gây nên.
Theo Quyết Định 71, vốn chủ sở hữu tối thiểu là 30%. Các phương án sửa đổi
đang đề xuất bỏ mức tối thiểu này ở mức thấp hơn (15%), đồng thời mở rộng phạm vi
cho phép vốn vay từ chủ sở hữu cũng được coi là vốn chủ sở hữu.
 Quy định phần giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ của phía Nhà nước là hợp lý
để nhằm tăng sức hấp dẫn của một dự án PPP, nhất là những dự án phục vụ lợi
ích công cộng và có thời gian thu hồi vốn dài với nhiều rủi ro.
Việc quy định nguồn vốn phục vụ công tác giải phóng mặt bằng sẽ lấy từ nguồn
ngân sách địa phương dường như không có tính khả thi cao. Bởi lẽ, những dự án đã
buộc phải chuyển đổi hoặc đề xuất dưới hình thức PPP chủ yếu do khả năng ngân sách
hạn chế của địa phương và khả năng cung cấp vốn cho hạng mục này tương đối thấp,
cũng như việc triển khai trong thực tế có thể phức tạp và kéo dài.
 Cơ chế tài phán chưa tạo đủ niềm tin cho nhà đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh

các luật về thực thi và bảo đảm hiệu lực thực hiện Hợp đồng dân sự còn nhiều lỗ
hổng và hiệu lực pháp lý chưa cao như hiện nay.
Nhóm 6 – TC01 – K23 22

×