Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
Đỗ THị THảO
TĂNG CƯờNG HUY ĐộNG TIềN GửI TạI NGÂN HàNG
THƯƠNG MạI Cổ PHầN CÔNG THƯƠNG VIệT NAM -
CHI NHáNH BắC Hà NộI
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính Ngân hàng
Ngời hớng dẫn khoa học:
gs.ts. phạm quang trung
hà nội, năm 2013
MỤC LỤC
hµ néi, n¨m 2013 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CHƯƠNG 2 31
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 32
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 32
CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 32
CHƯƠNG 3 64
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 64
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 64
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 64
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
hµ néi, n¨m 2013 1
hµ néi, n¨m 2013 1
MỤC LỤC 2
MỤC LỤC 2
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
CHƯƠNG 1 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CHƯƠNG 2 31
CHƯƠNG 2 31
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 32
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 32
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 32
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 32
CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 32
CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 32
CHƯƠNG 3 64
CHƯƠNG 3 64
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 64
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 64
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 64
TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 64
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 64
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 64
KẾT LUẬN 91
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, trong
những năm qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho
phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn
vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh
tế, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.Trong bối cảnh thị trường tiền tệ
trong nước đặc biệt là thị trường vàng hiện nay đang có những diễn biến
phức tạp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn tiền gửi, khả năng
thanh toán của các NHTM nói chung trong đó có NHTMCP Công
Thương Việt Nam – CN Bắc Hà Nội. Bởi vậy tăng cường huy động tiền
gửi dân cư không chỉ hỗ trợ nhu cầu vốn của các doanh nghiệp SXKD
mà còn đảm bảo tính thanh khoản cho các NHTM.
Xuất phát từ thực tế đó, đề tài: “Tăng cường huy động tiền gửi tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi
nhánh Bắc Hà Nội” được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp những lý luận chung về huy động tiền gửi tại
NHTM để phân tích, đánh giá thực trạng huy động tiền gửi dân cư tại
Vietinbank – CN Bắc Hà Nội trong thời gian qua, đề xuất những giải pháp
nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại Vietinbank CN Bắc Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên giác độ của ngân hàng thương mại với
hoạt động huy động tiền gửi dân cư và tiền gửi tổ chức kinh tế của ngân
hàng thương mại.
1
Phạm vi nghiên cứu: Huy động tiền gửi Vietinbank- Chi nhánh Bắc
Hà Nội giai đoạn 2010 đến 2012. Đề xuất giải pháp cho đến năm 2020.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận văn
là phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp số liệu, nghiên cứu tài
liệu các loại để so sánh, phân tích, đánh giá huy động tiền gửi tại
Vietinbank -CN Bắc Hà Nội
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm, đặc trưng của ngân hàng thương mại
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, chuyên kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng đồng thời giữ vai trò là kênh cung ứng vốn chủ yếu
và hữu hiệu nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để đưa ra khái niệm về
NHTM phải căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động của ngân hàng
đó trên thị trường. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau và để có thể
phân biệt các NHTM với các định chế tài chính phi ngân hàng khác, việc
đưa ra khái niệm về NHTM trên phương diện những loại hình dịch vụ
mà chúng cung cấp được xem là cách tiếp cận thận trọng nhất. Theo đó:
Ngân hàng thương mi là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục và dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán, đồng thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2 Các chức năng của NHTM
Có thể nói đặc trưng quan trọng nhất của NHTM là trung gian tài
chính, có vai trò như một cầu nối giữa người muốn tiết kiệm và người
muốn đầu tư. Thông qua NHTM sẽ giúp những người tiết kiệm và
những người đầu tư tiết kiệm được chi phí giao dịch so với tín dụng trực
tiếp do không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian….Với vai trò
trung gian của mình, ngân hàng chuyển các khoản tiết kiệm của cá nhân,
3
tổ chức thành các khoản tín dụng cho cá nhân, tổ chức khác để đầu tư
vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. Do chuyên môn hoá, trung gian
tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến
khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng
thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài
chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết
được mâu thuẫn tín dụng trực tiếp.
Thứ hai, là to phương tiện thanh toán: Ban đầu, ngân hàng thông qua
việc phát hành giấy nhận nợ đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho
tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu
thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương
tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Ngoài việc
in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy
nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền
giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung
ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy
bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, ngân hàng có
thể thay mặt khách hàng thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ
nếu họ có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán. Theo quan điểm
hiện đại, đại lượng tiền tệ gồm nhiều bộ phận: tiền giấy trong lưu thông
(Mo), số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân
hàng và tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiết gửi có kỳ
han…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch
vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra
4
phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân
hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở
rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi
khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả sẽ tạo
nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó
tạo ra các khoản cho vay mới.
Thứ ba, là Trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh
toán là điều tất yếu cho sự phát triển của công nghệ và cuộc sống ngày
càng hiện đại. Khách hàng nhờ ngân hàng thanh toán thông qua việc sử
dụng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…khiến cho việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí. Ngân hàng có mạng lưới
thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
1.1.3 Hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. NHTM tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho
vay lại. Hàng hoá của NHTM là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền
vốn. Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi
suất huy động và lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung-
cầu về vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi
đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận chủ yếu của
hoạt động ngân hàng sẽ là chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với
thu nhập từ lãi cho vay. Ngân hàng phải đưa ra các mức lãi suất hợp lý
cũng như đa dạng các hình thức huy động.
5
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm
phân tán, giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh NHTM thực hiện các
dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng.
Nền kinh tế ngày càng phát triển cao, hoạt động của các NHTM
càng đi sâu phục vụ mọi hoạt động của đời sống kinh tế của đất nước.
Tùy điều kiện kinh tế và trình độ phát triển của mỗi nước, các nghiệp vụ
kinh doanh của NHTM có thể khác nhau ở phạm vi hoạt động và trình
độ công nghệ, nhưng nhìn chung hoạt động của NHTM bao gồm 3
mảng chính sau đây:
1.1.3.1 Huy động vốn
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc
huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác. Thực chất vốn ngân hàng huy động là một bộ phận thu nhập
quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu
dùng. Người chủ sở hữu của nó gửi vào ngân hàng với mục đích thanh
toán, tiết kiệm hay đầu tư. Với các mục đích đó họ đã chuyển nhượng
vốn cho ngân hàng và từ đó ngân hàng cung cấp dịch vụ cũng như trả lại
cho họ một khoản thu nhập nhất định.
Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối
lại vốn dưới hình thức tiền tệ, góp phần làm tăng nhanh quá trình luân
chuyển vốn kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Chính những
hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
a. Huy động vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ
ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng
6
có thể sử dụng lâu dài, hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ
theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và
sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thương
mại đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật
và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài. Vốn chủ sở hữu của
NHTM bao gồm nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung
trong quá trình hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi
thành cổ phần.
b. Huy động vốn nợ Vốn nợ gồm tiền gửi (của các TCKT, của dân cư)
và tiền vay (vay NHNN, vay trên thị trường LNH).
- Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở
các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và
của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn vốn nợ của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh và để có được nguồn tiền gửi có chất lượng ngày càng cao, các ngân
hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Mỗi hình
thức huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng
nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của các doanh nghiệp, các
tổ chức và hộ gia đình trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán.
+ Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân
gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm
7
vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều
được ngân hàng thực hiện.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức: Nhiều khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau
một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trong việc
thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người
gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi
không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán
để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải
đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng
hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi
suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có khoản
thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều
kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm
nhằm thực hiện mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiền tiết
kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền
tiết kiệm, các ngân hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ
vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra
các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh
toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi
tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
- Tiền vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thương mại
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường đi vay thêm. Tại nhiều nước, ngân
8
hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và
vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể
phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động
vốn bị hạn chế
+ Vay Ngân hàng Trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết
nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường
hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng
thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu
của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Ngân hàng
nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương
mại phải phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay
lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân
hàng. Nguồn vay từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và
chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay từ ngân hàng Trung ương
+ Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các
ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường vốn. Rât nhiều ngân hàng thương
mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung
và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho
vay và đầu tư trung và dài hạn.
1.1.3.2 Cho vay và đầu tư
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu
mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các
9
khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho
vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để
mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình, bởi họ tin rằng các khoản cho vay
tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người
tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát
triển.
Bên cạnh cho vay ngắn hạn truyền thống, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn như tài trợ các
dự án xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Rủi ro trong
tài trợ các dự án này nói chung là cao song có khả năng thu được lãi cao
hơn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động sản….
1.1.3.3 Các hot động khác
a. Cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo
quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua
ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích
của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác,
tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao
thu nhập cho khách hàng. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền
vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Các hình thức thanh
toán qua ngân hàng gồm séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, các loại thẻ….
10
Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc
thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý
ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một
doanh nghiệp, tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
b. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính, NHTM còn thực hiện một số hoạt
động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh
doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, tài trợ các
hoạt động của Chính phủ, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ uỷ thác
và đại lý, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ
bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ
khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
1.2 HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm huy động tiền gửi
Huy động tiền gửi của NHTM là hot động thu hút nguồn tiền nhàn
rỗi của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội dưới
dng mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho họ.
Ngân hàng huy động tiền gửi của khách hàng chỉ có quyền sử dụng
mà không có quyền sở hữu với nguồn tiền gửi này và phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách
hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền
gửi này để cho vay, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác.
Nguồn tiền gửi mà ngân hàng huy động được luôn biến động nên
ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp
lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
11
Huy động tiền gửi của NHTM bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các hình thức huy
động, lãi suất, các dịch vụ đi kèm…Tại các thành phố lớn, nơi tập trung
tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành khách hàng gửi tiền lớn.
Trong môi trường cạnh tranh, huy động tiền gửi của NHTM càng
trở nên khó khăn hơn., các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau. Các hình thức huy động tiền gửi khác nhau đó
là: mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Loại tiền huy động
có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ. Đối tượng khách hàng mà ngân hàng huy
động tiền gửi có thể là doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư.
1.2.2 Mục tiêu huy động tiền gửi
Mục tiêu chung của hoạt động huy động tiền gửi của NHTM
không nằm ngoài mục tiêu chung của hoạt động ngân hàng là an toàn và
sinh lợi. Mục tiêu cụ thể của hoạt động huy động tiền gửi của NHTM
như sau:
• Tìm kiếm các nguồn tiền gửi nhằm đáp ứng yêu cầu về quy mô
cho vay và đầu tư;
• Đa dạng hóa các nguồn tiền gửi nhằm tím kiếm cơ cấu nguồn
tiền gửi có chi phí thấp nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng;
• Duy trì tính ổn định của nguồn tiền gửi;
• Tìm kiếm các công cụ nợ mới nhằm phát triển thị trường nợ
của ngân hàng.
12
1.2.3 Các hình thức huy động tiền gửi
1.2.3.1. Huy động bằng hình thức tiền gửi thanh toán cá nhân
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho doanh nghiệp
hoặc cá nhân để giữ hộ và thanh toán hộ cho họ.
Nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng
thực hiện trong phạm vi số dư cho phép.
Khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn
yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi dùng để đảm
bảo trong thanh toán.
Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể
được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền gửi này rất thấp (hoặc bằng
không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân
hàng với mức phí thấp.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện
thanh toán dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền….Một
số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay
(thấu chi- chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán).
Như vậy, các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn
trong việc bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá
dịch vụ, ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và
một số dịch vụ miễn phí. Còn đối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi
phí cho việc theo dõi các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và
một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn nhưng nó được bù đắp lại
bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không
13
cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của
mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong
một thời gian dài, số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ
mới được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh
nghiệp, cá nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền
gửi này ngày càng gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết
sức quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn
này cũng không nhỏ.
1.2.3.2 Huy động bằng hình thức tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm dân cư là khoản tiền của cá nhân gửi vào tài
khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng
lãi suất theo quy định của ngân hàng và được bảo hiểm theo quy định về
bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi tiết kiệm có nhiều loại, có thể phân theo
nhiều hình thức khác nhau
a. Theo kỳ hạn
Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa
ra hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi thanh toán tuy rất
thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất thấp. Do đó, nhiều
doanh nghiệp và tổ chức xã hội có khoản tiền nhàn rỗi gửi có kỳ hạn vào
ngân hàng và sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định cả gốc và lãi.
Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán,
tuỳ theo độ dài của kỳ hạn mà có các mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
khác nhau.
14
Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với
loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút
tiền ra. Nhưng nếu rút trước hạn, khách hàng sẽ không được hưởng lãi
suất tiền gửi có kỳ hạn ban đầu, có thể được hưởng lãi suất phạt thấp
hơn lãi suất gửi hoặc được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Như vậy, loại tiền gửi này không thuận tiện cho tiêu dùng bằng
hình thức tiền gửi thanh toán.
Do tính chất của loại tiền gửi này tương đối ổn định, ngân hàng có thể
sử dụng phần lớn số dư loại tiền vốn này để cho vay trung và dài hạn.
Nếu nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy
động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá
trình kinh doanh.
Các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu
tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các NHTM có nhiều loại tiền gửi có kỳ
hạn có mức lãi suất khác nhau. Thông thường thời hạn càng dài thì lãi
suất càng cao.
Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài,
vì loại tiền này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh
b. Theo loại tiền tệ
- Tiết kiệm nội tệ: là các khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng bản
tệ, loại tiền gửi tiết kiệm này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn tiền gửi tiết kiệm của các NHTM.
- Tiết kiệm ngoại tệ: Là các khoản tiền gửi bằng các đồng ngoại tệ
mạnh như USD, EUR và các loại ngoại tệ khác tùy mục tiêu của từng
NHTM.
15
- Tiết kiệm bằng vàng: Là hình thức tiền gửi tiết kiệm mà tiền gốc
khách hàng gửi vào tài khoản tiết kiệm là vàng miếng tiêu chuẩn.
c. Theo phương thức trả lãi
- Tiết kiệm trả lãi sau: Là hình thức tiết kiệm mà lãi được trả một
lần khi đến hạn. Tiền lãi được trả bằng tiền mặt, chuyển khoản sang tài
khoản đăng ký hoặc nhập vào gốc. Trường hợp vào ngày đáo hạn khách
hàng không đến giao dịch ngân hàng sẽ tự động chuyển số tiền tiết
kiệm của khách hàng sang kỳ hạn mới tương ứng (nếu đăng ký tiền lãi
lĩnh bằng tiền mặt, ngân hàng sẽ không chuyển số lãi sang kỳ hạn tiếp
theo mà khách hàng có thể lĩnh số tiền lãi này bất kỳ lúc nào. Nếu đăng
ký trả lãi bằng chuyển khoản, tiền lãi được tự động chuyển vào tài
khoản người gửi đã đăng ký trước. Nếu đăng ký lãi nhập gốc ngân hàng
tự động nhập lãi vào gốc và chuyển toàn bộ số dư lãi và gốc sang kỳ
hạn mới tương ứng).
- Tiết kiệm trả lãi trước: Là hình thức tiết kiệm mà khách hàng
được trả lãi ngay khi gửi tiền. Khi đến hạn khách hàng sẽ được lĩnh phần
gốc đúng như số tiền ghi trên sổ/thẻ tiết kiệm. Nếu khách hàng rút vốn
trước hạn thì ngân hàng sẽ giải quyết theo quy định về sản phẩm.
- Tiết kiệm trả lãi định kỳ: Là hình thức tiết kiệm trả lãi theo từng
kỳ hạn mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận. Định kỳ trả lãi có thể
là 1 tháng, 3 tháng….Đến kỳ lĩnh lãi, khách hàng có thể lĩnh lãi bằng
tiền mặt hoặc chuyển khoản vào tài khoản đã đăng ký với ngân hàng.
- Tiết kiệm lãi suất cố định: Là hình thức tiết kiệm trả lãi cố định
trong suốt kỳ hạn gửi tiền, lãi suất không thay đổi theo biến động của lãi
suất trên thị trường.
16
- Tiết kiệm lãi suất thả nổi: Là hình thức tiết kiệm lãi suất được
điều chỉnh theo định kỳ trong suốt kỳ hạn gửi tiền. Định kỳ điều chỉnh
lãi suất có thể từ 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng… đến 1 năm.
d. Theo phương thức gửi gốc
- Tiết kiệm gửi một lần: Là loại tiền gửi tiết kiệm mà khách hàng
chỉ gửi tiền vào NH một lần từ thời điểm gửi cho đến khi đáo hạn. Với
hình thức này, NH không tốn nhiều chi phí quản lý do số dư tài khoản
của NH không biến động.
- Tiết kiệm gửi nhiều lần hay tiết kiệm gửi góp: Là hình thức tiết
kiệm mà khách hàng nộp tiền vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm theo định
kỳ đã đăng ký với NH. Số tiền gửi từng lần có thể là cố định hoặc thay
đổi theo khả năng của khách hàng và quy định của ngân hàng.
e. Theo loại hình tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người
muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu
cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại
tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm
được hưởng bảo hiểm theo quy định về bảo hiểm tiền gửi. Trong khi chi
phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiện gửi tiết
kiệm nói chung là thấp. Tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn đã
được ngân hàng cung cấp trong nhiều thập kỷ. Vốn huy động từ tiền gửi
tiết kiệm thường chiểm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. Tiền
gửi tiết kiệm bao gồm hai loại là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn.
17
- Tiết kiệm không kỳ hn: Đây là khoản tiền gửi có lãi suất rất thấp
thông thường là bằng lãi suất tiền gửi thanh toán. Khách hàng có thể rút
tiền bất kỳ lúc nào mà không cần báo trước. Khi có nhu cầu khách hàng
có thể rút một phần hoặc toàn bộ sổ tiết kiệm.
- Tiết kiệm có kỳ hn: Đây là loại hình tiết kiệm khá quen thuộc ở
nước ta. Các ngân hàng thường huy động tiết kiệm với nhiều kỳ hạn
khác nhau (từ 7 ngày, 14 ngày, 1 tháng ….60 tháng). Về nguyên tắc khi
khách hàng gửi tiền theo hình thức này thì sẽ không được rút trước hạn.
Tuy nhiên để tăng sức cạnh tranh mà các ngân hàng vẫn cho khách hàng
rút trước hạn đối với khoản tiền gửi này. Nhưng khi rút trước hạn khách
hàng sẽ chỉ được hưởng một phần lãi của sổ có thể là lãi suất bằng với
lãi suất tài khoản thanh toán hoặc không được hưởng lãi. Trong thời hạn
gửi tiền thì khách hàng không được gửi thêm vào sổ tiết kiệm mà phải
chờ đến ngày đáo hạn của sổ. Đến kỳ hạn, nếu khách hàng không ra lĩnh
tiền thì ngân hàng sẽ tự động gia hạn một kỳ hạn mới cho khách hàng
với lãi suất tại thời điểm đáo hạn. Nhằm thu hút được ngày càng nhiều
tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay
đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở rộng mạng lưới
huy động, đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều
trương mục tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau.
1.2.3.3. Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá
Đây là hình thức ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát
hành chứng chỉ có giá trị bao gồm chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái
phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định,
18
trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Các loại phiếu nợ này được
các ngân hàng phát hành từng đợt tùy theo mục đích nhất định.
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi này có ý nghĩa quan trọng
trong việc quản lý tài sản nợ hơn là biện pháp để các ngân hàng thương
mại huy động vốn bởi nó chỉ được sử dụng khi cận thiết. Mức lãi suất trả
cho các chứng chỉ loại này được quy định ở mức mà người gửi tiền có
thể chấp nhận được. Điều đáng chú ý là những người mua chứng chỉ loại
này thường rất quan tâm đến lãi suất và đặc biệt nhạy cảm với lãi suất.
Và ngân hàng thường phải đưa ra mức lãi suất cao hơn so với lãi suất
tiền gửi tiết kiệm.
Thông thường khi huy động vốn bằng hình thức này các ngân
hàng thường có định mức sẵn về khối lượng vốn cần huy đông, thời gian
huy động, lãi suất huy động và phương pháp huy động. Khi đã đủ khối
lượng vốn cần huy động các ngân hàng có thể dừng trước thời gian huy
động của chương trình.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như tài trợ cho
các hoạt động của Chính phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn,
môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
đại lý chi trả tiền
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả huy động vốn tiền gửi của NHTM
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi của NHTM.
Song, để đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi của NHTM không thể
đánh giá qua một chỉ tiêu mà phải kết hợp tất cả các chỉ tiêu. Bài viết
này chỉ xin đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi của NHTM dưới góc độ
một ngân hàng.
19
1.2.4.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi của NHTM
Quy mô nguồn tiền gửi huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử
dụng vốn. Nếu ngân hàng huy động được quá nhiều tiền gửi, song lại
không cho vay, đầu tư hết thì ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng ứ đọng
vốn và có nguy cơ bị thua lỗ. Nếu lượng tiền gửi huy động được không
đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn thì ngân hàng sẽ phải bỏ qua nhiều cơ
hội để cho vay và đầu tư tức là bỏ mất một phần thu nhập. Vì vậy, quy
mô nguồn tiền gửi không chỉ đảm bảo gia tăng về mặt số lượng mà còn
phải đảm bảo phù hợp với tính hình sử dụng vốn. Quy mô nguồn tiền
gửi không chỉ được thể hiện thông qua sự gia tăng về số lượng tuyệt đối
mà còn được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của nguồn tiền gửi. Ta có các
chỉ tiêu sau:
Tốc độ tăng trưởng của nguồn
tiền gửi năm i (%)
=
Nguồn tiền gửi năm i
Nguồn tiền gửi năm i -1
- 1
Tốc độ tăng trưởng có thể tính cho cả nguồn tiền gửi huy động
cũng như đối với từng loại tiền gửi cụ thể. Nó phản ánh sự biến động của
từng loại tiền gửi. Việc sử dụng chỉ tiêu này kết hợp với tỷ trọng từng
nguồn tiền gửi sẽ giúp ngân hàng đánh giá một cách đầy đủ, chính xác
về khả năng huy động tiền gửi của NHTM.
Huy động tiền gửi của ngân hàng đạt hiệu quả khi nguồn tiền gửi
có sự tăng trưởng ổn định (nguồn tiền gửi tăng đều qua các năm; nguồn
tiền gửi năm sau lớn hơn nguồn tiền gửi năm trước, tốc độ tăng trưởng
qua các năm xấp xỉ nhau); thoả mãn nhu cầu sử dụng, điển hình là nhu
cầu tín dụng và đầu tư.
20
1.2.4.2 Cơ cấu nguồn tiền gửi huy động
Nguồn tiền gửi có quy mô và tốc độ tăng trưởng lớn và ổn định
chưa đủ để đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi mà còn phải xem xét tới
cơ cấu nguồn tiền gửi. Dựa trên tiêu chí phân loại khác nhau thì nguồn
tiền gửi cũng được chia thành các loại khác nhau theo thời gian, theo đối
tượng khách hàng và theo loại tiền tệ. Cơ cấu nguồn tiền gửi thể hiện ở
tỷ trọng từng loại tiền gửi trong tổng nguồn tiền gửi. Nó được tính theo
công thức sau:
- Tỷ trọng của nguồn tiền gửi i = (Nguồn tiền gửi i / Tổng nguồn tiền
gửi)*100.
Có thể chia nguồn tiền gửi theo các tiêu chí sau:
• Cơ cấu nguồn tiền gửi theo thời gian:
+ Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng (tiền gửi ngắn
hạn).
+ Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng (tiền gửi trung và dài hạn).
Cơ cấu nguồn tiền gửi theo thời gian phản ánh kỳ hạn của nguồn
tiền gửi. Kỳ hạn của nguồn tiền gửi liên quan tới tính ổn định của nguồn
tiền gửi. Khi tiền gửi trung và dài hạn có quy mô và tỷ trọng lớn có thể
nói rằng nguồn tiền gửi ổn định về mặt thời gian. Kỳ hạn của nguồn tiền
gửi liên quan tới tính ổn định và vì vậy liên quan tới kỳ hạn sử dụng. Để
cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng cần có khả năng duy trì tính ổn
định của nguồn tiền.
• Cơ cấu nguồn tiền gửi theo đối tượng khách hàng:
+ Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
21