MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 2
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 26
– CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 26
CHƯƠNG 3 54
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 54
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 54
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỤC LỤC 1
MỤC LỤC 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 2
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 2
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
CHƯƠNG 1 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 26
– CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 26
– CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 26
CHƯƠNG 3 54
CHƯƠNG 3 54
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 54
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM 54
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 54
- CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 54
KẾT LUẬN 78
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua
ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nói riêng
đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường
công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với
các thành phần kinh tế, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.Trong bối cảnh thị trường
tiền tệ trong nước đặc biệt là thị trường vàng hiện nay đang có những diễn biến
phức tạp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn tiền gửi, khả năng thanh toán
của các NHTM nói chung trong đó có NHTMCP Công Thương Việt Nam – CN
Bắc Hà Nội. Bởi vậy tăng cường huy động tiền gửi dân cư không chỉ hỗ trợ nhu cầu
vốn của các doanh nghiệp SXKD mà còn đảm bảo tính thanh khoản cho các
NHTM.
Xuất phát từ thực tế đó, đề tài: “Tăng cường huy động tiền gửi tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội” được
lựa chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp những lý luận chung về huy động tiền gửi tại NHTM để
phân tích, đánh giá thực trạng huy động tiền gửi dân cư tại Vietinbank – CN Bắc Hà
Nội trong thời gian qua, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường huy động tiền
gửi tại Vietinbank CN Bắc Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên giác độ của ngân hàng thương mại với hoạt động
huy động tiền gửi dân cư và tiền gửi tổ chức kinh tế của ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Huy động tiền gửi Vietinbank- Chi nhánh Bắc Hà Nội
giai đoạn 2010 đến 2012. Đề xuất giải pháp cho đến năm 2020.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các
phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận văn là phương pháp thống kê,
1
phương pháp tổng hợp số liệu, nghiên cứu tài liệu các loại để so sánh, phân tích,
đánh giá huy động tiền gửi tại Vietinbank -CN Bắc Hà Nội
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt
Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP
Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm, đặc trưng của ngân hàng thương mại
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
tín dụng đồng thời giữ vai trò là kênh cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu nhất trong
nền kinh tế. Tuy nhiên, để đưa ra khái niệm về NHTM phải căn cứ vào tính chất và
mục đích hoạt động của ngân hàng đó trên thị trường. Mặc dù có nhiều cách tiếp
cận khác nhau và để có thể phân biệt các NHTM với các định chế tài chính phi ngân
hàng khác, việc đưa ra khái niệm về NHTM trên phương diện những loại hình dịch
vụ mà chúng cung cấp được xem là cách tiếp cận thận trọng nhất. Theo đó: Ngân
hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, đồng
thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.
1.1.2 Các chức năng của NHTM
Có thể nói đặc trưng quan trọng nhất của NHTM là trung gian tài chính, có
vai trò như một cầu nối giữa người muốn tiết kiệm và người muốn đầu tư. Thông
qua NHTM sẽ giúp những người tiết kiệm và những người đầu tư tiết kiệm được chi
phí giao dịch so với tín dụng trực tiếp do không phù hợp về quy mô, thời gian,
không gian….Với vai trò trung gian của mình, ngân hàng chuyển các khoản tiết
kiệm của cá nhân, tổ chức thành các khoản tín dụng cho cá nhân, tổ chức khác để
đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. Do chuyên môn hoá, trung gian tài
chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm,
đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư)
từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm
và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn tín dụng trực tiếp.
3
Thứ hai, là tạo phương tiện thanh toán: Ban đầu, ngân hàng thông qua việc phát
hành giấy nhận nợ đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên
số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân
hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó
trở thành tiền giấy. Ngoài việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in)
tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ
đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, ngân hàng có thể thay
mặt khách hàng thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ nếu họ có đủ số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ gồm
nhiều bộ phận: tiền giấy trong lưu thông (Mo), số dư trên tài khoản tiền gửi giao
dịch của các khách hàng tại ngân hàng và tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết
kiệm, tiết gửi có kỳ han…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch
vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương
tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương
tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân
hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản
tiền vay để chi trả sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng
khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.
Thứ ba, là Trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán là
điều tất yếu cho sự phát triển của công nghệ và cuộc sống ngày càng hiện đại.
Khách hàng nhờ ngân hàng thanh toán thông qua việc sử dụng séc, uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, các loại thẻ…khiến cho việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí. Ngân hàng có mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung
cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ
với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh
toán.
4
1.1.32 Hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ. NHTM tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. Hàng hoá
của NHTM là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá
này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay, nó chịu
tác động bởi quan hệ cung- cầu về vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận
đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận chủ yếu của
hoạt động ngân hàng sẽ là chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ
lãi cho vay. Ngân hàng phải đưa ra các mức lãi suất hợp lý cũng như đa dạng các
hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán,
giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh NHTM thực hiện các dịch vụ trung gian
hưởng hoa hồng.
Nền kinh tế ngày càng phát triển cao, hoạt động của các NHTM càng đi sâu
phục vụ mọi hoạt động của đời sống kinh tế của đất nước. Tùy điều kiện kinh tế và
trình độ phát triển của mỗi nước, các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM có thể khác
nhau ở phạm vi hoạt động và trình độ công nghệ, nhưng nhìn chung hoạt động của
NHTM bao gồm 3 mảng chính sau đây:
1.1.2.1 Huy động vốn
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực
chất vốn ngân hàng huy động là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Người chủ sở hữu của nó gửi vào
ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Với các mục đích đó họ
đã chuyển nhượng vốn cho ngân hàng và từ đó ngân hàng cung cấp dịch vụ cũng
như trả lại cho họ một khoản thu nhập nhất định.
Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn
dưới hình thức tiền tệ, góp phần làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Chính những hoạt động đó lại quyết định sự
5
tồn tại và phát triển của ngân hàng.
a. Huy động vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài,
hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của
chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu của một
ngân hàng thương mại đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động
thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài. Vốn chủ sở hữu của
NHTM bao gồm nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình
hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
b. Huy động vốn nợ Vốn nợ gồm tiền gửi (của các TCKT, của dân cư) và tiền vay
(vay NHNN, vay trên thị trường LNH).
- Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng
huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
nợ của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được
nguồn tiền gửi có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau. Mỗi hình thức huy động tiền gửi mà ngân
hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với
nhu cầu của các doanh nghiệp, các tổ chức và hộ gia đình trong việc tiết kiệm và
thực hiện thanh toán.
+ Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào
ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép,
các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức: Nhiều khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác
6
định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trong việc thanh toán song lãi suất lại
thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình
thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán
đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu,
người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng
bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao
hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập
tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp
cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu bảo toàn và
sinh lời đối với các khoản tiền tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi
thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa
ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng
khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
- Tiền vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thương mại
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, khi cần, ngân hàng thường đi vay thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng Trung
ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy
nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu
cầu chi trả khi khả năng huy động vốn bị hạn chế
+ Vay Ngân hàng Trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ
(dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng
nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Ngân hàng nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt
chẽ; ngân hàng thương mại phải phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát
nhất định.
7
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay lẫn nhau
và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay từ
các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong nhiều
trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay từ ngân hàng Trung ương
+ Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng
cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu)
trên thị trường vốn. Rât nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và
dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền
gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
1.1.2.2 Cho vay và đầu tư
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho
ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản
xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình, bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong
cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm
năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một
trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế
phát triển.
Bên cạnh cho vay ngắn hạn truyền thống, các ngân hàng ngày càng trở nên
năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn như tài trợ các dự án xây dựng nhà máy,
phát triển ngành công nghệ cao. Rủi ro trong tài trợ các dự án này nói chung là cao
song có khả năng thu được lãi cao hơn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư
vào bất động sản….
1.1.2.3 Các hoạt động khác
a. Cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà
8
còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở
đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng
tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn
thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Điều này đã khuyến
khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Các hình
thức thanh toán qua ngân hàng gồm séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, các loại thẻ….
Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân,
nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một doanh nghiệp, tiến hành đầu tư
phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn
cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
b. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính, NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác như
góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh
vàng, kinh doanh bất động sản, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ uỷ thác và đại lý, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và
các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
1.2 HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm huy động tiền gửi
Huy động tiền gửi của NHTM là hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của
các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội dưới dạng mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho họ.
Ngân hàng huy động tiền gửi của khách hàng chỉ có quyền sử dụng mà không
có quyền sở hữu với nguồn tiền gửi này và phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và
lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn.
Ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền gửi này để cho vay, đầu tư và các hoạt động
kinh doanh khác.
Nguồn tiền gửi mà ngân hàng huy động được luôn biến động nên ngân hàng
không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả
năng thanh toán.
9
Huy động tiền gửi của NHTM bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như địa điểm ngân
hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các hình thức huy động, lãi suất, các
dịch vụ đi kèm…Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập
cao, hình thành khách hàng gửi tiền lớn.
Trong môi trường cạnh tranh, huy động tiền gửi của NHTM càng trở nên khó
khăn hơn., các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác
nhau. Các hình thức huy động tiền gửi khác nhau đó là: mở tài khoản tiền gửi thanh
toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn. Loại tiền huy động có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ. Đối tượng khách hàng mà
ngân hàng huy động tiền gửi có thể là doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư.
1.2.2 Mục tiêu huy động tiền gửi
Mục tiêu chung của hoạt động huy động tiền gửi của NHTM không nằm
ngoài mục tiêu chung của hoạt động ngân hàng là an toàn và sinh lợi. Mục tiêu cụ
thể của hoạt động huy động tiền gửi của NHTM như sau:
• Tìm kiếm các nguồn tiền gửi nhằm đáp ứng yêu cầu về quy mô cho vay và
đầu tư;
• Đa dạng hóa các nguồn tiền gửi nhằm tím kiếm cơ cấu nguồn tiền gửi có
chi phí thấp nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng;
• Duy trì tính ổn định của nguồn tiền gửi;
• Tìm kiếm các công cụ nợ mới nhằm phát triển thị trường nợ của ngân
hàng.
1.2.3 Các hình thức huy động tiền gửi
1.2.3.1. Huy động bằng hình thức tiền gửi thanh toán cá nhân
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho doanh nghiệp hoặc cá nhân
để giữ hộ và thanh toán hộ cho họ.
Nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện
trong phạm vi số dư cho phép.
Khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu
đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán.
10
Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập
vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền gửi này rất thấp (hoặc bằng không), thay
vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán
dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền….Một số ngân hàng kết hợp
tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có
của tài khoản tiền gửi thanh toán).
Như vậy, các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc
bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài ra khách
hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí. Còn đối
với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho việc theo dõi các nghiệp vụ phát sinh,
chi phí phát hành séc và một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn nhưng nó
được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra
không cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình
trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài,
số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới được
ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân mở tài
khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng gia tăng. Đó là
những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi
nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng không nhỏ.
1.2.3.2 Huy động bằng hình thức tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm dân cư là khoản tiền của cá nhân gửi vào tài khoản tiền
gửi tiết kiệm, được xác định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi suất theo quy định
của ngân hàng và được bảo hiểm theo quy định về bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi tiết
kiệm có nhiều loại, có thể phân theo nhiều hình thức khác nhau
a. Theo kỳ hạn
Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình
11
thức huy động tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt
động thanh toán song lãi suất thấp. Do đó, nhiều doanh nghiệp và tổ chức xã hội có
khoản tiền nhàn rỗi gửi có kỳ hạn vào ngân hàng và sẽ được chi trả sau một thời
gian nhất định cả gốc và lãi.
Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán, tuỳ theo
độ dài của kỳ hạn mà có các mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn khác nhau.
Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại tiền gửi
này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Nhưng nếu rút
trước hạn, khách hàng sẽ không được hưởng lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ban đầu, có
thể được hưởng lãi suất phạt thấp hơn lãi suất gửi hoặc được hưởng lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn.
Như vậy, loại tiền gửi này không thuận tiện cho tiêu dùng bằng hình thức tiền
gửi thanh toán.
Do tính chất của loại tiền gửi này tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn số dư loại tiền vốn này để cho vay trung và dài hạn.
Nếu nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ
tạo điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh.
Các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi
của khách hàng. Hiện tại các NHTM có nhiều loại tiền gửi có kỳ hạn có mức lãi
suất khác nhau. Thông thường thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền
này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh
.b. Theo loại tiền tệ
- Tiết kiệm nội tệ: là các khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng bản tệ, loại tiền
gửi tiết kiệm này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền gửi tiết kiệm của
các NHTM.
- Tiết kiệm ngoại tệ: Là các khoản tiền gửi bằng các đồng ngoại tệ mạnh như
USD, EUR và các loại ngoại tệ khác tùy mục tiêu của từng NHTM.
- Tiết kiệm bằng vàng: Là hình thức tiền gửi tiết kiệm mà tiền gốc khách
12
hàng gửi vào tài khoản tiết kiệm là vàng miếng tiêu chuẩn.
c. Theo phương thức trả lãi
- Tiết kiệm trả lãi sau: Là hình thức tiết kiệm mà lãi được trả một lần khi đến
hạn. Tiền lãi được trả bằng tiền mặt, chuyển khoản sang tài khoản đăng ký hoặc
nhập vào gốc. Trường hợp vào ngày đáo hạn khách hàng không đến giao dịch ngân
hàng sẽ tự động chuyển số tiền tiết kiệm của khách hàng sang kỳ hạn mới tương
ứng (nếu đăng ký tiền lãi lĩnh bằng tiền mặt, ngân hàng sẽ không chuyển số lãi sang
kỳ hạn tiếp theo mà khách hàng có thể lĩnh số tiền lãi này bất kỳ lúc nào. Nếu đăng
ký trả lãi bằng chuyển khoản, tiền lãi được tự động chuyển vào tài khoản người gửi
đã đăng ký trước. Nếu đăng ký lãi nhập gốc ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và
chuyển toàn bộ số dư lãi và gốc sang kỳ hạn mới tương ứng).
- Tiết kiệm trả lãi trước: Là hình thức tiết kiệm mà khách hàng được trả lãi
ngay khi gửi tiền. Khi đến hạn khách hàng sẽ được lĩnh phần gốc đúng như số tiền
ghi trên sổ/thẻ tiết kiệm. Nếu khách hàng rút vốn trước hạn thì ngân hàng sẽ giải
quyết theo quy định về sản phẩm.
- Tiết kiệm trả lãi định kỳ: Là hình thức tiết kiệm trả lãi theo từng kỳ hạn mà
khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận. Định kỳ trả lãi có thể là 1 tháng, 3
tháng….Đến kỳ lĩnh lãi, khách hàng có thể lĩnh lãi bằng tiền mặt hoặc chuyển
khoản vào tài khoản đã đăng ký với ngân hàng.
- Tiết kiệm lãi suất cố định: Là hình thức tiết kiệm trả lãi cố định trong suốt
kỳ hạn gửi tiền, lãi suất không thay đổi theo biến động của lãi suất trên thị trường.
- Tiết kiệm lãi suất thả nổi: Là hình thức tiết kiệm lãi suất được điều chỉnh
theo định kỳ trong suốt kỳ hạn gửi tiền. Định kỳ điều chỉnh lãi suất có thể từ 1 tuần,
2 tuần, 1 tháng… đến 1 năm.
d. Theo phương thức gửi gốc
- Tiết kiệm gửi một lần: Là loại tiền gửi tiết kiệm mà khách hàng chỉ gửi tiền
vào NH một lần từ thời điểm gửi cho đến khi đáo hạn. Với hình thức này, NH
không tốn nhiều chi phí quản lý do số dư tài khoản của NH không biến động.
- Tiết kiệm gửi nhiều lần hay tiết kiệm gửi góp: Là hình thức tiết kiệm mà
13
khách hàng nộp tiền vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm theo định kỳ đã đăng ký với
NH. Số tiền gửi từng lần có thể là cố định hoặc thay đổi theo khả năng của khách
hàng và quy định của ngân hàng.
e. Theo loại hình tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành
riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự
tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền
gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm được hưởng bảo hiểm theo quy định về bảo hiểm
tiền gửi. Trong khi chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản
tiện gửi tiết kiệm nói chung là thấp. Tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn đã
được ngân hàng cung cấp trong nhiều thập kỷ. Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm
thường chiểm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm
hai loại là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi có lãi suất rất thấp thông
thường là bằng lãi suất tiền gửi thanh toán. Khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc
nào mà không cần báo trước. Khi có nhu cầu khách hàng có thể rút một phần hoặc
toàn bộ sổ tiết kiệm.
- Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm khá quen thuộc ở nước ta.
Các ngân hàng thường huy động tiết kiệm với nhiều kỳ hạn khác nhau (từ 7 ngày,
14 ngày, 1 tháng ….60 tháng). Về nguyên tắc khi khách hàng gửi tiền theo hình
thức này thì sẽ không được rút trước hạn. Tuy nhiên để tăng sức cạnh tranh mà các
ngân hàng vẫn cho khách hàng rút trước hạn đối với khoản tiền gửi này. Nhưng khi
rút trước hạn khách hàng sẽ chỉ được hưởng một phần lãi của sổ có thể là lãi suất
bằng với lãi suất tài khoản thanh toán hoặc không được hưởng lãi. Trong thời hạn
gửi tiền thì khách hàng không được gửi thêm vào sổ tiết kiệm mà phải chờ đến ngày
đáo hạn của sổ. Đến kỳ hạn, nếu khách hàng không ra lĩnh tiền thì ngân hàng sẽ tự
động gia hạn một kỳ hạn mới cho khách hàng với lãi suất tại thời điểm đáo hạn.
Nhằm thu hút được ngày càng nhiều tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng
khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở
14
rộng mạng lưới huy động, đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều trương mục tiết
kiệm cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau.
1.2.3.3. Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá
Đây là hình thức ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng
chỉ có giá trị bao gồm chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là
phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài
hạn. Các loại phiếu nợ này được các ngân hàng phát hành từng đợt tùy theo mục
đích nhất định.
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi này có ý nghĩa quan trọng trong việc
quản lý tài sản nợ hơn là biện pháp để các ngân hàng thương mại huy động vốn bởi
nó chỉ được sử dụng khi cận thiết. Mức lãi suất trả cho các chứng chỉ loại này được
quy định ở mức mà người gửi tiền có thể chấp nhận được. Điều đáng chú ý là
những người mua chứng chỉ loại này thường rất quan tâm đến lãi suất và đặc biệt
nhạy cảm với lãi suất. Và ngân hàng thường phải đưa ra mức lãi suất cao hơn so với
lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Thông thường khi huy động vốn bằng hình thức này các ngân hàng thường
có định mức sẵn về khối lượng vốn cần huy đông, thời gian huy động, lãi suất huy
động và phương pháp huy động. Khi đã đủ khối lượng vốn cần huy động các ngân
hàng có thể dừng trước thời gian huy động của chương trình.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như tài trợ cho các hoạt
động của Chính phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi giới đầu tư chứng
khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý chi trả tiền
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả huy động vốn tiền gửi của NHTM
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi của NHTM. Song, để
đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi của NHTM không thể đánh giá qua một chỉ
tiêu mà phải kết hợp tất cả các chỉ tiêu. Bài viết này chỉ xin đánh giá hiệu quả huy
động tiền gửi của NHTM dưới góc độ một ngân hàng.
1.2.4.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi của NHTM
15
Quy mô nguồn tiền gửi huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn.
Nếu ngân hàng huy động được quá nhiều tiền gửi, song lại không cho vay, đầu tư
hết thì ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng ứ đọng vốn và có nguy cơ bị thua lỗ. Nếu
lượng tiền gửi huy động được không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn thì ngân hàng
sẽ phải bỏ qua nhiều cơ hội để cho vay và đầu tư tức là bỏ mất một phần thu nhập.
Vì vậy, quy mô nguồn tiền gửi không chỉ đảm bảo gia tăng về mặt số lượng mà còn
phải đảm bảo phù hợp với tính hình sử dụng vốn. Quy mô nguồn tiền gửi không chỉ
được thể hiện thông qua sự gia tăng về số lượng tuyệt đối mà còn được thể hiện ở
tốc độ tăng trưởng của nguồn tiền gửi. Ta có các chỉ tiêu sau:
Tốc độ tăng trưởng của nguồn
tiền gửi năm i (%)
=
Nguồn tiền gửi năm i
Nguồn tiền gửi năm i -1
- 1
Tốc độ tăng trưởng có thể tính cho cả nguồn tiền gửi huy động cũng như đối
với từng loại tiền gửi cụ thể. Nó phản ánh sự biến động của từng loại tiền gửi. Việc
sử dụng chỉ tiêu này kết hợp với tỷ trọng từng nguồn tiền gửi sẽ giúp ngân hàng
đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về khả năng huy động tiền gửi của NHTM.
Huy động tiền gửi của ngân hàng đạt hiệu quả khi nguồn tiền gửi có sự tăng
trưởng ổn định (nguồn tiền gửi tăng đều qua các năm; nguồn tiền gửi năm sau lớn
hơn nguồn tiền gửi năm trước, tốc độ tăng trưởng qua các năm xấp xỉ nhau); thoả
mãn nhu cầu sử dụng, điển hình là nhu cầu tín dụng và đầu tư.
1.2.4.2 Cơ cấu nguồn tiền gửi huy động
Nguồn tiền gửi có quy mô và tốc độ tăng trưởng lớn và ổn định chưa đủ để
đánh giá hiệu quả huy động tiền gửi mà còn phải xem xét tới cơ cấu nguồn tiền gửi.
Dựa trên tiêu chí phân loại khác nhau thì nguồn tiền gửi cũng được chia thành các
loại khác nhau theo thời gian, theo đối tượng khách hàng và theo loại tiền tệ. Cơ cấu
nguồn tiền gửi thể hiện ở tỷ trọng từng loại tiền gửi trong tổng nguồn tiền gửi. Nó
được tính theo công thức sau:
- Tỷ trọng của nguồn tiền gửi i = (Nguồn tiền gửi i / Tổng nguồn tiền gửi)*100.
Có thể chia nguồn tiền gửi theo các tiêu chí sau:
16
• Cơ cấu nguồn tiền gửi theo thời gian:
+ Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng (tiền gửi ngắn hạn).
+ Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng (tiền gửi trung và dài hạn).
Cơ cấu nguồn tiền gửi theo thời gian phản ánh kỳ hạn của nguồn tiền gửi. Kỳ
hạn của nguồn tiền gửi liên quan tới tính ổn định của nguồn tiền gửi. Khi tiền gửi
trung và dài hạn có quy mô và tỷ trọng lớn có thể nói rằng nguồn tiền gửi ổn định
về mặt thời gian. Kỳ hạn của nguồn tiền gửi liên quan tới tính ổn định và vì vậy liên
quan tới kỳ hạn sử dụng. Để cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng cần có khả năng
duy trì tính ổn định của nguồn tiền.
• Cơ cấu nguồn tiền gửi theo đối tượng khách hàng:
+ Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Cơ cấu nguồn tiền gửi theo đối tượng khách hàng cũng phản ánh tính ổn
định của nguồn tiền gửi. Điều này thể hiện ở quy mô và tỷ trọng của tiền gửi
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Vì tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội có tính chất tương đối ổn định. Do đó, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
số dư nguồn tiền gửi này để cho vay trung và dài hạn. Mặt khác, sự thay đổi về
quy mô và tỷ trọng của từng nguồn tiền gửi theo đối tượng khách hàng giúp cho
ngân hàng xác định được những thế mạnh trong từng nguồn tiền gửi huy động từ
đó có chính sách huy động tiền gửi thích hợp.
• Cơ cấu nguồn tiền gửi theo loại tiền tệ:
+ Tiền gửi nội tệ.
+ Tiền gửi ngoại tệ.
Hầu hết các NHTM đều tiến hành huy động tiền gửi cũng như sử dụng vốn
không chỉ bằng nội tệ mà còn bằng cả ngoại tệ. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả trong
hoạt động, ngân hàng phải bảo đảm tính phù hợp về cơ cấu nguồn tiền gửi giữa
đồng nội tệ - ngoại tệ với nhu cầu sử dụng vốn, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhu cầu đầu tư, thanh toán quốc tế…
Tóm lại, cơ cấu nguồn tiền gửi ảnh hưởng tới cơ cấu cho vay và đầu tư của
17
ngân hàng và quyết định chi phí của ngân hàng. Huy động tiền gửi đạt hiệu quả khi
cơ cấu nguồn tiền gửi hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng và tiết kiệm được chi
phí cho ngân hàng.
1.2.4.3 Chi phí huy động tiền gửi
Huy động tiền gửi của ngân hàng đạt hiệu quả hay không phải xem xét tới
chi phí huy động tiền gửi của ngân hàng đó.
Chi phí huy động tiền gửi bao gồm chi phí trả lãi và chi phí khác. Trong đó,
chi phí trả lãi là bộ phận chi phí lớn nhất đối với ngân hàng, vì vậy có ảnh hưởng
quyết định đối với thu nhập của ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể
huy động được tiền gửi lớn. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân
hàng, và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm
tương ứng.
Chi phí huy động tiền gửi được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
- Lãi suất huy động tiền gửi bình quân= Tỷ trọng nguồn tiền gửi i* Lãi suất
huy động i.
Trong đó: Tỷ trọng nguồn tiền gửi i = (nguồn tiền gửi huy động loại i/ Tổng
nguồn tiền gửi huy động)*100.
Hoặc Lãi suất huy động tiền gửi bình quân= (Chi phí trả lãi tiền
gửi*100)/Tổng tiền gửi.
Lãi suất huy động tiền gửi bình quân đánh giá sự hợp lý trong cơ cấu huy
động hay chất lượng nguồn tiền gửi huy động của ngân hàng. Chỉ tiêu này đánh giá
khả năng cạnh tranh của ngân hàng thông qua so sánh lãi suất huy động tiền gửi
bình quân của ngân hàng với mặt bằng lãi suất chung hoặc với lãi suất của ngân
hàng cạnh tranh.
Ngoài ra, chi phí huy động tiền gửi còn bao gồm cả chi phí khác. Nó bao
gồm chi phí trực tiếp trả cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng, bảo
hiểm tiền gửi, chi phí mở phòng giao dịch; trang bị thêm máy đếm tiền; thiết bị soi
tiền; chi phí văn phòng như mực in, giấy in; lương cho cán bộ; chi phí quảng cáo…
Khi tính đến hiệu quả huy động tiền gửi ta phải tính cả chi phí này. Ngân hàng luôn
18
muốn giảm chi phí huy động tiền gửi đến mức thấp nhất có thể, vì vậy đòi hỏi ngân
hàng phải tính toán sao cho lãi suất huy động vừa có sức cạnh tranh, song vẫn tiết
kiệm được chi phí trả lãi và chi phí phi lãi.
1.2.4.4 Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sử dụng vốn của nguồn tiền
gửi
Huy động tiền gửi có đạt hiệu quả hay không phải xem xét đến khả năng đáp
ứng nhu cầu sử dụng vốn, điển hình là nhu cầu cho vay của ngân hàng. Khả năng
đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động tín dụng của nguồn tiền gửi được đánh giá qua
chỉ tiêu sau:
- Hệ số sử dụng tiền gửi trong kỳ = (Dư nợ cho vay bình quân / Nguồn tiền
gửi )*100
Hệ số này đo lường khả năng sử dụng tiền gửi của ngân hàng, cho biết ngân
hàng cho vay bao nhiêu trong một đồng tiền gửi huy động. Thông thường, các ngân
hàng luôn cố gắng khai thác sử dụng tối đa lượng tiền gửi huy động được để cho
vay lấy lời và duy trì tỷ lệ này càng tiến đến 1 càng tốt (trong điều kiện vẫn đảm
bảo các giới hạn an toàn về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ thanh toán).
Qua hệ số sử dụng tiền gửi trong kỳ, xác định được nguồn vốn tiền gửi huy
động được là bao nhiêu và cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu
tín dụng.
Hệ số sử dụng tiền gửi ngắn hạn = (Dư nợ cho vay ngắn hạn bình quân /
Nguồn tiền gửi ngắn hạn)*100
Hệ số sử dụng tiền gửi ngắn hạn cho biết ngân hàng sử dụng bao nhiêu %
nguồn tiền gửi ngắn hạn để cho vay ngắn hạn.
Hệ số sử dụng tiền gửi trung và dài hạn = (Dư nợ cho vay trung và dài hạn
bình quân / Nguồn tiền gửi trung và dài hạn)*100.
Hệ số sử dụng tiền gửi trung và dài hạn cho biết 100 đồng tiền gửi trung và
dài hạn mà ngân hàng huy động được đáp ứng được bao nhiêu đồng cho vay trung
và dài hạn.
Thực tế nhu cầu cho vay trung và dài hạn của các NHTM thường lớn hơn
nguồn tiền gửi trung và dài hạn, trong khi đó, nguồn tiền gửi ngắn hạn thường
19
chiếm tỷ trọng lớn hơn nguồn tiền gửi trung và dài hạn. Vì không muốn bỏ lỡ cơ
hội kinh doanh trên thị trường nên các ngân hàng thường xuyên chuyển hoán kỳ
hạn của nguồn tức là dùng nguồn tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
khiến cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lãi suất (khi lãi suất trên thị trường
tăng) và rủi ro thanh khoản. Do đó, việc tính toán hợp lý tỷ lệ nguồn tiền gửi ngắn
hạn để cho vay trung và dài hạn giúp ngân hàng vừa đảm bảo an toàn trong hoạt
động vừa gia tăng nguồn thu cho ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA
NHTM
1.3.1 Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp từ hoạt động sử dụng vốn
của ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng theo từng
thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của bản thân ngân hàng và điều kiện môi
trường kinh doanh. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra chiến lược huy động vốn là thu
hẹp hay mở rộng phù hợp với chính sách thu hẹp hay mở rộng tín dụng của ngân
hàng thời kỳ đó.
Cơ cấu nguồn vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các khoản mục cấu thành, chi phí
huy động có thể tăng hay giảm.
Ngân hàng có chiến lược kinh doanh được xây dựng đúng đắn phù hợp với
điều kiện bản thân ngân hàng, các nguồn vốn được khai thác tối đa và hợp lý thì
công tác huy động vốn phát huy hiệu quả.
1.3.1.2 Cơ chế, chính sách huy động vốn của ngân hàng
Đối với người gửi tiền, lãi suất là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn
nhất đến quyết định gửi tiền. Do đó, với mục đích hưởng lãi khi gửi tiền, các doanh
nghiệp và dân cư thường có xu hướng gửi vào ngân hàng có lãi suất huy động cao.
Các ngân hàng mới thành lập, còn non trẻ, nguồn vốn còn thiếu hay như
những ngân hàng cổ phần thường có lãi suất huy động cao hơn tứ đại ngân hàng (4
20
ngân hàng quốc doanh: Ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng Công thương,
ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam).
Chính sách lãi suất phù hợp với từng nguồn tiền huy động. Tuy nhiên, ngân
hàng phải nghiên cứu, cân nhắc và tính toán tỉ mỉ, toàn diện sao cho lãi suất vừa có
tính cạnh tranh, vừa phải đảm bảo được chi phí đầu vào thấp nhất và kinh doanh có
lãi.
Một ngân hàng có chính sách lãi suất phù hợp, linh hoạt và đảm bảo hiệu quả
kinh doanh sẽ thu hút được nhiều khách hàng.
1.3.1.3 Quy mô vốn chủ sở hữu và uy tín, thương hiệu của ngân hàng
Trên thực tế, ngoài yếu tố lãi suất ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền, khách
hàng vẫn có xu hướng chọn ngân hàng có tiềm lực tài chính và uy tín để gửi tiền. Vì
gửi tiền vào ngân hàng có tiềm lực tài chính và uy tín đồng nghĩa với việc đồng vốn
của họ gửi tại ngân hàng sẽ tuyệt đối an toàn.
Một ngân hàng có tiềm lực tài chính và uy tín là một ngân hàng lớn, mạng
lưới rộng, khả năng thanh khoản tốt, chất lượng dịch vụ tốt…
Sự tin tưởng của khách hàng vào ngân hàng có tiềm lực tài chính và uy tín
giúp cho những ngân hàng này có khả năng huy động một nguồn tiền gửi lớn hơn
hẳn các ngân hàng khác.
Cũng chính vì sự thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có
tiềm lực tài chính và uy tín hơn hẳn các ngân hàng khác mà các ngân hàng vẫn luôn
ngày ngày phấn đấu xây dựng, duy trì và củng cố uy tín của mình trên thị trường.
1.3.1.4 Tính chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng và
chính sách cán bộ của ngân hàng
Tính chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ cùng với uy tín
của mỗi ngân hàng sẽ tạo cho khách hàng niềm tin và tạo dựng hình ảnh đẹp về
ngân hàng, tạo tác động tích cực đến khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng được thể hiện qua năng
lực, trình độ và phong cách giao tiếp, phục vụ khách hàng.
21
- Năng lực và trình độ của cán bộ được thể hiện cả về phương diện quản lý
lẫn nghiệp vụ:
+ Năng lực quản lý: Nếu một NH quản lý tốt về mặt nhân sự, về tài sản và
nguồn vốn thì trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, NH dự đoán được
những khả năng xảy ra rủi ro, dự đoán được hiệu quả môi trường đầu tư, nắm bắt
nhanh chóng những thay đổi của thị trường để tư vấn cho khách hàng đầu tư có hiệu
quả cao nhất, từ đó thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Do quản lý
tốt nên trong quá trình hoạt động NH luôn đảm bảo phát triển và an toàn vốn, củng
cố uy tín trên thị trường từ đó cũng có cơ hội mở rộng, thu hút tiền gửi dân cư. Mặt
khác, một cán bộ quản lý giỏi mới có thể biết dùng người đúng năng lực, sở trường
từ đó phát huy được khả năng của từng người trong sự phát triển chung.
+ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trong hoạt động kinh doanh, cán bộ NH
có giỏi nghiệp vụ thì mới xử lý công việc nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả từ
đó NH mới có điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền, vay tiền, giảm thấp chi phí
quản lý và mở rộng hoạt động kinh doanh.
- Phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ khách hàng: Đây là một yếu tố rất
quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác huy động tiền gửi dân cư. Một NH
hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời với đội ngũ cán bộ, nhân viên có tư cách phẩm
chất đạo đức tốt, luôn chu đáo, nhiệt tình và tạo thuận lợi cho khách hàng trong mọi
nhu cầu thì sẽ để lại ấn tượng đẹp, xây dựng được uy tín tốt đối với khách hàng, thu
hút được ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi tiền. Để làm vui lòng
khách đến, vừa lòng khách đi, mỗi cán bộ ngân hàng phải có phong cách giao dịch
lịch sự, nhã nhặn để tạo được cảm tình tốt của khách hàng, tạo uy tín cho ngân hàng
về phong cách phục vụ chuyên nghiệp.
Muốn thu hút và duy trì đội ngũ cán bộ, nhân viên giỏi nghiệp vụ, có phong
cách phục vụ chuyên nghiệp, phẩm chất đạo đức tốt, mỗi NHTM cần phải có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng và chính sách đào tạo phù hợp để không bị “chảy máu chất
xám”. Tổ chức nhân sự hợp lý tạo nên chi phí hợp lý đối với nguồn nhân lực sẽ làm
tăng hiệu quả huy động tiền gửi dân cư của các NHTM.
22