Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ VIỆT NAM 2009 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.29 KB, 42 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
VIỆT NAM 2009 – 2010
NHÓM THỰC HIỆN: 12
LỚP : 25TD_T08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: CN. Nguyễn Minh Sáng
TP. HỒ CHÍ MINH
NĂM 2014
1
Lời cam đoan
Chúng tôi xin cam đoan tiểu luận” Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam 2009-
2010” là tiểu luận chung của các thành viên trong nhóm chúng tôi. Và trong quá trình
làm tiểu luận khi sử dụng các trích dẫn bên ngoài thì chúng tôi đều có trích dẫn nguồn
tài liệu tham khảo một cách rõ ràng và cụ thể.
Các số liệu thu thập được được trong tiểu luận là trung thực. Kết quả phân tích
của đề tài nghiên cứu này không sao chép của bất kỳ các tiểu luận hoặc đề tài liên quan
nào trước đây.
2
MỤC LỤC
2.3.2. Mất cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm nội địa 29
2.3.5.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 32
3
Danh mục các từ viết tắt
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BB Cán cân cơ bản
BOP Cán cân thanh toán
CA Cán cân vãng lai


EU Liên minh Châu âu
FDI Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
FPI Vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
ICOR Hệ số sử dụng vốn
M Tổng kim ngạch nhập khẩu
NHTW Ngân hàng Trung ương
OB Cán cân tổng thể
ODA Vốn viện trợ phát triển chính thức
OFB Cán cân bù đắp chính thức
TB Cán cân thương mại
WTO Tổ chức thương mại thế giới
X Tổng kim ngạch xuất khẩu
4
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều
thành công nhất định, duy trì được sự ổn định và tăng trưởng cao trong nhiều năm, đặc
biệt là giai đoạn 2002-2007. Năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Có thể
nói WTO vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam, khi mà các hiệp định tự do
thương mại và song phương với độ mở cửa cao hơn. Việt Nam cần có những chính
sách đúng đắn để có thể đứng vững ở nơi mà thị trường cạnh tranh quyết liệt hơn bao
giờ hết, để có thể tìm thấy những cơ hội phát triển các thế mạnh của mình, đồng thời
dần bù lấp những yếu kém cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Xu thế toàn cầu hóa khiến cho sự ảnh hưởng lẫn nhau của các nước lớn hơn,
nhất là sự ảnh hưởng từ những nước mạnh. Khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối
năm 2008 bắt đầu từ Mỹ và lan rộng ra khắp thế giới khiến nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng suy giảm. Trong bối cảnh đó, ta thấy được nhiều vấn đến
bất cập trong các chính sách vĩ mô của Việt Nam, khi mà nền kinh tế mặc dù tăng
trưởng nhưng vẫn chứa đầy rủi ro, tính ổn định thấp, dễ bị tổn thương bởi không chỉ
những cú sốc bên ngoài mà cả bên trong.

Việc kiểm soát quản lý và ổn định chính sách kinh tế vĩ mô là một trong vấn đề
quan trọng hàng đầu của các quốc gia, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do
đó, trong rất nhiều khía cạnh để nghiên cứu, nhóm chúng tôi xin trình bày về “ Cán cân
thanh toán của Việt Nam 2009- 2010”. Bởi vì chúng tôi nghĩ rằng việc nghiên cứu về
sự cân bằng và ổn định cán cân thanh toán, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng và sau
khủng hoảng 2008 là một vấn đề trọng yếu, có liên quan đến sự phát triển dài hạn của
đất nước sau này.
Thông qua bài thuyết trình này, mục đích chính của chúng tôi là muốn trình
bày và thảo luận về tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam giai đoạn 2009 -2010,
đồng thời phân tích những nguyên nhân tiềm ẩn của tình trạng bất ổn cán cân thanh
1
toán, từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp khắc phục, tạo điều kiện phát triển lâu dài
ổn định cho nền kinh tế đất nước.
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
Nếu như trong kế toán tài chính, các báo cáo tài chính được sử dụng như một
công cụ thống kê tình hình hoạt động về các phương diện của một doanh nghiệp thì
dưới góc độ một quốc gia có thể hiểu cán cân thanh toán như là một công cụ để ghi
nhận các giao dịch quốc tế giữa người cư trú với người không cư trú. Trong đề tài này,
nhóm tác giả muốn sử dụng ba khái niệm từ ba nguồn khác nhau là: IMF, Eun-Resnick
(2004), Nguyễn Văn Tiến (2010).
Theo định nghĩa của IMF trong ấn bản “Balance of payments Manual” thì “Cán
cân thanh toán là bản thống kê - tóm tắt một cách có hệ thống các giao dịch kinh tế của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Và hầu hết các giao dịch được thực hiện
giữa người cư trú và người không cưu trú”.
Tuy nhiên, theo khái niệm mà Eun-Resnick đưa ra năm 2004 thì “ Cán cân
thanh toán là một bản ghi các giao dịch quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định và được trình bày dưới hình thức ghi sổ kép”. Còn theo tác giả Nguyễn Văn
Tiến (2010) thì “Cán cân thanh toán quốc tế (The balance of payments – BOP hay BP)

là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại giá trị tất cả các giao
dịch kinh tế giữa người cư trú với người không cư trú trong một thời kì nhất định,
thường là 1 năm”. Hay nói một cách khác thì nó như công cụ để tổng hợp các giao
dịch.
Nhìn chung, các khái niệm trên đều tựu chung việc nhấn mạnh các giao dịch
quốc tế giữa người cư trú và người không cư trú. Người cư trú phải đồng thời thỏa mãn
hai điều kiện là “ Thời hạn cư trú từ 12 tháng trở lên” và “Có nguồn thu nhập nơi cư
trú”. Do đó, những người không thỏa mãn ít nhất một trong hai điều kiện nói trên là
người không cư trú. Lưu ý là trong định nghĩa của IMF thì hầu hết các giao dịch quốc
tế được ghi nhận trên cán cân thanh toán là giữa người cư trú và người không cư trú
bởi vì trong một số trường hợp thì các hoạt động can thiệp của Ngân hàng Trung ương
3
của chính quốc gia đó cũng được ghi nhận trong cán cân thanh toán. Và phần này sẽ
được trình bày trong phần phân tích cán cân thanh toán Việt Nam giai đoạn 2009-2010.
1.2.Kết cấu và các cán cân bộ phận của BOP
1.2.1.Kết cấu của BOP
Theo Nguyễn Văn Tiến (2010) thì kết cấu cán cân thanh toán được tiếp cận dưới
hai giác độ là chiều dọc và chiều ngang.
• Theo chiều dọc, thì BOP bao gồm các cột chính như sau: Nội dung giao dịch,
doanh số thu hoặc thu, doanh số chi hoặc chi và cán cân ròng. Và bất kỳ tài khoản thu (
chi ) nào, không kể nguyên nhân phát sinh, đều được ghi vào cột “thu”( “chi”) và có
dấu +(-). Do đó, chênh lệch giữa thu và chi của từng cán cân bộ phận tạo ra cán cân
ròng .
• Theo chiều ngang thì cán cân tổng thể (OB) sẽ theo dõi mọi giao dịch của một
quốc gia ngoại trừ giao dịch của NHTW. Trong OB chia thành 2 bộ phận chính:
- Cán cân vãng lai : phán ánh việc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản giữa
người cư trú và người không cư trú.
- Cán cân vốn : phán ánh việc chuyển giao quyền sử dụng về tài sản giữa người
cư trú và người không cư trú.
Bên cạnh đó, các giao dịch có liên quan đến hoạt động can thiệp của NHTW

phản ánh tại cán cân bù đắp chính thức.
1.2.2.Các bộ phận của BOP
1.2.2.1.Cán cân vãng lai (Current Account-CA )
Cán cân vãng lai tổng hợp các chỉ tiêu về giao dich kinh tế giữa người cư trú và
người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập, người lao động, thu nhập từ đầu tư
trực tiếp, thu nhập từ đầu tư các vào giấy tờ có giá, lãi vay, lãi tiền gửi nước ngoài và
chuyển giao vãng lai 1 chiều. Người ta chia cán cân vãng lai thành 4 cán cân tiểu bộ
phận:
- Cán cân thương mại (Trade Balance-TB): phản ánh toàn bộ các khoản thu chi
ngoại tệ gắn với xuất – nhập khẩu hàng hóa. Xuất khẩu làm phát sinh cung ngoại tệ nên
ghi (+), nhập khẩu làm phát sinh cầu ngoại tệ nên ghi (-). Khi thu nhập từ xuất khẩu
4
lớn hơn chi cho nhập khẩu thì cán cân thương mại thặng dư, ngược lại thì cán cân
thương mại thâm hụt. Những nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại: là những
nhân tố ảnh hưởng đến quy mô hàng hóa xuất nhập khẩu như tỷ giá, chính sách thương
mại quốc tế. tâm lý ưa chuộng tiêu dùng hàng ngoại, thu nhập của người dân, lạm phát,

- Cán cân dịch vụ (Services Balance-S
E
): phản ánh toàn bộ các khoản thu chi từ
hoạt động dịch vụ về vận tải, bảo hiểm, du lịch, bưu chính viễn thông, hàng không,
ngân hàng,…
- Cán cân thu nhập (Income Balance-I
C
) bao gồm:
• Thu nhập từ người lao động: các khoản tiền lương, thưởng, thu nhập khác bằng
tiền, hiện vật do người cư trú trả cho người không cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh
hưởng gồm: số lượng và chất lượng ngưởi lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, chế độ đãi ngộ,…
• Thu nhập về đầu tư: gồm các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu

tư vào giấy tờ có giá, các khoản lãi từ cho vay giữa người cư trú trả cho người không
cư trú và ngược lại.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Unrequited Transfers-Tr): gồm các
khoản quà tặng, quà biếu, các khoản viện trợ không hoàn lại cho mục đích tiêu dùng
giữa người cư trú và người không cư trú. Quy mô và tình trạng chuyển giao vãng lai
một chiều tùy thuộc vào mối quan hệ và tình hình kinh tế giữa người cư trú và người
không cư trú.
1.2.2.2.Cán cân vốn (Capital Balance )
Cán cân vốn có mục đích tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dich kinh tế giữa
người cư trú và người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước và
ngược lại. Trên thực tế có nhiều tiêu thức khác nhau được đề xuất để phân loại các
thành phần của các cân vốn. Tuy vậy, trong đề tài này, nhóm tác giả muốn đề cập cách
5
tiếp cận theo quan điểm hiện đại của Quỹ tiện tệ quốc tế (IMF), chia cán cân vốn
thành:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức
đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ
sở sản xuất kinh doanh này. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công
cụ tài chính khác. FDI là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế đang phát triển nào,
đặc biệt là trong giai đoạn hiên nay.
- Đầu tư gián tiếp: bao gồm các khoản đầu tư như mua trái phiếu công ty, trái
phiếu chính phủ, đầu tư mua cổ phiếu nhưng chưa đạt tới mức độ để kiểm soát công ty
nước ngoài, các khoản vốn ngắn hạn như tín dụng thương mại, hoạt động tiền gửi, mua
bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, mua bán
ngoại tệ
Cán cân vốn thặng dư khi số phát sinh có > số phát sinh nợ. nghĩa là tổng tiền
vốn đầu tư vào lớn hơn tổng tiền vốn đầu tư ra và trả nợ.
1.2.2.3.Cán cân cơ bản (Basic Balance – BB)

Là tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn, phản ánh tương đối tổng
quát tình trạng nợ của 1 quốc gia.
Cán cân cơ bản= Cán cân vãng lai + Cán cân vốn dài hạn
1.2.2.4.Nhầm lẫn và sai sót (net errors and omissions – OM)
Sở dĩ có khoản mục OM trong BOP là do: các giao dịch phát sinh giữa người cư
trú và người không cư trú rất nhiều nên trong quá trình thồng kê rất khó không có sai
sót; sự không trùng khớp giữa thời điểm diễn ra giao dịch và thời điểm thanh toán.
1.2.2.5.Cán cân tổng thể (overall balance – OB)
- Cán cân tổng thể là tổng của cán cân vãng lai , cán cân vốn và nhầm lẫn sai sót.
Cán cân tổng thể= Cán cân vãng lai+Cán cân vốn+Nhầm lẫn và sai sót
6
1.2.2.6. Cán cân bù đắp chính thức (official financing balance – OFB)
gồm
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia
- Tín dụng với IMF và các NHTW khác
- Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân
thanh toán.
Trong đó, hạng mục dự trữ ngoại hối quốc gia đóng vai trò quyết định. Tổng
của cán cân tổng thể và cán cân bù đắp chính thức luôn bằng 0.
 Tổng quát:
OB + OFB = 0
OB = CA + K + OM
CA = TB + S
E
+ I
C
+ Tr
K = K
L
+ K

S
+ K
Tr
OM = - (CA + K + OFB)
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến BOP
Cán cân thanh toán quốc tế có thể rơi vào tình trạng bội thu hoặc bội chi, nhưng
không cố định theo thời gian mà luôn thay đổi vị trí. Các nhân tố ảnh hưởng làm BOP
thay đổi gồm:
Cán cân vãng lai là yếu tố quan trọng quyết định đến vị trí của BOP mà cán cân
thương mại lại là yếu tố tác động trực tiếp đến nó.
- Lạm phát: với điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu tỷ lệ lạm phát của
một quốc gia cao hơn so với các nước khác có quan hê mậu dịch, sẽ làm giảm sức
cạnh tranh của hàng hóa nước này trên thị trường quốc tế, làm khối lượng xuất khấu
giảm, do đó giảm cán cân thương mại.
7
- Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: nếu mức thu nhập quốc dân của một quốc
gia tăng theo tỷ lệ tăng cao hơn của quốc gia khác, CA của quốc gia đó sẽ giảm do mức
thu nhập thực tế tăng làm cho mức tiêu thụ hàng hóa tăng.
- Ảnh hưởng của tý giá hối đoái: nếu tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với
tiền của quốc gia khác, CA của nước đó sẽ giảm do hàng hóa xuất khẩu của nước này
sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu, làm giảm nhu cầu hàng xuất khẩu.
- Các biện pháp của chính phủ: như tăng thuế hàng nhập khẩu, giá hàng nhập
khẩu sẽ tăng, hay sử dụng một số công cụ như chính sách tài khóa, tiền tệ nhằm tác
động đến thu nhập của người dân hay kiềm chế lạm phát, từ đó tác động đến CA.
Một số quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý, cảnh quan và khí hậu,
trở thành nơi thu hút khách du lịch trên thế giới, làm tăng CA.
Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều
hình thức khác nhau, để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và chảy
ra khỏi một quốc gia để nhằm đạt mục tiêu nhất định của chính phủ, từ đó tác động đến
BOP.

- Kiểm soát vốn trực tiếp là kiểm soát vốn mang tính hành chính, nhằm hạn chế
những giao dịch vốn, những khoản thanh toán liên quan đến giao dịch vốn và việc
chuyển tiền bằng những quy định mang tính hành chính. Kiểm soát hành chính tác
động đến số lượng những giao dịch tài chính từ nước này sang nước khác. Thông
thường, loại kiểm soát này áp đặt những nghĩa vụ hành chính lên hệ thống ngân hàng
để kiểm tra dòng vốn.
- Kiểm soát vốn gián tiếp là kiểm soát vốn dựa trên cơ sở thị trường, nhằm hạn
chế những biến động của dòng vốn và những giao dịch khác thông qua các biện pháp
thị trường, chủ yếu là làm cho các giao dịch này phải tốn kém nhiều chi phí hơn, từ đó
hạn chế những giao dịch này. Việc kiểm soát vốn có thể xảy ra dưới các hình thức khác
nhau như hệ thống đa tỷ giá, đánh thuế ngầm hoặc công khai lên dòng vốn quốc tế,
nhưng chủ yếu là đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn và khuyến khích các dòng vốn
dài hạn.
8
Ngoài ra, sự ổn định chính trị của một đất nước là cơ sở vững chắn để phát triển
kinh tế, là điều kiện tiên quyết tăng cường quan hệ quốc tế, bên cạnh đó chính sách đối
ngoại trở thành điều kiện đủ để quan hệ diễn ra tốt đẹp. Khả năng và trình độ quản lí
kinh tế của chính phủ vừa tạo sự phát triển bền vững và tăng trưởng liên tục, vừa đánh
giá sự năng động trong điều hành nền kinh tế của chính phủ, từ đó cán cân thanh toán
quốc tế sẽ được cải thiện theo chiều thuận.
1.4.Thặng dư và thâm hụt BOP
BP được lập theo nguyên tắc hạch toán kép nên tổng các bút toán ghi có luôn
bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau, do đó về tổng thể BP luôn
được cân bằng. Khi nói đến thặng dư hay thâm hụt BP là nói đến thặng dư (thâm hụt)
của một hay một nhóm các cán cân bộ phận.
Về nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt BP được xác định theo 2 phương pháp:
xác định thặng dư hay thâm hụt của từng cán cân bộ phận thuộc BP và phương pháp
tích lũy.
1.4.1.Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại
TB = X – M

Cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về
hàng hóa.
Cán cân thương mại thặng dư khi TB > 0 hay (X – M) > 0, cho biết thu từ người
không cư trú > chi cho người không cư trú, cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ. Ngược lại là
cán cân thương mại thâm hụt.
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền kinh tế
vì TB là bộ phận chính cấu thành nên CA, phán ánh kịp thời xu hướng vận động của
CA. Để cân bằng TB, các biện pháp thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng
hóa xuất nhập khẩu thông qua hình thức thuế quan,… và tác động vào tâm lí tiêu dùng
hàng hóa nhập khẩu của công chúng.
9
1.4.2.Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai:
CA = TB + S
E
+ I
C
+Tr
Cán cân vãng lai thặng dư khi CA > 0, có nghĩa thu từ người không cư trú > chi
cho người không cư trú, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ. Ngược lại, CA < 0 là cán
cân vãng lai thâm hụt.
Trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của
quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không
đổi, cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế
giới còn lại được tăng lên (chủ nợ), cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng
của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên (con nợ).
1.4.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản:
BB = CA + K
L
Khi CA < 0 nhưng (CA + K
L

) > 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán,
vì vậy nhiều nhà kinh tế cho rằng cán cân cơ bản phán ánh tổng quát hơn về tình trạng
nợ nươc ngoài so với cán cân vãng lai.
Chưa hẳn sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. Giả sử 1
quốc gia đang thâm hụt CA, đồng thời luồng vốn dài hạn đang chảy ra, khiến BB trở
nên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra hứa hẹn thu nhập như lãi suất, cổ tức,
lợi nhuận trong tương lai, vì thế có thể góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư
cán cân vãng lai trong tương lai.
1.4.4.Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể:
Phán ánh các hoạt động của NHTW trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối
cùng của nền kinh tế.
OB = X – M + S
E
+ I
C
+ Tr + K
L
+ K
S
= - OFB
10
Cán cân tổng thể có ý nghĩa: nếu thặng dư, cho biết số tiền có sẵn để 1 quốc gia
có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối. Nếu thâm hụt, cho biết số tiền 1 quốc gia phải
hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.
Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia
áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi vì
nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế cán cân tổng
thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng, vì NHTW không can thiệp mua
vào hay bán ra đồng tiền của mình nên dự trữ ngoại hối không thay đổi .
Tuy nhiên cán cân tổng thể có ý nghĩa quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó

cho biết áp lực dẫn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ
thống tỷ giá cố định, giả sử 1 quốc gia thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung
nội tệ lớn hơn cầu nội tệ, để tránh phá giá, NHTW tiến hành bán dự trữ ngoại tệ.
Tình trạng cán cân tổng thể rất quan trọng, tác động trực tiếp đến nền kinh tế và
sự vận hành các chính sách vĩ mô.
Các giải pháp cân bằng khi thăng dư cán cân tổng thể không những không khó
mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Ngược lại,
các biện pháp cân bằng khi thâm hụt cán cân tổng thể không những khó khăn hơn mà
tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả trong dài
hạn.
CHƯƠNG 2: CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ VIỆT NAM 2009-2010
2.1.Tổng quan về tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2009 – 2010
11
Trên phần những nhân tố tác động đến cán cân thanh toán mục cơ sở lý thuyết,
chúng ta có thể thấy rõ sự tác động của nền kinh tế trong và ngoài nước đối với cán cân
thanh toán. Để thấy được vì sao thực trạng cán cân thanh toán Việt Nam năm 2009 -
2010 mà nhóm sẽ phân tích ở mục dưới lại như vậy, việc hiểu rõ tình hình kinh tế thế
giới và trong nước là vô cùng quan trọng. Dưới đây là những khái quát về tình hình
kinh tế thế giới và trong nước:
2.1.1.Tình hình kinh tế thế giới
- Trong những tháng đầu năm 2009, tình hình kinh tế trên thế giới vẫn còn nhiều
khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy nhiên, những
biện pháp cứu trợ nền kinh tế thực hiện vào cuối năm 2008 đã phát huy kết quả, đưa
nền kinh tế thế giới dần phục hồi với những tín hiệu khả quan từ quí II năm 2009.
- Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế: Năm 2009, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế là
-0.7% trong khi năm 2008 là 3.1%, giảm thấp so với năm 2008. Bước sang năm 2010,
nền kinh tế phục hồi nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng là 4.9%. Nhưng bên cạnh sự
tăng trưởng khả quan của nền kinh tế thế giới năm 2010 là những nguy cơ tiềm ẩn như
lạm phát, thất nghiệp, nợ công…Tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này có sự không
đồng đều giữa các nước phương đông và phương tây. Ở các nước đang phát triển (các

nước châu Á mà đặc biệt là Trung Quốc), nền kinh tế tăng trưởng cao trong khi ở các
nước phương Tây tăng trưởng kinh tế khá chậm.
- Lạm phát: Trong những tháng đầu năm 2009, khi mà nền kinh tế vẫn còn trong
bối cảnh suy thoái, sự suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới làm giảm cầu và dẫn đến
giá cả hàng hóa trên thế giới tương đối thấp, giảm so với những năm trước, đáng chú ý
là các mặt hàng như lương thực, dầu mỏ. Nhưng khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi
những tháng cuối năm 2009, cùng với những gói kích cầu, giá cả một số hàng hóa có
xu hướng tăng lên. Sang năm 2010, lạm phát có dấu hiệu tăng cao lên mức trung bình
cao hơn từ mức thấp ở các nước phát triển và mức trung bình ở các nước đang phát
triển và có dấu hiếu càng tăng cao vào cuối năm 2010.
- Tỷ lệ thất nghiệp trên thế giới tương đối cao, ngay cả ở những nền kinh tế có vai
trò chủ yếu như: Mỹ, Châu Âu…Bên cạnh đó là tình trạng thâm hụt ngân sách, nợ
công ở các nước cũng là một vấn đề cần giải quyết sau sự phục hồi của nền kinh tế thế
12
giới. Nổi bật là cuộc khủng hoảng nợ công ở châu âu năm 2010 gây tác động tiêu cực
lên nền kinh tế nhiều nước trên thế giới.
- Thương mại quốc tế: Sau một thời gian phát triển mạnh mẽ, thương mại quốc tế
giảm mạnh, bắt đầu từ khi kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng. Đến những tháng cuối
năm 2009, thương mại quốc tế tăng trở lại cùng với sự hồi phục của nền kinh tế sau
khủng hoảng. Năm 2009, thương mại toàn cầu sụt giảm 11 % và phục hồi vào năm
2010 . Sự phục hồi này diễn ra ở các nước đang phát tiển mạnh mẽ hơn so với các nước
phát triển. Đặc biệt là vai trò của Trung Quốc ngày càng lớn trong thương mại quốc tế.
2.1.2.Tình hình kinh tế trong nước
Trước những biến động mạnh mẽ của tình hình kinh tế trên thế giới, nền kinh tế
Việt Nam đã chịu ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực từ sự biến động này.
Tăng trưởng kinh tế: Trong quí I năm 2009, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta giảm
mạnh cùng với sự suy giảm của nền kinh tế thế giới, tốc độ tăng sản phẩm chỉ đạt
3.14%. Bước sang những quí còn lại trong năm 2009, nền kinh tế tăng trưởng cao hơn
vì sự hồi phục của kinh tế thế giới sau khủng hoảng và gói kích cầu của chính phủ.
Bước sang năm 2010, nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng, tăng 6.78% so với năm

2009.
Lạm phát: Năm 2009, lạm phát ở nước ta thấp và tăng dần vào những tháng cuối
năm theo tình hình chung của kinh tế thế giới và do tác động của các giải pháp kích cầu
của chính phủ. Từ đầu năm đến cuối tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng ổn định ở mức tương
đối thấp, trừ 2 tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng của Tết. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân trong năm 2009 tăng 6.88% so với năm 2008. Nếu so với mức tăng của
chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 là 22.97% thì năm 2009, lạm phát ở mức thấp hơn
nhiều, đặc biệt giảm trong ba tháng đầu năm 2009. Nguyên nhân là do suy thoái kinh tế
dẫn đến đầu tư và tiêu dùng tăng tương đối thấp, chi phí giảm hàng hóa trên thế giới
giảm. Sang năm 2010, những tháng đầu lạm phát tăng chậm nhưng vào những tháng
cuối năm lại tăng cao, ở mức hai con số do lúc này giá cả thế giới tăng cao và những
chính sách nhằm nhanh chóng đạt được mục tiêu tăng trưởng cao của chính phủ. So
với năm 2009, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2010 tăng 9,19%.
13
Thất nghiệp: Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta tăng từ mức 2.38% ở năm
2008 lên mức 2.9% với 1.3 triệu người chưa có việc làm trên tổng số 55 triệu người
trong độ tuổi lao động. Bước sang năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta giảm nhẹ so
với năm 2009, ở mức 2.88%.
Diễn biến tỷ giá: Trong năm 2009, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh
tỷ giá nhằm tăng tính thanh khoản trên thị trường ngoại tệ trước tình hình suy thoái
kinh tế và dòng vốn hạn chế chảy vào nước ta. Tính đến cuối 26/12/2008, Ngân hàng
Nhà nước đã điều chỉnh biên độ tỷ giá từ 2% lên 5%, điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ liên
ngân hàng 5,16%. Đến ngày 26/11/2009, Ngân hàng Nhà nước hạ biên độ tỷ giá từ
mức 5% xuống 3%, đồng thời nâng tỷ giá liên ngân hàng thêm 5,44%, lên mức 17.961
VND/USD. Trong năm 2010, Ngân hàng nhà nước đã hai lần điều chỉnh tỷ giá. Nhằm
cân đối cung cầu ngoại tệ, kiểm soát cung tiền, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.961
VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời ấn định lãi suất tiền gửi tối đa bằng
đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1% ngày 10/2/2010. Lần thứ hai
vào ngày 17/8/2010, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên ngân

hàng từ mức 1 USD = 18.544 đồng lên mức 1 USD = 18.932 đồng, tăng gần 2,1%,
trong khi vẫn giữ nguyên biên độ ở mức +/-3.
2.2.Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế năm 2009 - 2010
2.2.1.Cán cân vãng lai
2.2.1.1.Cán cân thương mại
Cán cân thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến cán cân thanh toán, là thành phần
chủ yếu của cán cân vãng lai ở nước ta. Trong những năm trở lại đây, cán cân thương
mại thường xuyên thâm hụt, trở thành gánh nặng của cán cân thanh toán. Do tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ năm 2007, cán cân thương mại bị
thâm hụt nặng nề, đạt đỉnh vào năm 2008. Bước sang năm 2009 và 2010, tình trạnh
nhập siêu giảm dần nhưng mức độ thâm hụt cán cân thương mại vẫn còn khá lớn. Sau
đây là những phân tích cụ thể về tình hình cán cân thương mại của nước ta trong năm
2009 – 2010:
 Trong năm 2009
14
- Theo thống kê của ADB, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của nước ta là 57.096
tỷ USD, chiếm 58,8% GDP. So với năm 2008, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu giảm
8.9% (gần 5.589 tỷ USD) do sức tiêu thụ và giá cả của nhiều hàng hóa trên thế giới
giảm mạnh. Tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu của nước ta là 69.95 tỷ USD (tính theo
giá CIF), 65.402 tỷ USD (tính theo gía FOB) giảm 13,3% so với năm 2008. Như vậy,
thâm hụt cán cân thương mại năm 2009 là 8.306 tỷ USD, thu hẹp so với năm 2008
(12.782 tỷ USD). Chi tiết kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa nước ta năm 2009 thể
hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.1-Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các tháng trong năm 2009
ĐVT: Tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan
+ Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta tăng dần trong 9 tháng đầu năm 2009
khá thấp so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt khoảng 41.1 tỷ USD (giảm 14.8% so với
cùng kỳ năm ngoái). Tuy nhiên vào những tháng cuối năm, giá trị xuất khẩu tăng cao
và đạt giá trị cao nhất vào tháng 12 ( khoảng 5.64 tỷ USD). Lí do là vài vào những
tháng cuối năm, kinh tế thế giới và trong nước đã có sự hồi phục trở lại, giá cả hàng

hóa trên thế giới tăng. Tổng giá trị xuất khẩu thuộc khu vực trong nước đạt 26,7 tỷ
USD, đóng góp 23.5% vào mức giảm chung của kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Trong
khi đó, tổng giá trị xuất khẩu thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29.9 tỷ USD,
đóng góp 76.5% vào mức giảm chung.
+ Giá trị nhập khẩu hàng hóa của nước ta tăng dần trong năm 2009, và tăng cao
vào những tháng cuối năm do nền kinh tế bắt đầu phục hồi làm tăng giá cả của một số
hàng hóa và nhu cầu trong nước tăng cao . Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa thuộc khu
15
vực trong nước đạt khoảng 43.9 tỷ USD, thuộc khu vực đầu tư nước ngoài đạt gần
26.07 tỷ USD, giảm so với năm 2008.
- Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu:
+ Các mặt hàng xuất khẩu đạt trên một tỷ USD trong năm 2009 là thuỷ sản, cà
phê, gạo, than đá, dầu thô, xăng dầu các loại, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may, giày
dép các loại, đá quý kim loại quý và sản phẩm, máy vi tính sản phẩm điện tử và linh
kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác. Trong đó, mặt hàng đạt giá trị xuất
khẩu cao nhất là hàng dệt may đạt 9.07 tỷ USD. Xét về lượng, các mặt hàng xuất khẩu
chính của nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng cao. Đặc biệt, mặt hàng gạo đạt giá trị xuất
khẩu cao nhất từ trước nay, đạt 2.7 tỷ USD. Xuất khẩu dầu thô giảm so với năm 2008,
đạt 6.2 tỷ USD. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ yếu đều giảm
so với năm 2008.
+ Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong năm nay đạt trên 1 tỷ USD là: thức ăn
gia súc và nguyên liệu, xăng dầu, hoá chất, sản phẩm hóa chất, dược phẩm, phân bón,
chất dẻo, nguyên liệu, sản phẩm từ chất dẻo, vải các loại, nguyên phụ liệu dệt may da
giày, sắt thép các loại, sản phẩm từ sắt thép, kim loại thường khác, máy vi tính sản
phẩm điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, ô tô nguyên chiếc
các loại, linh kiện phụ tùng ô tô. Trong đó, hàng hóa và nguyên nhiên liệu chiếm
61.3%, tổng kim ngạch nhập khẩu; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm 29.5%;
hàng tiêu dùng chiếm 8.7% và vàng chiếm 0.5%. Năm nay, hầu hết các mặt hàng
nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất đều giảm nhưng cũng có một số mặt hàng đạt kim
ngạch xuất khẩu tăng so với năm trước như: điện tử máy tính và linh kiện, ôtô

- Về đối tác xuất nhập khẩu:
+ Kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang các thị trường chủ yếu như: Mỹ, EU,
ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ… đều giảm đáng kể. Tuy nhiên,
xuất khẩu sang thị trường Châu Phi tăng đáng kể, gấp 8 lần 2008.
+ Các thị trường nhập khẩu chính của nước ta là: Trung Quốc, ASEAN, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, EU, Mỹ. Trong đó, nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc và
đạt 16.1 tỷ USD, tăng 27.8% so với 2008.
 Trong năm 2010
- Kim ngạch xuất nhập khẩu: Tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của nước ta năm
2010 là 72.192 tỷ USD, tăng 26.4% so với năm 2009. Tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu
16
tăng 21.2% so với năm 2009 do sự phục hồi của nền kinh tế làm gia tăng nhu cầu nhập
khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và giá cả hàng hóa tăng, đạt 79.289 tỷ USD
(theo giá FOB). Như vậy, nhập siêu của nước ta trong năm 2010 là 7.097 tỷ USD, giảm
14.6% so với năm 2009. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài cải thiện đáng kể, đạt 38.8 tỷ USD (kể cả dầu thô), tăng 22.7% so
với 2009 và chiếm 52.4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Diễn biến kim ngạch xuất nhập
khẩu qua các tháng trong năm 2010 cụ thể là:
+ Kim ngạch xuất khẩu nước ta năm 2010 có sự thay đổi theo chịu hướng tích
cực do đơn giá của hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều tăng cao. Hầu hết các tháng
trong năm đều đạt giá trị xuất khẩu cao hơn 6 tỷ USD. Trong đó, tháng 12 đạt giá trị
cao nhất 7.1 tỷ USD tăng 29.9% so với cùng kỳ năm 2009.
Biểu đồ 2.2-Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các tháng trong năm 2010
ĐVT: tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan
- Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu:
+ Năm 2010 có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, tăng 6 mặt
hàng so với năm 2009. Sự tăng lên trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực như hàng dệt may (tăng 23.7%), giày dép (tăng 26%), thủy sản (tăng 18%),
hàng điện tử máy tính (tăng 28.8%), gỗ và sản phẩm gỗ (tăng 31.2%), gạo (tăng
20.6%), máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng (tăng 48%), cao su (tăng 93.7%) là do sự

phục hồi của nền kinh tế thế giới.
+ Kim ngạch các mặt hàng nhập khẩu chính của nước ta đều tăng so với năm
2009. Cụ thể: Máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 8%, nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu,
dệt may da giày tăng 33.6% so với năm 2009, sắt thép các loại tăng 14%, máy vi tính,
17
sản phẩm điện tử, linh kiện tăng 31.7%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của nước ta
vẫn là nhóm hàng tư liệu sản xuất.
- Về đối tác xuất nhập khẩu:
+ Đối tác xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta vẫn là Hoa Kỳ
với kim ngạch xuất khẩu đạt 14.24 tỷ USD, chiếm 19.7% tổng kim ngạch xuất khẩu,
tăng 25.4% so với cùng kỳ năm 2009. Đứng thứ 2 là EU đạt 10 tỷ USD, chiếm 13.9%
và tăng 15.9%. Xuất khẩu sang các thị trường khác như ASEAN, Nhật Bản và Trung
Quốc đều tăng so với năm 2010.
+ Đối tác nhập khẩu: Thị trường nhập khẩu lớn nhất là Trung Quốc với kim
ngạch nhập khẩu đạt 20.02 tỷ USD, chiếm 25.2% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt
hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc là: máy móc, thiết bị, phụ tùng; máy tính và
linh kiện; sắt thép; xăng dầu.
Bắt đầu từ năm 2002, cán cân thương mại nước ta thường xuyên thâm hụt và không
ngừng tăng qua các năm, thâm hụt lên đến 12.782 tỷ USD năm 2008 (gấp 5 lần 2003).
Sang năm 2009 - 2010, thâm hụt cán cân thương mại đã giảm nhưng vẫn còn khá cao.
Tình trạng thâm hụt này taọ gánh nặng cho cán cân vãng lai, ảnh hưởng lên cán cân
thanh toán nước ta. Hơn nữa, trong những năm 2007 – 2010, tỷ lệ thâm hụt cán cân
thương mại so với GDP đã gần 10%, tuy chưa đến mức báo động nhưng cần có những
giải pháp cụ thể để giải quyết tình trạng này. Biểu đồ dưới cho ta thấy rõ sự gia tăng
thâm hụt cán cân thương mại một cách rõ rệt.
Biểu đồ 2.3- Kim ngạch và tốc độ tăng/giảm xuất khẩu, nhập khẩu và cán
cân thương mại năm 2002- 2010
18
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
2.2.1.2.Cán cân dịch vụ và thu nhập

Cán cân dịch vụ và thu nhập chỉ chiếm một tỷ trọng khá nhỏ trong cán cân vãng
lai. Trong năm 2009 – 2010, cán cân dịch vụ và thu nhập của nước ta đều thâm hụt.
Thâm hụt năm 2009 là 4.162 tỷ USD, giảm 21.7% (1.154 tỷ USD) so với năm 2008 và
thâm hụt năm 2010 là 5.817 tỷ USD, tăng 39.8% (1.655 tỷ USD) so với năm 2009. Chi
tiết:
- Năm 2009, theo thống kê của ADB, xuất khẩu dịch vụ và thu nhập của nước ta
là 6.519 tỷ USD, giảm 22.4% so với năm 2008 là 8.398 tỷ USD. Nguyên nhân là do
suy thoái kinh tế, dịch bệnh….Ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất
khẩu dịch vụ của nước ta là ngành du lịch (đạt 3.05 tỷ USD) và vận tải (đạt 2.062 tỷ
USD). Kim ngạch xuất khẩu của hai ngành này đều giảm. Riêng ngành viễn thông có
kim ngạch xuất khẩu tăng (từ 80 lên 120 triệu USD). Cũng như xuất khẩu, nhập khẩu
dịch vụ cũng giảm do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
- Năm 2010, ADB thống kê kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và thu nhập của nước ta là
7.916 tỷ USD và nhập khẩu là 13.733 tỷ USD. Vậy, kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ và
thu nhập đều tăng so với năm 2009.
2.2.1.3.Chuyển giao vãng lai một chiều
Chuyển giao vãng lai một chiều bao gồm hai khu vực là tư nhân và chính phủ.
Theo thống kê của ADB, chuyển giao vãng lai một chiều của nước ta năm 2009 đạt
6.448 tỷ USD và tăng 34% vào năm 2010 (năm 2010 đạt 8.661 tỷ USD). So với năm
2008, chuyển giao vãng lai một chiều năm 2009 giảm 11.6 %. Đối với nước ta, đóng
góp chủ yếu cho chuyển giao vãng lai một chiều chủ yếu là kiều hối thuộc khu vực tư
nhân. Lượng kiều hối mà nước ta nhận được hàng năm đã góp phần giảm bớt thâm hụt
cán cân vãng lai. Do nước ta có những chính sách tích cực tạo điều kiện cho việc
chuyển giao kiều hối, lượng kiều hối nước ta không ngừng lên và tăng tương đối cao
trong những năm gần đây. Điều đó thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.4-Lượng kiều hối vào Việt Nam qua các năm
19
Nguồn: ADB
Năm 2009, lượng kiều hối nước ta nhận được là 6.84 tỷ USD, có sự sụt giảm so
với năm 2008 là 7.2 tỷ USD (giảm 36 triệu USD). Nhưng nếu so sánh với năm 2006 thì

lượng kiều hối nước ta nhận được đã tăng lên khá cao (tăng 42.5%). Bước sang năm
2010, lượng kiều hối đạt 8 tỷ USD, tăng cao nhất từ trước đến giờ và vượt chỉ tiêu đã
đề ra là 6 tỷ USD. Lượng kiều hối này do các Việt kiều và lao động xuất khẩu gửi về
nhằm giúp đỡ người thân, đầu tư và được gửi về tư các nước chủ yếu như: Hoa kỳ,
Canada, Úc đây đa số là những nước phát triển và có thu nhập cao.
Từ những phân tích về thực trạng các bộ phận của cán cân vãng lai, ta có thể
thấy thâm hụt cán cân vãng lai có nguyên nhân chủ yếu từ cán cân thương mại. Tuy
chuyển giao vãng lai đã bù đắp một phần nhưng thâm hụt cán cân vãng lai vẫn còn khá
lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã tác động làm thâm hụt cán cân vãng lai
năm 2008 tăng cao, thâm hụt 10.8 tỷ USD. Năm 2009, Thâm hụt cán cân vãng lai đã
giảm xuống nhưng vẫn còn đáng kể, đạt 6.02 tỷ USD. Năm 2010, khi mà thế giới đã có
những chuyển biến tích cực, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cũng như
lượng kiều hồi tăng, thâm hụt cán cân vãng lai giảm so với năm 2009, đạt 4.253 tỷ
USD. Tuy tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai ở nước ta theo các chuyên gia là chưa
quá trầm trọng nhưng tình trạng thâm hụt ngày càng tăng cao sẽ kéo theo tình trạng
thâm hụt của cán cân thanh toán, làm giảm dự trữ ngoại tệ và tăng rủi ro của nền kinh
tế.
2.2.2.Cán cân vốn
Cán cân vãng lai của một nước liên tục thâm hụt qua các năm thể hiện rằng, về mặt
lý thuyết, quốc gia đó nợ nước ngoài nhiều hơn nước ngoài nợ quốc gia đó. Để bù đắp
20
được phần nào thâm hụt cán cân vãng lai thì quốc gia bị thâm hụt cán cân vãng lai cần
những dòng vốn chảy vào trong nước như: FDI; FPI; vay ngắn hạn, trung và dài hạn,
ODA và kiều hối. Do vậy cán cân vốn thường thặng dư khi cán cân vãng lai bị thâm
hụt. Nếu thặng dư trên cán cân vốn không bù đắp đủ thâm hụt cán cân vãng lai thì quốc
gia đó cần phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu. Và
nếu dự trữ ngoại hối không đủ mạnh thì đồng tiền của quốc gia đó buộc phải mất
giá.Trong bài phân tích cán cân thanh toán giai đoạn 2009-2010, thì Việt Nam cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ.
Nhìn chung, cán cân vãng lai của Việt Nam trong hai năm 2009 và 2010 bị thâm

hụt với con số lần lượt là 6,02 tỷ USD và 4,25 tỷ USD [1]. Về mặt tuyệt đối, thì thâm
hụt cán cân vãng lai đã được cải thiện đáng kể so với thời kỳ 2005-2008, đặc biệt là từ
năm 2007-khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trái ngược
với trạng thái thâm hụt của cán cân vãng lai trên bảng cân đối BOP là trạng thái thặng
dư cán cân vốn trong hai năm 2009 và 2010. Theo số liệu thống kê của ADB thì tài
khoản vốn của Việt Nam đạt mức thặng dư là 6.755 triệu USD năm 2009 và 5629 triệu
USD năm 2010. Điều này có nghĩa là thâm hụt tài khoản vãng lai tại Việt Nam được
bù đắp bởi thặng dư trong tài khoản vốn.
Biểu đồ 2.4-Cán cân vốn và cán cân vãng lai của Việt Nam năm 2008-2010
Đơn vị tính: Tỷ USD Nguồn: ADB
1
1
Nhóm vẽ dựa trên số liệu của ADB trong báo cáo “ Key indicators for Asia and The Pacific 2011”
21

×