Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.38 KB, 65 trang )

Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU:
DANH MỤC BIỂU ĐỒ:
DANH MỤC HÌNH ẢNH
1
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và
diễn biến phức tạp gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả quốc gia công nghiệp
phát triển lẫn các nước đang phát triển.Bên cạnh khủng hoảng tài chính, ngày nay
ngườita còn đề cập nhiều và nghiên cứu một cách nghiêm túc hơn một loại khủng
hoảngmới “Khủng hoảng nợ công”.
Tình trạng nợ công gia tăng liên tục ở cả các nước phát triển vượt quá sự tăng
trưởng của nền kinh tế (GDP) gây ra tình trạng mất kiểm soát trong khả năng chi trả
của quốc gia. Trong nền kinh tế mở hiện nay, vay nợ là hiện tượng bình thường trong
quy luật kinh tế của một quốc gia nói riêng và của cả thế giới nói chung. Nhưng điều
đáng quan tâm ở đây là nợ công ngày một nhiều và dần lâm vào tình trạng khó kiểm
soát, đặc biệt đừng để nợ công tác động tiêu cực đến thế hệ mai sau.
Điển hình là cuộc khủng hoảng nợ công ở Iceland, Argentina, và gần đây nhất là
một số nước trong khu vực EU như Hy Lạp và Ireland.Chính điều đó đã đánh lên hồi
trống báo động cho các nước trên toàn thế giới phải suy nghĩ chín chắn về tình trạng nợ
công của chính quốc gia mình.Chính vì vậy, nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác
động của nó đến thị trường tài chính tiền tệ” là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách
hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế giới. Bởi nếu
không được phòng ngừa và cứu trợ kịp thời, sẽ nổ ra một hiệu ứng mà mọi người đều
biết đó là hiệu ứng Domino, gây sụp đổ dây chuyền và lan truyền nguy hiểm tới chất
lượng tài sản hệ thống ngân hàng thương mại do phần lớn trái phiếu chính phủ phát
hành đều được ngân hàng nắm giữ, gây nên khủng hoảng ngân hàng, nhanh chóng kéo
theo sự hoãn loạn rộng khắp thế giới.


Tuy nhiên, việc tìm hiểu, phân tích và nghiên cứu các cuộc khủng hoảng đã và
đang xảy ra, cần phải đặt vào các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đối với mỗi nền kinh
tế, mỗi quốcgia.Do vậy, việc tìm ra các giải pháp tối ưu để hạn chế sự tác động của
khủng khoảng nợ công là điều hết sức khó khăn và phức tạp,đặc biệt là trong nền kinh
tế toàn cầu hóa ngày nay.
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với kiến thức hạn hẹp của
tập thể nhóm 4 và nhóm 9, chúng em chỉ xin trình bày một số hiểu biết khái quát về
những vấn đề sau:
Chương 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công.
Chương 2: Tình hình khủng hoảng nợ công thế giới.
Chương3: Tác động của cơn bão nợ công đến các nền kinh tế khác.
Chương 4: Giải pháp
2
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Trong suốt quá trình làm việc có nhiều sự tranh luận đồng thời nâng cao kiến
thức chung của cả nhóm. Tuy nhiên, có những hạn chế khách quan mà nhóm khó có
thể kiểm soát hoàn toàn nên chắc sẽ có nhiều sai sót. Mong thầy và các bạn nghiên cứu
và góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện .
Đề tài này được thực hiện bởi sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Minh Sáng _
Giảng viên khoa Ngân Hàng Quốc Tế, Trường ĐH Ngân Hàng TP.HCM.
Ngày 27 tháng 10 năm 2011
Nhóm 4 & Nhóm 9 TCQT_T08
3
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
CHƯƠNG 1.NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.1. Một số khái niệm về nợ công
1.1.1. Nợ công
Nợ là một thuật ngữ thường được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản.Tuy
nhiên, nợ cũng có thể được sử dụng để chỉ các nghĩa vụ khác.Trong trường hợp nợ tài
sản thì nợ là một cách sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức

mua đó.Các công ty cũng có thể sử dụng nợ như là một phần trong chiến lược tài chính
tổng thể của mình.
Nợ được hình thành khi một người cho vay đồng ý cho người vay, vay một
lượng tài sản nhất định.Trong xã hội hiện đại, nợ thường được đi kèm với sự đảm bảo
khả năng thanh toán với một mức lãi suất nhất định trong một thời gian đã thỏa thuận
trước.
Nợ nước ngoài của một quốc gia là khoản vay nợ của một quốc gia từ một quốc
gia khác. Hay theo IMF, nó là khoản nợ của người cư trú đối với người không cư trú.
1.1.2. Khu vực công
Khu vực công bao gồm khu vực nhà nước (gồm cả trung ương, địa phương) và
doanh nghiệp quốc doanh.Doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp mà nhà nước chi
phối hoặc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Và do đó,thường vì áp lực chính trị mà doanh
nghiệp quốc doanh phải chịu trách nhiệm về nợ nần của mình.
1.1.3. Nợ công
-Định nghĩa theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
Nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa
vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, NHTW và các tổ
chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách Nhà nước (NSNN) quyết định hay
trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ
thay).
Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương,
các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo
lãnh thanh toán.
Tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia
cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác
định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ
công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Bungari, Rumani…), nợ của doanh
nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…).
4
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới

-Định nghĩa theo Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009
Nợ công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính
quyền địa phương. Như vậy, Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu
chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn
kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
1.1.4. Khủng hoảng nợ công
Khủng hoảng nợ là mất khả năng hoàn trả nợ vay (gốc và lãi) và không có ý
định trả nợ trong tương lai.
Khủng hoảng nợ công: Là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm mất cân đối
giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi nhiều quá, trong khi thu không đáp
ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái
phiếu, hiệp định tín dụng…để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ chồng chất nợ.Thâm hụt
ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng và ngày càng nhiều lên thêm nếu như
không trả ngay.
1.2. Phân loại nợ công
1.2.1. Phân loại theo nguồn vay
Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ. Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội, thông qua phát hành, uỷ quyền
phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các nguồn tài chính hợp pháp
khác theo quy định của pháp luật.
Vay nước ngoài: là khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc không
phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức khác của Quốc gia mình
vay của chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá
nhân nước ngoài.
1.2.2. Phân theo chủ thể đi vay
Nợ Chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay
khác do Bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp
luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước phát hành nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.
5
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
1.2.3. Phân theo loại hình vay
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA): Là khoản vay nhân danh Nhà nước,
Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song
phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại
(thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản
vay không ràng buộc.
Vay ưu đãi: Là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng
thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại: Là khoản vay theo điều kiện thị trường.
1.2.4. Phân loại theo thời hạn vay
Vay ngắn hạn: khoản vay có thời hạn dưới một năm.
Vay trung-dài hạn: khoản vay có thời hạn từ một năm trở lên.
1.2.5. Phân loại chủ nợ và nhóm chủ nợ
Chủ nợ chính: Chính phủ hoặc cơ quan đại diện cho Chính phủ, các tổ chức tài
chính quốc tế đa phương.
Chủ nợ tư nhân: bao gồm các ngân hàng thương mại, người sở hữu trái phiếu,
các chủ nợ tư nhân khác không thuộc chính phủ hoặc không đại diện cho chính phủ.
1.3. Các chỉ tiêu xác định nợ
1.3.1. Chỉ tiêu giám sát tìh trạng nợ công
-Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
-Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP
-Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
-Nợ chính phủ so với GDP

-Nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước
-Nghĩa vụ nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước
-Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách nhà nước
-Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay nước ngoài của Chính
phủ.
Thông thường người ta sử dụng chỉ tiêu nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân
(GDP) để xác định tình trạng nợ công của một quốc gia.
6
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
1.3.2. Ngưỡng an toàn của nợ công
Bảng 1.1. Ngưỡng an toàn của nợ công
(Nguồn: IMF)
Theo đó, nợ quốc gia không vượt quá 40% GDP hoặc không vượt quá 150%
kim ngạch xuất khẩu được xem là nằm trong giới hạn trung bình. Để nằm trong giới
hạn an toàn thì nợ quốc gia không được phép vượt quá 30% GDP hoặc 100% kim
ngạch xuất khẩu.
Trả nợ quốc gia hàng năm không vượt quá 20% kim ngạch xuất khẩu và trả nợ
chính phủ hàng năm không vượt quá 30% thu ngân sách là ở mức độ trung bình. Đối
với mức độ an toàn thì trả nợ quốc gia hàng năm không quá 15% kim ngạch xuất khẩu
và trả nợ chính phủ hàng năm không quá 25% thu ngân sách.
[1]
Tuy nhiên chỉ dựa vào chỉ số nợ công/GDP không thể xác định được một cách
toàn diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công mà cần phải xem xét nợ công một
cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế
quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng
hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm
nội địa và mức đầu tư toàn xã hội Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công,
tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ
lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công Điển hình như nợ công khoảng 100% đủ
để một nước như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn

200% như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn, hay trường hợp của Argentina, một quốc
gia dù có mức nợ công dưới 60% và ngân sách tài chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra
khủng hoảng nợ
Ngoài ra, cũng cần phải tính đến độ nhạy với các cú sốc.Bởi mức nợ cho dù có
nhỏ hơn ngưỡng, nhưng vẫn có những cú sốc không dự báo được. Ví dụ lạm phát có
thể cao hay tỷ giá có thay đổi thì có thể làm thay đổi hoàn toàn dự báo. Một điều rất
7
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
then chốt là cần phải có thông tin chính xác để đưa ra quyết định đúng và tạo niềm tin
cho thị trường.
Một điều nữa cần lưu ý chính là những khoản nợ ngầm, các khoản nợ ngân
hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh.Đây là những
yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.
VD: Một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có
sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở
chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ, trong khi
70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự
chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ
Tài chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia
của Nhật là 1,046.873 tỉ USD).
Ta cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ, biết quản trị nợ và phân tích
nợ một cách cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào,
bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào Nợ không
phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay
và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ chẳng hạn như tạo ra
lạm phát, gây nóng cho nền kinh tế
1.4. Nguyên nhân chung dẫn đến nợ công của các quốc gia
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, ở mỗi nước và tuỳ từng thời kỳ lại có
các nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có
chung một số nguyên nhân cơ bản sau:

Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước: Lương và chi phí hoạt
động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương
trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có
sở hạ tầng không ngừng tăng…,đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài
chính-kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
Chính phủ cố gắng vẽ nên bức tranh sáng màu về tình trạng ngân sách của
quốc gia bằng việc cung cấp số liệu không trung thực. Thêm vào đó là sự kiểm soát
chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng,
cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham
nhũng phát triển ở nhiều nước (điển hình như Hy Lạp)
Cácnguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi: Thậm chí
một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như thuế
quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ phù hợp với các
quy định của WTO và các thoả thuận thương mại khác mà các quốc gia tham gia vào.
Trong khi đó, vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít khó khăn ở
8
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử
lý không nghiêm của các cơ quan chức năng.
Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn
lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa chính phủ cũng
dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả vay nợ
nữa. (điển hình Argentina)
Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của
một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng.
Mặt khác Chính phủ đã lựa chọn bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ (điển
hình Ireland)
Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách của
quốc gia sẽ khó có thể bù đắp bằng các nguồn vốn nội địa và phải đi vay vốn từ nước
ngoài.

1.5. Sự tác động của nợ công đến nền kinh tế
Tác động của nợ công “quá tải” đến các quốc gia được mô tả bằng sơ đồ sau:
Hình 1.1. Sự tác động của nợ công “quá mức” đến một nền kinh tế “khỏe mạnh”
Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số dưới đây:
-Cán cân ngân sách thâm hụt
- Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng
- Lạm phát tăng
- Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm
9
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
- Thất nghiệp tăng
Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, Chính phủ cần huy động để
trả nợ, buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái phiếu, vay mượn ở ngân
hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước khác, từ các tổ chức quốc tế như
IMF hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách bên cạnh đó phải thực hiện chính
sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm chi tiêu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ
thì giá trái phiếu chính phủ giảm, lãi suất trái phiếu tăng vì chính phủ phải nâng lãi suất
trái phiếu thì mới huy động được người mua.
Khi cán cân ngân sách thâm hụt, nếungân hàng trung ương tài trợ thâm hụt bằng
cách phát hành thêm tiền làm tăng khối cung tiền gây ra áp lực lạm phát.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp, kìm
hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút
dẫn đến chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu tư sẽ dẫn đến tình trạng
việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng.
Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người dân
và của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền quốc gia sụt
giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu
và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm.
10
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG THẾ GIỚI
2.1. Khủng hoảng nợ công ở Mexico và một số nước LDCs
2.1.1. Đặc trưng các nước LDCs
GNP bình quân đầu người thấp hơn các nước phát triển.Những nước kém phát
triển được chia thành 2 nhóm: Low income LDCs- thu nhập bình quân đầu người dưới
750 USD và Middle income LDCs- mức thu nhập bình quân đầu người từ 750USD đến
8955USD.
Thị trường tài chính: chật hẹp, không tạo đủ cơ hội đầu tư, các công ty thường
phải vay vốn NH. Lãi suất thực thấp, tiết kiệm thấp, môi trường khan hiếm tín dụng.
Các tỷ giá của các nước LDCs thường được gắn cố định với USD, FRF hay
SDR và nhiều nước tăng cường kiểm soát ngoại hối chặt chẽ.
Hàng hóa thường có mức độ đa dạng hóa thấp.
Môi trường gây lạm phát cao.
2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ
Khủng hoảng nợ nhằm ám chỉ cuộc khủng hoảng nợ ở Châu Mỹ Latinh thời kì
đầu những năm 1980 (một số nước còn bắt đầu từ những năm 1970), thường được biết
đến cái tên Thế Kỉ Mất Mát, khi đó các quốc gia trong khu vực này rơi vào cảnh nợ
nước ngoài vượt quá khả năng kiểm soát và không còn khả năng trảnợ.
2.1.3. Diễn biến nợ công
2.1.3.1. Mexico
Mexico là một trong những nước xuất khẩu dầu lớn trên thế giới nên nó là nước
thu được lợi lớn trong 2 cú sốc giá dầu năm 1973-1974 và 1979. Do có nguồn thu lớn
từ xuất khẩu dầu nên chính phủ Mexico lúc đó đã thực hiện các chương trình tăng chi
phí công cộng để nâng cấp cơ sở hạ tầng và thực hiện nhiều chương trình xã hội khác.
Kết quả là tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng tình trạng thâm hụt ngân sách cũng
tăng nhanh chóng.
Do bị tàn phá nặng nề bở cú sốc giá dầu lần thứ nhất nên các nước công nghiệp
hóa đã áp dụng các biện pháp giảm sự lệ thuộc vào nhập khẩu dầu. Ngoài ra,cuộc suy
thoái kinh tế Thế giới cũng làm nhu cầu về dầu giảm đáng kể. Tỷ lệ lạm phát quá cao
(27% năm 1981), đồng Peso bị định giá quá cao (do được neo cố định với USD) cộng

với thâm hụt ngân sách lớn (16,2%/ GDP năm 1982) và thu nhập từ xuất khẩu dầu
giảm, nên tài khoản vãng lai của Mexico bị thâm hụt trầm trọng.
Tháng 2 năm 1982,đồng Peso được phá giánhưng chính phủ vẫn bất lực trong
việc tìm kiếm những giải pháp khác để giảm thâm hụt, nên hiệu ứng chính của phá giá
chỉ làm tăng thêm áp lực làm gia tăng lạm phát.
Vị thế kinh tế của Mexico bị giảm sút.Các ngân hàng quốc tế cũng không muốn
cho Mexico vay thêm những khoản vay tín dụng mới vì họ không tin vào sự quyết tâm
11
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
cắt giảm thâm hụt ngân sách của chính phủ. Tổng dư nợ nước ngoài tăng nhanh chóng
và không có khả năng trả nợ gốc và lãi hàng năm càng làm tăng sự đầu cơ đồng Peso,
do đó làm cho dự trữ ngoại hối cạn kiệt.
Ngày 12 tháng 8 năm 1982, Mexico tuyên bố đình chỉ trả nợ nước ngoài.Mexico
đề nghị những khoản vay tín dụng mới và đồng thời đề nghị cơ cấu lại nợ cũ đã đến
hạn. Mexico cũng yêu cầu tín dụng từ IMF và sẽ chấp nhận chương trình bình ổn do
IMF bảo trợ.
2.1.3.2. Nợ công ở các nước LDCs
Từ những năm 1930, các nước LDCs đã từng bị vỡ nợ, do đó các nước phát
triển đã hạn chế cấp tín dụng cho các nước LDCs cho đến những năm 1970. Nguồn gốc
của khủng hoảng bắt nguồn từ cú sốc giá dầu lần thứ nhất và tháng 10 năm 1973. Giá
dầu tăng gấp 4 lần làm cho cán cân vãng lai của các nước LDCs và các nước phát triển
thâm hụt trầm trọng. Nguồn thâm hụt của các nước LDCs được bù đắp bởi thặng dư
vãng lai của các nước OPEC. Tuy nợ nước ngoài tăng đáng kể : 130 tỷ USD năm 1973
lên 336 tỷ USD năm 1978 nhưng kinh tế các nước LDCs tăng trưởng rất tốt và không
có một khó khăn đặc biệt nào nên các ngân hàng cho vay rất tin tưởng vào khả năng trả
nợ của các nước này.
Năm 1979, cúsốc giá dầu lần 2: giá dầu tăng từ 13USD/barrel lên 32USD/barrel.
Trong khi chính phủ các nước Mỹ,Đức, Pháp, Nhật và Italy áp dụng thắt chặt tiền tệ để
kiểm soát lạm phát. Các nước LDCs lại ưu tiên đi vay nợ để bù đắp thâm hụt cán cân
vãng lai, làm nợ nước ngoài tăng tiếp lên đến 662 tỷ USD năm 1982.

Ngoài ra, thâm hụt ngân sách Mỹ tăng nhanh làm cho lãi suất LIBOR tăng từ
9,5% (giữa năm 1978) lên 16,6% (giữa năm 1981). Mỹ đi vay nhiều với lãi suất cao,
điều này làm cho các ngân hàng thích cho Mỹ vay hơn các nước LDCs và lãi suất cao,
làm USD lên giá nhanh chóng, làm tăng giá trị thực nợ nước ngoài của các nước LDCs.
Sự suy thoái kinh tế thế giới 1981-1983 cũng tạo hiệu ứng tàn phá nền kinh tế
các nước LDCs vì một mặt nó là giảm khối lượng hàng xuất khẩu của các nước LDCs,
mặt khác là nó làm giảm giá hàng xuất khẩu, làm cho thu nhập xuất khẩu giảm nhanh
chóng, cán cân vãng lai càng thâm hụt trầm trọng.
Do ảnh hưởng của các yếu tố trên, tổng dư nợ nước ngoài và các khoản lãi hàng
năm tăng khủng khiếp trong khi đó khả năng tăng thu nhập để trả nợ lại không có. Các
khoản vay đã bị đầu tư không hiệu quả và mức tiêu dùng xã hội lại được duy trì tương
đối cao và xa xỉ.
12
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Biểu đồ 2.1. Tổng các khoản nợ chưa thanh toán của các nước Mỹ-Latinh năm 1970-
1989
Bảng 2.1. Bảng biểu trình bày diễn biến cán cân vãng lai từ 1972-1982 (%GDP)
Năm Argentina Brazil Mexico Venezuela
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
-0.5

1.0
0.1
-3.3
1.2
2.2
2.8
-0.5
-3.1
-3.8
-4.1
-2.9
-2.7
-7.3
-5.7
-4.3
-2.9
-3.5
-4.7
-5.3
-4.4
-6.1
-2.0
-2.6
-4.0
-4.6
-3.8
-2.3
-3.1
-4.1
-4.0

-5.8
-3.7
-0.7
5.2
22.0
7.9
0.8
-8.8
-14.6
0.7
8.0
6.0
-6.3
Tia lửa châm ngòi cuộc khủng hoảng nợ ở các nước kém phát triển LDCs là việc
Mexico không có khả năng hoàn trả các khoản nợ vay cho các Ngân hàng thương mại
Mỹ và các chủ nợ khác. Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào 12 tháng 8 năm 1982, khi mà
Bộ trưởng Bộ Tài chính của Mexico thông báo cho Chủ tịch Cục Dữ trữ Liên bang, thư
13
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
ký của Kho Bạc và giám đốc điều hành IMF rằng Mexico sẽ không thể thanh toán món
nợ 80 tỷ USD( chủ yếu là đôla). Tháng 10 năm 1983, tình hình càng xấu hơn khi 27
nước ước nợ 239 tỷ USD tuyên bố hoãn trả nợ cho các ngân hàng. Những nước khác
cũng sớm làm theo. 16 quốc gia Châu Mỹ Latinh, 4 nước lớn nhất là Mexico, Brazil,
Venezuela và Argentina- nợ các ngân hàng thương mại khác nhau 176 tỷ USD, chiếm
xấp xỉ 74% tổng dư nợ của các nước LDCs. Trong đó, nợ 37 tỷ USD nợ 8 ngân hàng
lớn nhất Mỹ và chiếm 147% vốn của họ và dự trữ vào thời điểm đó. Kết quả là, một số
ngân hàng lớn nhất trên thế giới phải đối mặt với nguy cơ bị suy yếu và phá sản.
Bảng 2.2. Tỷ lệ tài chính trung bình dành cho 8 ngân hàng tiền tệ trung tâm từ 1974-
1989
14

Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
2.1.4. Xử lý khủng hoảng nợ
Giai đoạn 1: Từ 1982 – 10/1985
-Cơ cấu lại nợ đến hạn: các khoản vay ngắn hạn có thờ hạn 2-4 năm cùng với
mức lãi suất và phí ưu đãi nhưng chỉ dành cho các nước có thể tiếp tục trả nợ gốc và lãi
hàng năm.
- Thực hiện chương trình cải tố của IMF:
(1) Thắt chặt tài khóa và tiền tệ nhằm hạn chế tổng cầu.
(2) Được phép phá giá tiền tệ 1 lần để cải thiện sức cạnh tranh.
(3) Cải cách dựa theo cơ chế thị trường
Ở giai đoạn này, việc xử lý khủng hoảng chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cho các ngân
hàng chủ nợ, các nước con nợ trải qua 1 thời kỳ xử lý khủng hoảng khắc nghiệt, nhu
cầu cần thiết của các nước con nợ bị bỏ qua và những khoản vay mới làm cho số dư nợ
đã lớn lại càng lớn hơn.
Giai đoạn 2: Từ 10/1985 – 3/1989: kế hoạch Baker (của Bộ trưởng Tài chính
Mỹ James Baker)
15
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
- Từng chủ nợ giải quyết riêng với từng con nợ để tìm ra các biện pháp trả nợ
hiệu quả.
- Cải tổ cơ cấu trên cơ sở thị trường: tự do hóa thương mại,cắt giảm chi tiêu
chính phủ,nới lỏng kiểm soát lên đầu tư nước ngoài
- Tăng cường vai trò của IMF và WB.
- Cho vay tín dụng mới: các NHTM cho 15 nước nợ chính vay 20 tỷ USD trong
3 năm, WB hỗ trợ 10 tỷ USD.
Ở giai đoạn này, kế hoạch Baker cũng không thành công.
Giai đoạn 3: Từ tháng 3/1989 đến nay: kế hoạch Brady ( của Bộ trưởng Tài
chính Mỹ Nicholas Brady)
- Giống kế hoạch Baker:
(1) Từng chủ nợ giải quyết riêng với từng con nợ.

(2) Cải tổ theo cơ chế thị trường.
(3) Bình ổn kinh tế vĩ mô.
- Nhấn mạnh sự cần thiết cũng những khoản vay tín dụng mới và khuyến khích
các chủ nợ miễn nhiễm một phần nợ cho con nợ.
- Yêu cầu WB và IMF hình thành nguồn vốn để hỗ trợ, chấp nhận chương trình
cải tổ kinh tế của IMF, hình thành 1 chương trình giảm nợ 70 tỷ USD cho 39 nước
LDCs, WB và IMF thành lập quỹ hỗ trợ có trị giá 24 tỷ USD.
- 1989-1994 có 370 tỷ USD đã được cơ cấu lại nợ và 100 tỷ USD được miễn
giảm. Đến tháng 12/1995 đã có 25 thỏa thuận miễn giảm nợ liên quan đến 23 nước.
Bảng 2.3. Những thỏa thuận cơ cấu lại nợ 1988 - 1994 (triệu USD)
1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994
Các nước đang phát
triển
Tổng cơ cấu lại nợ 82 813 35 603 78 487 45 235 57 778 64 417 88 928
Miễn giàm giảm nợ -20 450 -32 007 -10 163 -11 359 -8 555 -18 389
Các nước con nợ
lớn có TN trung
bình
Tổng cơ cấu lại nợ 58 262 16 111 43 695 17 285 44 564 37 793 64 723
Miễn giàm giảm nợ -9 689 -15294 -2 706 -6 621 -6 577 -15 236
2.2. Khủng hoảng nợ công ở châu Âu và hiệu ứng domino
2.2.1. Đặc trưng các nước thuộc Eurozone
16
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Khu vực các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu là một nhóm các quốc gia
thành viên của Liên minh Châu Âu sử dụng đồng Euro làm đơn vị tiền tệ chính thức
của mình.
Có 17 nước sau đây đã đưa đồng Euro làm tiền tệ chính thức vào lưu hành:
1. Áo
2. Bỉ

3. Bồ Đào Nha
4. Cyprus
5. Đức
6. Hà Lan
7. Hy Lạp
8. Ireland
9. Luxembourg
10. Malta
11. Pháp
12. Phần Lan
13. Tây Ban Nha
14. Ý
15. Slovenia
16. Slovakia
17. Estonia
Tháng 11năm 2004, Hy Lạp đã không thỏa mãn đủ các điều kiện gia nhập theo
thời điểm quy định trong Hiệp định Masstricht. Hơn nữa Hy Lạp đã che dấu vụ thâm
hụt ngân sách quốc gia và báo cáo giả mạo các số liệu cho Ủy ban châu Âu. Tuy nhiên
sự việc này không có hậu quả pháp lí vì các hiệp định đều không đề cập đến những
trường hợp kể trên.
Một vài quốc gia khác đã tham gia vào liên minh tiền tệ với thành viên trong
vùng Euro và vì vậy cũng đưa đồng Euro vào sử dụng như là tiền tệ chính thức. Các
quốc gia này là:
1. Monaco
2. San Marino
17
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
3. Tòa thánh Vatican
Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi là những tiêu chỉ
hội nhập) là:

-Lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có mức
lạm phát thấp nhất.
-Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP.
-Nợ công dưới 60% GDP và biên độ dao động tỷ giá giữa các đồng tiền ổn định
trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM).
-Lãi suất (tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2%
so với mức trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.
2.2.2. Nguyên nhân xuất phát khủng hoảng nợ công đang dần đổ ập xuống
đầu Châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công của Châu Âu lần này có nguồn gốc từ những khoản
nợ lớn mà chính phủ các nước vay mượn trong quá khứ. Nhóm chúng tôi xin được tóm
lược bằng sơ đồ sau:
Hình 2.1. Sơ đồ các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới từ sau chiến tranh thế giới
thứ I đến nay
(Nguồn:
www.CFOViet.com)
Nợ công ở các nước, không riêng gì châu Âu, đã tồn tại và được báo động từ rất
lâu.Nhưng quá trình xử lí còn nhiều bất cập, mang tính tạm thời vì lúc bấy giờ, hậu quả
dây chuyền của nó vẫn còn chỉ dừng lại ở mức báo động. Do đó, đa phần chính phủ các
quốc gia không nhìn nhận và tìm giải pháp lâu dài cho vấn đề nợ công, mà chỉ chú tâm
vào những giải pháp tức thời, đảm bảo quyền lợi chính trị cho nhà cầm quyền qua
những lần bầu cử diễn ra tại quốc gia bản xứ.
18
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Theo sơ đồ ở trên, năm 1973: Các nước OPEC ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang
các nước ủng hộ Isarel trong cuộc chiến Yom kippur chống Ai Cập và Syria (gồm Mỹ,
Nhật, Tây Âu), tạo nên một cuộc khủng hoảng dầu mỏ, đẩy kinh tế Châu Âu chìm vào
khủng hoảng. Châu Âu bắt đầu chuyển hướng sang tài chính dịch vụ, nhường lĩnh vực
phát triển công nghiệp cho những nước châu Á mới nổi.
Năm 1990, Ngành tài chính dịch vụ phát triển mạnh mẽ nhưng hầu hết đều dựa

vào kẽ hở của thị trường, thiên về đầu cơ tài chính làm thổi phồng những bong bóng tài
sản, tạo viễn cảnh giàu có ảo cho nền kinh tế Âu Mỹ. Hậu quả làm nảy sinh nhiều bất
ổn trong cơ cấu ngành nghề, phân khúc giàu nghèo và số người tăng lên, phải sống nhờ
vào sự hỗ trợ của chính phủ. Kết quả là tình trạng nợ công ngày càng chồng chất, và
tiếp theo là cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu. Chính phủ các nước đành
tiếp tục đi vay để qua cơn khủng hoảng.
Năm 2008, Thế giới tiếp tụcrơi vào khủng hoảng.Các nước tiếp tục đi vay các
khoản nợ mới.Trong đó, việc huy động trái phiếu để trả nợ như mọi khi xem ra không
ổn vì đa phần các trái phiếu đều tới hạn. Đặc biệt là khi Hy Lạp, tuyên bố không thể tự
giải quyết nợ công vào năm 2009, đã làm lòng tin của các nhà đầu tư vào khu vực
eurozone ngày càng giảm sút, việc huy động từ các nhà đầu tư nước ngoài cũng dần trở
nên khó khăn.
Thêm vào đó các hoạt động đầu cơ bằng các công cụ tài chính cực kỳ nguy
hiểm như hợp đồng hoán đổi nợ xấu (Credit Default Swaps) diễn ra sôi nổi. Trong đó
những kẻ đầu cơ lớn nhất hiện nay lại là chính các ngân hàng trung ương, họ đã vượt
qua các quỹ phòng hộ Hedge Funds về quy mô giao dịch tiền tệ.
[2]
Hình vẽ minh họa sau đây sẽ làm rõ khái niệm hợp đồng hoán đổi nợ xấu đã
trình bày ở trên.
19
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Hình 2.2. Hợp đồng hoán đổi nợ xấu và rủi ro đối tác
(Nguồn: www.CFOViet.com)
2.2.3. Xuất phát điểm từ Hy Lạp
2.2.3.1. Thực trạng
Số liệu thu thập được của Hy Lạp từ sự khủng hoảng nợ công như sau:
- Tỷ lệ nợ công trên GDP
Tình hình nợ công của Hy Lạp nói riêng và khu vực đồng euro nói chung từ
năm 1999-2009 liên tục gia tăng. Tổng số nợ công trong khu vực euro vào khoảng
7,062 tỉ euro, trong đó khoản nợ của Hy Lạp là 273 tỉ euro, chiếm khoảng 4% tổng nợ

của khu vực đồng tiền chung. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp là 108.1%, cao nhất
trong khu vực EU năm 2009
- Nợ nước ngoài của Hy Lạp so với GDP năm 2009 là 153%/GDP, đứng thứ 8
trong khu vực EU
Bảng 2.4. Bảng tình hình nợ nước ngoài trên GDP của một số quốc gia EU - năm 2009
20
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Nguồn: The CIA world factbook
- Tỷ trọng nợ công theo kỳ hạn của Hy Lạp
Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp đang phải đối mặt với khoản nợ đến hạn phải
thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-
5-2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn (dưới 1 năm), trong đó, số nợ
phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ.
Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kỳ hạn
Nguồn: Lemonde.fr avec AFP,20-04-2010
21
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
- Thâm hụt ngân sách
Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia
tăng. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách là 12.7% GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân
sách, Chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức.Tuy nhiên, mục tiêu cắt giảm
thâm hụt ngân sách của Hy Lạp khó có thể được thực hiện. Theo thống kê, tăng trưởng
GDP quý 2/2011 của Hy Lạp đã giảm 6.9% so với quý 2/2010; trong khi đó tỷ lệ thất
nghiệp tính đến tháng 5/2011 đã là 16.6% so với con số 15.9% quý 1/2011. Ngoài ra,
những bất ổn xã hội, bạo loạn, đình công vẫn tiếp tục đe dọa và gây áp lực lên sự ổn
định, phát triển của nền kinh tế quốc gia này. Trong một tuyên bố đưa ra sau phiên họp
nội các khẩn cấp tối 2/10 dưới sự chủ trì của Thủ tướng George Papandreou, Bộ Tài
chính Hy Lạp cho biết Chính phủ nước này đã thông qua dự thảo ngân sách tài khóa
2012 và sẽ trình Quốc hội xem xét vào ngày 3/10. Theo dự thảo này, do tình hình suy
thoái kinh tế trầm trọng hơn dự kiến, thâm hụt ngân sách của Hy Lạp năm 2011 được

điều chỉnh từ mức dự kiến ban đầu 7,6% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thoả
thuận với các nhà cho vay quốc tế, lên mức 8,5% GDP. Năm 2012, thâm hụt ngân sách
dự kiến ở mức 6,8% GDP so với 6,5% theo mục tiêu ban đầu.
2.2.3.2. Khủng hoảng bùng nổ
Bắt đầu từ cuối năm 2009, niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hy Lạp
bắt đầu bị lung lay khi vào tháng 10, chính phủ mới do Thủ tướng George Papandreou
lãnh đạo đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm 2009 là 12.7% GDP,
gần gấp đôi con số ước tính hiện tại lúc đó là 6.7% .
[3]
Việc ngụy tạo các số liệu kinh tế nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy
tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề.Lập tức công bố này đã khiến cho trái
phiếu chính phủ Hy Lạp bị ba tổ chức định mức tín dụng lớn của thế giới đánh tụt
hạng. Trong vòng 4 tháng đầu năm 2010, S&P liên tục hạ hệ số tín nhiệm của Hy Lạp,
từ mức A- xuống BBB+ rồi xuống tiếp mức BB+. Tổ chức Fitch hạ hệ số tín nhiệm của
Hy Lạp từ mức BBB+ xuống BBB- vào đầu tháng 4/2010. Tháng 3/2011, Cơ quan xếp
hạng tín dụng Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức B1 từ mức Ba1 và cho
biết sẽ có thể hạ thêm bởi xét đến rủi ro đối với chương trình thực hiện mục tiêu chính
sách tài khóa của Hy Lạp và khó cải tổ hệ thống y tế cũng như các công ty nhà nước.
[4]
22
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
Biểu đồ 2.3. Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 1 năm (%)
(Nguồn:Bloomberg)
Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp đang tăng vọt, điều này đồng nghĩa
với chi phí cho việc bảo hiểm rủi ro vỡ nợ của Hy Lạp cũng leo lên mức kỷ lục, Hy
Lạp gặp nhiều khó khăn trong việc huy động thêm vốn từ thị trường vốn quốc tế và chỉ
có thể mong đợi các khoản cứu trợ đặc biệttừ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) hay một số quốc gia khác.
2.2.3.3. Nguyên nhân khủng hoảng
- Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công

Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%,
thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và
đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá
nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc
gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân
chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính
phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
- Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách
Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng
năm là 4.3% (2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3.1%. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của
chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3%
23
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
GDP của EU. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, bộ máy công quyền cồng kềnh và
thiếu hiệu quả của Hy Lạp chính là nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt của quốc gia
này. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công
trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước
thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện
nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các
ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều
sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn,
nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại
phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Sự già hóa dân số và hệ thống
lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là
một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Dự đoán tỷ lệ số người trên 64 tuổi của
Hy Lạp sẽ tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060. Người về hưu được hưởng một
khoản tiền tương đương với 70-80% mức lương chính thức trước khi về hưu chưa kể
những lợi ích từ những cơ chế hỗ trợ khác với đủ 35 năm cống hiến so với mức 40 năm
ở các quốc gia châu Âu khác. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công

của Hy Lạp sẽ tăng từ 11.5% GDP (2005) lên 24% (2050).
- Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách
và gia tăng nợ công
Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm nguồn thu
ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng thê giới (WB), kinh tế không chính thức ở Hy
Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15.6% GDP của Việt Nam; 13.1% GDP của
Trung Quốc và Singapore; 11.3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức
thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ
quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở
Hy Lạp. Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ
tham nhũng cao nhất trong EU. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp
thuế, mà việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ trung ương đến địa phương. Năm
2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo
khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn cho
các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố là những người quyết định thời gian
giấy phép xây dựng được cấp và các quan chức ở địa phương cũng liên quan đến
những vụ việc nhận hối lộ. Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham
nhũng mang tính hệ thống” (systematic corruption) là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình
trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào
khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu
chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có
vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất
lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính
cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1
euro đổi hơn 0,8 đô la Mỹ lên đến 1 euro đổi 1.6 đô la trong suốt giai đoạn từ 2000-
24
Khủng Hoảng Nợ Công Thế Giới
2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là một cán cân
thương mại thâm hụt triền miên.
- Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngòai và việc sử dụng nguồn

vốn không hiệu quả
Việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với
thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như
Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình
ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài với mức lãi suất thấp. Trong gần một thập kỷ qua, chính phủ Hy Lạp liên
tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy
Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp
đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các
kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng.
Bảng 2.5. Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2010 của EU (%)
Quốc gia
Thâm hụt
ngân sách
2010
(%GDP)
Nợ/GDP
2010
Nợ nước
ngoài
(% tổng
nợ)
Nợ ngắn
hạn
(%GDP)
Tài khoản
vãng lai 2010
(%GDP)
Hy Lạp -12.2 124.9 77.5 20.8 -10.0

Bồ Đào Nha -8.0 84.6 73.8 22.6 -9.9
Ireland -14.7 82.6 57.2 47.3 -1.7
Italy -5.3 116.7 49.0 5.7 -2.5
Tây Ban Nha -10.1 66.3 37.0 5.8 -6.0
Anh -12.9 80.3 22.1 3.3 -2.0
Mỹ -12.5 93.6 26.4 8.3 -2.6
(Nguồn: European Commission, World Bank, IMF)
25

×