Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Phân tích đánh giá thực trạng và đưa ra phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.45 KB, 142 trang )

Page 1 of 142
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hợp tác và hội nhập không ngừng của nền kinh tế các nước
trong khu vực và trên thế giới hiện nay, Việt Nam đang phấn đấu để có thể đứng
vững và phát triển khi hiệp định mậu dịch tự do ASEAN có hiệu lực.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị
trường, hội nhập thương mại đang được hầu hết các quốc gia trên thế giới đón
nhận như một cơ hội phát triển kinh tế một cách có hiệu quả nhất và nhanh chóng
nhất, đồng thời còn không ít những thách thức khó khăn cần phải vượt qua.
Hoà chung nỗ lực phấn đấu của cả nước, Viglacera cũng cố gắng có những
hoạt động thương mại quốc tế để từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng
hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dần xây dựng uy tín thương hiệu Viglacera
nói riêng và thương hiệu các sản phẩm Việt Nam nói chung trên thị trường thế
giới. Trong bối cảnh hiện nay một nhà sản xuất lớn như Tổng công ty thuỷ tinh và
gốm xây dựng, việc tìm kiếm và xúc tiến các biện pháp đẩy mạnh công tác xuất
khẩu là một việc làm hết sức cần thiết và nếu được thực hiện tốt sẽ đem lại lợi ích
thiết thực đối với Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng.
Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng là đơn vị sản xuất kinh doanh các
phẩm thuỷ tinh và gốm xây dựng hàng đầu ở Việt Nam. Đây là một doanh nghiệp
nhà nước không những có quy mô rộng khắp trong và ngoài nước mà còn là đơn vị
chủ lực làm đầu mối xuất khẩu các mặt hàng thuỷ tinh và gốm xây dựng. Tổng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 2 of 142
công ty rất quan tâm đến công tác xuất khẩu, coi đây là một trong những hoạt động
chủ đạo liên quan chặt chẽ đến sự thành công của Tổng công ty.
Vì những lý do trên tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:
" Phân tích đánh giá thực trạng và đưa ra phương hướng, giải pháp đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng "
Đây là một đề tài với phạm vi nghiên cứu rộng về các mặt của hoạt động xuất
khẩu như thị trường xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu, hiệu
quả xuất khẩu…của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng trong giai đoạn


(1999-2002).
Mục đích chủ yếu của đề tài là nhằm phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
xuất khẩu của Viglacera. Từ đó tổng kết đánh giá những mặt thành công và những
mặt còn tồn tại cần khắc phục trong hoạt động xuất khẩu. Đồng thời nêu lên một
vài giải pháp, đề xuất kiến nghị nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của
Viglacera.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sơ lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu của Tổng công ty thuỷ tinh và
gốm xây dựng.
Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của
Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng
Sau đây là nội dung cụ thể của từng chương

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 3 of 142
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 4 of 142
I. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN
1. Khái niệm
1.1. Xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia với
phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường
nhằm mục đích khai thác lợi thế của quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất
hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng đổi
hàng, song ngày nay hình thức xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều hình thức

khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ
xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công
nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm đem lại lợi ích cho
quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi phạm vi rộng cả về không gian lẫn thời
gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và cũng có thể diễn ra trong kéo
dài hàng năm. Đồng thời nó có thể được tiến hành trên phạm vi toàn lãnh thổ một
quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 5 of 142
1.2. Thúc đẩy xuất khẩu
Là các biện pháp nhằm đẩy mạnh các hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ cho
các quốc gia khác trên thế giới và thu ngoại tệ hoặc trao đổi ngang giá.
Ngày nay các quốc gia trên thế giới dù là nước siêu cường hay nước đang
phát triển như Việt Nam thì việc thúc đẩy xuất khẩu vẫn là việc làm cần thiết. Bởi
một lý do hết sức đơn giản là thúc đẩy xuất khẩu đi đôi với tăng tổng sản phẩm
kinh tế quốc dân , tăng tiềm lực kinh tế, quân sự
Bởi vì thế hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
nói riêng là một việc làm hết sức có ý nghĩa trước mắt và lâu dài.
1.3. Mục tiêu của hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu đem lại nhiều bước tiến quan trọng trong việc phát triển
nền kinh tế của một quốc gia. Hoạt đông thúc đẩy xuất khẩu vì thế rất quan
trọng.Và mục tiêu của xuất khẩu là:
 Qua công tác xuất khẩu hàng hoá đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn và quan
trọng cho đất nước đặc biệt có ý nghĩa quan trọng cho một quốc gia đang phát triển
như nước ta. Thúc đẩy xuất khẩu góp phần đáng kể vào việc làm cân bằng cán cân
ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng mức dự trữ hối đoái, tăng cường khả
năng nhập khẩu máy móc thiết bị, hiện đại hoá hàng công nghiệp xuất khẩu trên
thế giới.

 Thúc đẩy xuất khẩu cho chúng ta phát huy được lợi thế so sánh của mình, sử
dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên phong phú có sẵn và nguồn lao động, đem lại
lợi nhuận cao. Việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên khi đưa chúng vào phân
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 6 of 142
công lao động xã hội cho phép giảm bớt lãng phí do xuất khẩu nguyên liệu thô và
bán sản phẩm.
 Cùng với việc thúc đẩy xuất khẩu thì tất yếu dẫn đến nền kinh tế phát triển
mạnh tronh lĩnh vục chế tạo và sản xuất hàng xuất khẩu. Điều này dẫn đến việc thu
hút được lực lượng lao động tham gia vào hoạt động sản xuất và giảm nhẹ cho xã
hội. Mặt khác, do yêu cầu khắt khe của việc làm hàng xuất khẩu để đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi của thị trường quốc tế, chất lượng mẫu mã chủng loại hình thức của
hàng hoá, do vậy mà tay nghề người lao động không ngừng được nâng cao tạo ra
một đội ngũ lành nghề cho đất nước và sự chuyển biến về chất cho từng công dân.
 Xuất khẩu hàng hoá là phải xuất đi từ các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của
thị trường quốc tế. Chính vì vậy, buộc các doanh nghiệp tham gia vào làm hàng
xuất khẩu phải có tính chủ động trong kinh doanh, liên kết tìm bạn hàng, tạo được
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào để đầu tư trang thiết bị hiện đại để xuất khẩu
được hàng hoá.
 Thúc đẩy xuất khẩu tạo ra vai trò quyết định trong việc tăng cường hợp tác
phân công và chuyên môn hoá quốc tế, đưa nền kinh tế của mình hoà nhập vào nền
kinh tế thế giơí.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 7 of 142
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
2.1. Đối với nền kinh tế thế giới
Xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu
tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như toàn thế giới.
Do những lý do khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về lĩnh vực này

nhưng lại yếu ở lĩnh vực khác. Để có thể khai thác được lợi thế, giảm bất lợi, tạo ra
sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phát triển phải tiến
hành trao đổi với nhau, mua những sản phẩm mà mình sản xuất khó khăn, bán
những sản phẩm mà việc sản xuất nó là có lợi thế . Tuy nhiên hoạt đông xuất khẩu
nhất thiết phải được diễn ra giữa những nước có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh
vực khác. Một quốc gia thua thiệt về tất cả các lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên,
nhân công tiềm năng kinh tế thông qua hoạt động xuất khẩu cũng có điều kiện
phát triển kinh tế nội địa.
Nói một cách khác, một quốc gia dù trong tình huống bất lợi vẫn tìm ra điểm
có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào
sản xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu các mặt hàng không
có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá trong sản xuất này đã làm cho mỗi quốc
gia khai thác được lợi thế tương đối cuả mình một cách tốt nhất để tiết kiệm nguồn
nhân lực như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất hàng
hoá. Và vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 8 of 142
2.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia cũng như toàn thế giới. Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia:
*Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước
Trong thương mại quốc tế xuất khẩu không chỉ để thu ngoại tệ về mà còn là
với mục đích bảo đảm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu, tích luỹ ngoại
tệ.
Xuất khẩu với nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là tiền đề của nhau,
xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt ở các nước
kém phát triển , một trong những vật cản chính đối với sự phát triển kinh tế là

thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy nguồn huy động cho nước ngoài được coi là nguồn
chủ yếu cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ nước ngoài
chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư hoặc người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu
của quốc gia đó. Vì đây là nguồn bảo đảm chính cho nước đó có thể trả nợ được.
Thực tiễn cho thấy, mỗi một nước đặc biệt là các quốc gia đang phát triển có
thể sử dụng các nguồn vốn huy động chính như:
-Đầu tư nước ngoài
-Vay nợ viện trợ
-Thu từ nguồn xuất khẩu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 9 of 142
Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ
nhận đuợc, song việc huy động nguồn vốn này không phải là một điều dễ dàng. Sử
dụng nguồn vốn này thì các nước đi vay phải chịu mất một số thiệt thòi nhất định
và dù bằng cách này hay cách khác thì cũng phải hoàn lại vốn cho nước ngoài.
Điều này vô cùng khó khăn bởi đang thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn
*Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước
Để xuất khẩu được các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn các
mặt hàng có tổng chi phí nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ sẽ
phải dựa vào những ngành hàng , những mặt hàng có lợi thế của đất nước cả về
tương đối và tuyệt đối. Hoạt động xuất khẩu thúc đẩy khai thác có hiệu quả hơn vì
khi xuất khẩu các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị
tiên tiến đưa năng xuất lao động lên cao.
*Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất định
hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã
đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu với
sản xuất và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
 Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu, quan điểm này tác
động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Cụ thể là
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 10 of 142
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho
sản xuất mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
- Xuất khẩu là một phương diện quan trọng để tạo vốn và thu hút công nghệ
từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản
xuất mới.
- Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản
xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công
lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay, nhiều sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ
phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản
phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác
để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Như vậy, mỗi nước họ có thể tập trung vào sản
xuất một vài sản phẩm mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy hàng hoá mà
mình cần.
 Cách nhìn nhận khác cho rằng: chỉ xuất khẩu những hàng hoá thừa trong
tiêu dùng nội địa, khi nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ
bản chưa đủ tiêu dùng. Nên chỉ chủ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu
chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất
không có cơ hội phát triển.
*Xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 11 of 142
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì cần phải
thêm lao động, cần để xuất khẩu có hiệu quả thì cần tận dụng lợi thế lao động

nhiều, giá rẻ ở nước ta. Xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.Tác động của xuất ảnh hưởng rất nhiều
đến các lĩnh vực của cuộc sống như tạo ra công việc ổn định, tăng thu nhập
Như vậy có thể nói xuất khẩu tạo ra động lực cần thiết cho việc giải quyết
những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách quan của tăng
cường xuất khẩu trong quá trình phát triển kinh tế.
2.3. Đối với doanh nghiệp
 Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào
cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố đó
đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu phù hợp với thị trường.
 Sản xuất hàng hoá đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn
thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình
sản xuất không những cả về chiều rộng mà cả về chiều sâu.
 Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều việc làm,
tạo thu nhập ổn định , tạo ra nhiều ngoại tệ để nhập khẩu vật khẩu tiêu dùng, vừa
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu hút được lợi nhuận.
 Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở lợi ích của hai bên.
Như vậy đứng trên bất kỳ góc độ nào ta cũng thấy sự thúc đẩy xuất khẩu là rất
quan trọng. Vì vậy thúc đẩy xuất khẩu là cần thiết và mang tính thực tiễn cao.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 12 of 142
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất, công
ty xí nghiệp và các nhà xuất khẩu, trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán trao đổi hàng
hoá với các đối tác nước ngoài.
Hình thức này không qua một tổ chức trung gian nào, có thể trực tiếp gặp nhau
cùng bàn bạc thảo luận để đưa đến một hợp động hoặc không cần gặp nhau trực
tiếp mà thông qua thư chào hàng, thư điện tử , fax, điện thoại cũng có thể tạo

thành một hợp đồng mua bán kinh doanh thương mại quốc tế được ký kết.
*Ưu điểm của giao dịch trực tiếp
Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những
hiểu lầm đáng tiếc
Giảm được chi phí trung gian, nhiều khi chi phí này rất lớn, phải chia sẻ lợi
nhuận.
Giao dịch trực tiếp sẽ có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý
kiến của khách hàng, khắc phục thiếu sót.
Chủ động trong việc chuẩn bị nguồn hàng, phương tiện vận tải để thực hiện
hoạt động xuất khẩu và kịp thời điều chỉnh thị trường tiêu thụ, nhất là trong điều
kiện thị trường nhiều biến động.
*Hạn chế khó khăn của hoạt động xuất khẩu trực tiếp.
Đối với thị trường mới chưa từng giao dịch thường gặp nhiều bỡ ngỡ, dễ gặp
sai lầm, bị ép giá trong mua bán.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 13 of 142
Đòi hỏi cán bộ công nhân viên làm công tác kinh doanh xuất khẩu phải có
năng lực hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, văn hoá của thị trường
nước ngoài, phải có nhiều thời gian tích luỹ.
Khối lượng mặt hàng giao dịch phải lớn mới có thể bù đắp được các chi phí
trong giao dịch như: giấy tờ, đi lại, nghiên cứu thị trường….
3.2. Xuất khẩu gián tiếp (uỷ thác)
Là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương
đứng ra với vai trò trung gian thực hiện xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị uỷ thác
. Xuất khẩu uỷ thác gồm 3 bên, bên uỷ thác xuất khẩu, bên nhận uỷ thác xuất khẩu
và bên nhập khẩu. Bên uỷ thác không được quyền thực hiện các điều kiện về giao
dịch mua bán hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán mà phải thông qua bên
thứ 3 - người nhận uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp không được
phép kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ

thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm đơn vị xuất khẩu hàng hoá cho
mình, bên nhận uỷ thác được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
*Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp
Giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tìm nguồn đầu ra cho sản phẩm của
mình.
Giúp cho hàng hoá của doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập vào một thị trường mới
mà mình chưa biết, tránh được rủi ro khi mình kinh doanh trên thị trường đó.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 14 of 142
Tận dụng sự am tường hiểu biết của bên nhận uỷ thác trong nghiệp vụ kinh doanh
xuất khẩu từ khâu đóng gói, vận chuyển, thuê tàu mua bảo hiểm… sẽ giúp doanh
nghiệp tiết kiệm được tiền của, thời gian đầu tư cho việc thực hiện xuất khẩu.
*Nhược điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp
Mất mối liên hệ trực tiếp của doanh nghiệp với thị trường (khách hàng).
Phải chia sẻ lợi nhuận
Nhiều khi đầu ra phụ thuộc vào phía uỷ thác trung gian làm ảnh hưởng đến sản
xuất.
3.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó có một đơn vị đứng ra nhập nguyên
liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi sản phẩm để xuất
khẩu cho nước ngoài. Đơn vị này được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các
xí nghiệp sản xuất.
3.4. Buôn bán đối lưu (xuất khẩu hàng đổi hàng)
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Khối lượng hàng hoá
được trao đổi có giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải
thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một khối lượng hàng hoá với giá trị
tương đương. Tuy tiền tệ không được thanh toán trực tiếp nhưng nó được làm vật
ngang giá chung cho giao dịch này.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường

Page 15 of 142
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm mục đích tránh được các rủi ro về sự
biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối .
Đồng thời có lời khi các bên không đủ ngoại tệ thanh toán cho lô hàng nhập
khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm
cân bằng hạn mục thường xuyên trong cán cân thanh toán quốc tế.
3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu của nhà nước giao
cho để tiến hành xuất một hoặc một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước
ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ.
3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh xuất khẩu mới đang có xu hướng phát triển và
phổ biến rộng rãi do ưu điểm của nó đem lại. Đặc điểm của loại hàng xuất này là
hàng hoá không cần phải vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể
đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại đến với nhà xuất khẩu.
Mặt khác, doanh nghiệp tránh được một số thủ tục rắc rối của hải quan, không phải
thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá. Do đó, giảm được một
lượng chi phí khá lớn.
Hình thức xuất khẩu tại chỗ đang được các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
có thế mạnh về du lịch và có nhiều đơn vị kinh doanh, các tổ chức nước ngoài
đóng tại quốc gia đó khai thác tối đa và đã thu được những kết quả to lớn, không
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 16 of 142
thua kém so với xuất khẩu trực tiếp qua biên giới quốc gia, đồng thời có cơ hội thu
hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao.
3.7. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên nhập nguồn
nguyên liệu, bán thành phẩm (bên nhập gia công) của bên khác (bên đặt gia công)
để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được phí gia
công.

Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang được phát triển mạnh mẽ và được
nhiều quốc gia trong đó đặc biệt là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên
phong phú áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc
làm và thu nhập cho người lao động, họ còn có điều kiện đổi mới và cải tiến máy
móc kỹ thuật công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với bên đặt gia
công, họ được lợi nhuận từ chỗ lợi dụng được giá nhân công và nguyên phụ liệu
tương đối rẻ của nước nhận gia công.
Hình thức xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng trong các ngành sản xuất sử
dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giầy da…
3.8. Tái xuất khẩu
Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã
nhập khẩu với điều kiện hàng hoá phải nguyên dạng như lúc đầu nhập khẩu.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 17 of 142
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được hay
sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập vào
để sau đó tái xuất.
Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn lúc ban đầu bỏ ra. Các bên tham
gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Tạm nhập tái xuất có thể thực hiện theo hai hình thức sau:
*Tái xuất theo đúng nghĩa của nó: Trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu
tới nước tái xuất khẩu rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất tới nước nhập khẩu.
Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của tiền tệ. nước tái
xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền về từ nước nhập khẩu.
*Chuyển khẩu : Được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước (nước xuất
khẩu) để bán hàng hoá cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục
nhập khẩu vào nước tái xuất. Nước tái xuất trả tiền cho nước cho nước xuất khẩu
và thu tiền về từ nước nhập khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là tạo ra một thị trường rộng lớn, quay vòng vốn

và đáp ứng nhu cầu bằng những hàng hoá mà trong nước không thể đáp ứng được,
tạo ra thu nhập.
Nhược điểm của hình thức này là các doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều
nước xuất khẩu về gía cả, thời gian giao hàng. Ngoài ra nó còn đòi hỏi người làm
công tác xuất khẩu phải giỏi về nghiệp vụ kinh doanh tái xuất, phải nhậy bén với
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 18 of 142
tình hình thị trường và giá cả thế giới, sự chính xác chặt chẽ trong các hợp đồng
mua bán.
3.9. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những
người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán hàng hoá với khối
lượng lớn, có tính chất đồng loại và có phẩm chất có thể thay đổi được với nhau.
Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung của quan hệ cung cầu về một mặt
hàng giao dịch trong một khu vực ở một thời điểm nhất định. Do đó giá cả công bố
tại sở giao dịch có thể xem như một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá
quốc tế
II . NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Nghiên cứu thị trường, sản phẩm xuất khẩu
1.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ một
công ty nào khi tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường tạo khả
năng cho các nhà kinh doanh thấy được quy luật vận động của từng loại hàng hoá
cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, nguồn vốn cung cấp và giá cả hàng hoá đó
trên thị trường giúp họ giải quyết được vấn đề của thực tiễn kinh doanh .
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường, so
sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động
của thị trường. Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 19 of 142

định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing. Nội dung chính
của nghiên cứu thị trường là xem xét thị trường và khả năng thâm nhập và mở
rộng thị trường.
*Các bước của nghiên cứu thị trường
 Nghiên cứu khái quát: Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những
thông tin về quy mô cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến
thị trường như môi trường kinh doanh, môi trường chính trị- luật pháp…
 Nghiên cứu chi tiết: Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông
tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua
hàng của người tiêu dùng.
*Các phương pháp nghiên cứu thị trường
 Nghiên cứu tại địa bàn: là nghiên cứu bằng cách thu thập thông tin và các
nguồn tài liêụ công khai và xử lý các thông tin đó.
 Nghiên cứu tại hiện trường: là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp
xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được .
*Nội dung của nghiên cứu thị trường
 Phân tích cung : đầu tiên cần nắm được tình hình cung , là toàn bộ khối
lượng hàng hoá đã, đang và có khả năng bán ra trên thị trường. Cần xem xét giá cả
trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai
đoạn nào .
 Phân tích cầu : Từ thông tin về hàng hoá đang bán trên thị trường mà cần
xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 20 of 142
Cần xem xét :
- Đối tượng tiêu dùng: giới tính, nghề nghịêp, giai cấp…
- Lý do mua hàng.
- Nhịp điệu mua hàng.
- Khách hàng tương lai.
1.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu

Đây là một trong những nội dung cơ bản nhưng rất quan trọng và cần thiết để
có thể tiến hành được hoạt động xuất khẩu. Khi doanh nghiệp có ý định tham gia
vào hoạt động xuất khẩu thì doanh nghiệp cần phải xác định các mặt hàng mà
mình khẳng định kinh doanh.
Để lựa chọn được đúng các mặt hàng mà thị trường cần đòi hỏi doanh nghiệp
phải có một quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích một cách có hệ thống về nhu cầu
thị trường cũng như khả năng doanh nghiệp. Qua hoạt động này doanh nghiệp cần
phải xác định, dự đoán được xu hướng biến động của thị trường cũng như khả
năng doanh nghiệp. Qua hoạt động này doanh nghiệp cần phải xác định, dự đoán
được xu hướng biến động của thị trường cũng như các cơ hội và thách thức doanh
nghiệp gặp phải trên thị trường thế giới. Hoạt động này không những đòi hỏi một
thời gian dài mà còn phải tốn nhiều chi phí, song bù lại doanh nghiệp có thể xâm
nhập vào thị trường tiềm tàng có khả năng tăng doanh số lợi nhuận kinh doanh.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 21 of 142
2. Lựa chọn đối tác giao dịch
Sau khi lựa chọn được mặt hàng và thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp muốn
xâm nhập vào từng giai đoạn thị trường đó thì doanh nghiệp phải lựa chọn được
đối tác đang hoạt động trên thị trường có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh
cho mình. Việc lựa chọn đúng đối tác để giao dịch tránh cho doanh nghiệp những
phiền toái, những mất mát rủi ro gặp phải trong quá trình kinh doanh trên thị
trường quốc tế, đồng thời có điều kiện để thực hiện thành công các kế hoạch kinh
doanh của mình. Cách tốt nhất để lựa chọn đúng đối tác là lựa chọn đối tác có đặc
điểm sau:
 Là người xuất khẩu trực tiếp. Vì với mặt hàng kinh doanh đó, doanh nghiệp
không phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh do đó thu được lơị nhuận lớn nhất. Tuy
nhiên, trong trương hợp sản phẩm và thị trường hoàn toàn mới thì lại rất cần thông
qua các đại lý hoặc các công ty uỷ thác xuất khẩu để giảm chi phí chi việc thâm
nhập thị trường nước ngoài.
 Quen biết, có uy tín kinh doanh .

 Có thực lực tài chính .
 Có thiện trí trong quan hệ làm ăn với doanh nghiệp không có biểu hiện hành
vi lừa đảo .
Trong quá trình lựa chọn đối tác giao dịch, công ty có thể thông qua các bạn
hàng đã có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, thông qua các tin tức
thu nhập và điều tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, các ngân hàng,
các tổ chức tài chính để họ giúp đỡ .
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 22 of 142
3. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, các
đơn vị xuất khẩu phải lập phương án kinh doanh cho mình bao gồm:
 Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát
về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
 Lựa chọn mặt hàng thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn
này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
 Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu,
thâm nhập vào thị trường nào.
 Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu.
 Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ
tiêu cơ bản:
- Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ .
- Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu .
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn cho xuất khẩu .
- Điểm hoà vốn trong xuất khẩu hàng hoá .
4. Lựa chọn phương thức giao dịch
Phương thức giao dịch là các doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu
và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những phương thức này
quy định những thủ tục cần tiến hành, các điều kiện giao dịch, các thao tác và
chứng từ cần thiết trong quan hệ kinh doanh. Có rất nhiều phương thức giao dịch

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 23 of 142
khác nhau như giao dịch thông thường, giao dịch qua khâu trung gian, giao dịch tại
hội trợ, triển lãm, giao dịch hàng hoá, gia công quốc tế. Tuy nhiên, phổ biến và
được sử dụng nhiều nhất là giao dịch thông thường.
*Giao dịch thông thường
Đây là sự giao dịch mà người mua và người bán thảo luận trực tiếp với
nhau thông qua thư từ, điện tín… để bàn về các điều khoản sẽ ghi trong hợp đồng.
Các bước tiến hành giao dịch thông thường bao gồm: Hỏi giá - báo giá- chào hàng-
chấp nhận, xác nhận.
*Giao dịch qua trung gian
Là việc người mua và người bán quy định những điều kiện trong giao dịch mua
bán hàng hoá nhờ tới sự giúp đỡ của người thứ 3 để đàm phán và đi đến ký kết hợp
đồng.
*Buôn bán đối lưu
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu,
người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương.
*Đấu giá quốc tế
Đây là phường thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất
định, tại đó sau khi xem xét hết hàng hoá, những người mua hàng để người bán
đưa ra giá mình muốn bán
Ngoài ra, còn một số loại giao dịch khác như:
- Giao dịch ở sở giao dịch hàng hoá .
- Giao dịch tại hội trợ triển lãm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 24 of 142
- Gia công
- Đấu thầu quốc tế
Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn từng phương thức
giao dịch mua bán thích hợp.

Nói chung, với các loại hàng hoá khác nhau thì phụ thuộc vào đặc điểm của
thị trường và khả nằng của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể lựa chọn các
phương thức giao dịch khác nhau. Chẳng hạn khách hàng mua hàng với số lượng
lớn, mua thường xuyên thì phương thức giao dịch thông thường được áp dụng. Với
những hàng hoá có tính chất chuyên ngành thì tham gia hội trợ và triển lãm lại có
tác dụng tích cực .
5. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng
trong hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, điều kiện thực hiện những
công đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó. Đồng thời nó quyết định đến tính
khả thi hay không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghịêp. Việc đàm
phán phải căn cứ vào nhu cầu trên thị trường vào đối thủ cạnh tranh, khả năng,
điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như môí quan hệ của doanh nghiệp
và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp, thì kết quả của nó là hợp đồng được ký
kết. Một cam kết hợp đồng sẽ là những pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin
cậy để các bên thực hiện lời cam kết của mình. Đàm phán có thể thực hiện thông
qua thư từ , điện tín và đàm phán trực tiếp.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường
Page 25 of 142
Tiếp sau công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng mua bán
hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá là một văn bản có tính chất pháp lý được
hình thành trên cơ sở thảo luận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể
nhằm xác lập thực hiện và chấm dứt các mối quan hệ trao đổi hàng hoá .
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán đặc biệt trong đó
quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền (cho người ) sở hữu hàng hoá cho
người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán theo giá thoả thuận
bằng phương thức quốc tế.
Khác với hợp đồng mua bán nội địa, hợp đồng xuất khẩu thông thường hình
thành giữa các doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, hàng
hoá thường được dịch chuyển qua biên giới quốc gia và đồng tiền thanh toán là

một ngoại tệ đối với một trong hai quốc gia hoặc cả hai.
6. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng. Doanh nghiệp
cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm. Thông
thường trình tự thực hiện hợp đồng gồm các bước:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Cường

×