Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Các đồng tiền chung trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.68 KB, 25 trang )

Nội dung bài thuyết trình môn Tài chính quốc tế
Đề tài: “Các đồng tiền chung trên thế giới”
Thành viên nhóm 7:
1. Nguyễn Ngọc Tân
2. Đào Trúc Linh
3. Phí Thị Nga
4. Trần Nguyễn Khánh Nguyên
5. Nguyễn Ngọc Anh Thư
6. Nguyễn Cẩm Tú
7. Nguyễn Kim Thuận
8. Cao Đình Hiếu
9. Lê Thị Bích Phượng
10. Nguyễn Đào Xuân Định
11. Nguyễn Hoài Vĩnh Duy ( nhóm trưởng)
GVHD: PGS . TS . Lê Phan Thị Diệu Thảo
Lớp: T03
Tp.HCM, ngày 27 tháng 4 năm 2013
CÁC ĐỒNG TIỀN CHUNG TRÊN THẾ GIỚI
Sự hình thành và Khái niệm đồng tiền chung:
Các quốc gia dân tộc đang chuẩn bị hành trang cho 1 kỉ nguyên mới mà 1 trong các đặc trưng cơ bản là xu
hướng hợp tác, liên kết giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hôi và mội
trường mang tính chất toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát triển của minh, các quôc gia trên thế giới đang
từng bước tao lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết
Kinh tế Quốc tế đó.
Một trong những kết quả của quá trình liên kết là tạo lập một đồng tiền chung của các quốc gia thành viên.
“Đồng tiền chung là 1 đồng tiền được sử dụng chung cho các quốc gia thành viên, các quốc gia để được là
thành viên trong khối nước sử dụng đồng tiền chung cần thoã mãn các điều kiện mà khối thành viên quy định.
Khi gia nhập đồng tiền chung các quốc gia sẽ được hưởng nhận lợi ích cũng như những thách thức mà đồng tiền
này mang lại
 Các nước sử dụng đồng tiền chung được gọi là Liên minh tiền tệ - hình thức cao nhất của Liên kết
Kinh tế Quốc tế. Chúng ta sẽ tìm hiểu về 2 đồng tiền chung quan trọng đối với kinh tế thế giới đó là:


SDRs, EURO và tren lộ trình hình thành đồng ACR
1.EURO
1.1 Cơ sở hình thành
1.1.1Cơ sở chính trị:
- Sau chiến tranh lạnh,thế giới đang hình thành một trật tự mới. Trong khi các nước châu Âu kiệt quệ thì Mỹ
lại ngày càng lớn mạnh trong kinh tế cũng như vai trò chính trị. Do đó để đối trọng với ảnh hưởng của Mỹ đối
với thế giới thì việc một Châu Âu thống nhất chặt chẽ hơn là một nhân tố ảnh hưởng tích cực đến sự ra đời của
một thế giới đa cực.
-Châu Âu với một đồng tiền chung duy nhất là mục tiêu phấn đấu bền bỉ của EU.Ý đồ cho sự ra đời đồng
EURO có từ rất sớm, ngay từ khi thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC).Ý đồ đó đã từng bước phát triển
qua các bước đi hợp lý như sự ra đời của đơn vị tiền tệ châu Âu (năm 1975), sự ra đời của hệ thống tiền tệ châu
Âu (EMS) (năm 1979).mục tiêu là nhằm tạo ra một khu vực ổn định tiền tệ ở châu Âu tránh các dao động lớn,
tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước thành viên xích lại gần nhau hơn. Hệ thống tiền tệ châu Âu đã
vận hành tốt và tạo ra một vùng tiền tệ ổn định và giảm được các rủi ro gây ra do sự biến động tiêu cực của
đồng USD và đồng Yên Nhật.
1.1.2Cơ sở kinh tế:
-Sự lớn mạnh kinh tế của Mỹ, Nhật Bản và các nước công nghiệp mới(NICS), các quốc gia Đông Nam Á đã
làm cho hàng hoá của Châu Âu trở nên yếu thế. Việc thống nhất tiền tệ thúc đẩy nhanh quá trình thống nhất
kinh tế trong toàn khu vực, tạo ra một vị trí cạnh tranh mới cho cộng đồng Châu Âu trên thị trường.
-Bên cạnh đó với sự phát triển nhanh các mặt của kinh tế các nước thành viên như: thương mại, đầu tư, quan
hệ quốc tế Liên minh châu Âu đã phát triển đến tầm cao của liên kết kinh tế quốc tế, đã trở thành một liên
minh vững chắc, đã đủ điều kiện và cần thiết để xây dựng liên minh tiền tệ mà nội dung chính của nó là cho ra
đời đồng tiền chung. Từ đó nhằm phát triển kinh tế các nước thành viên, tăng cường liên kết giữa các thành viên
trong khối củng cố sức mạnh của liên minh.
Từ các cơ sở trên cùng với sự nỗ lực của các nước thành viên mà dự án về đồng tiền chung châu Âu được cụ
thể hoá trong hiệp ước Maastricht (hiệp ước này thành lập liên minh châu Âu và đưa tới việc thiết lập đồng
euro, được kí ở Masstricht, Hà Lan) đã trở thành hiện thực.
1.2 Những đặc điểm cơ bản.
1.2.1.Đặc điểm pháp lý.
Đồng EURO là đồng tiền thực thụ và hợp pháp có đầy đủ tư cách pháp lý, là kết quả của các thoả hiệp, cam kết

giữa các chính phủ thành viên EU.
Cơ sở pháp lý cho sự ra đời của đồng EURO là hệ thống các văn bản pháp quy của liên minh, cao nhất là Hiệp
ước (Maastricht) và các nghị quyết có liên quan được Nghị viện châu Âu, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng châu Âu,
Hội đồng các Bộ trưởng kinh tế tài chính châu Âu phê chuẩn. Bên cạnh đó là hệ thống pháp luật của mỗi nhà
nước thành viên phải ban hành các văn bản luật và dưới luật cần thiết khác đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý cho
đồng EURO ra đời và thay thế hợp pháp và vĩnh viễn các đồng tiền quốc gia đã lưu hành từ bao đời nay. Đồng
EURO có cơ quan điều hành độc lập và chịu trách nhiệm là ngân hàng TW châu Âu (ECB).
1.2.2.Cơ sở xác định giá trị.
Giá trị của đồng tiền trước hết được quyết định bởi thực lực kinh tế của nước phát hành.Giá trị nội bộ của đồng
tiền được quyết định bởi tình trạng biến động giá trị sản xuất quốc dân của nước đó. Giá trị bên ngoài của đồng
tiền thì được quyết định bởi tình trạng thu chi quốc tế (cán cân thanh toán) của nước đó. Đồng EURO là đồng
tiền chung của toàn khối vì vậy giá trị của đồng EURO được quyết định bởi thực lực kinh tế của toàn khối và
tình trạng cán cân thanh toán của các nước trong khối với các nước ngoài khối quyết định. Trong hiệp ước
Maastricht và hiệp ước Amsterdam đã quy định vào ngày trước khi đồng EURO đi vào sử dụng 31 – 12 – 1998,
giá trị của đồng EURO ngang với giá trị của đồng ECU, nghĩa là tỉ giá hối đoái EURO/ECU = 1. Do vậy, giá trị
của đồng EURO được xác định thông qua giá trị của đồng ECU. Giá trị của đồng ECU do 15 đồng tiền quốc gia
của EU bình quân lại sau khi đã tính thêm như công thức:
Trong đó: di là giá trị của đồng tiền quốc gia
ai là hệ số thêm của đồng tiền quốc gia
D/Ecu là giá trị của đồng ECU.
Hệ số thêm vào dùng để bình quân được xác định theo địa vị ngoại thương và giá trị sản xuất quốc dân nhiều,
ít của các nước thành viên. Như vây, đồng EURO trước khi ra đời đã có cơ sở xác định rõ ràng, điều này góp
phần giúp đồng EURO có thể trụ vững trên thi trường quốc tế.
1.2.3 Hình thái vật chất của đồng EURO.
Đồng EURO được thể hiện dưới hai hình thái: Tiền giấy và tiền xu theo những đặc điểm yêu cầu kỹ thuật và
hình thức đã được hội đồng Châu Âu họp tháng 12 năm 1995 và Amsterdam tháng 6 năm1997 chính thức phê
duyệt như sau:
Về tiền giấy: Có bẩy loại tiền giấy: loại 5 EURO màu ghi, loại 10 EURO màu đỏ, 20 EURO màu xanh lơ, 50
EURO màu da cam, loại 100 EURO màu xanh lá cây, loại 200 EURO màu vàng, 500 uero màu tím. Các tờ giấy
bạc EURO có hai mặt, một mặt mang biểu tượng quốc gia, mặt kia thể hiện biểu tượng chung của liên minh

mang tính chất bắt buộc phải có như: Tên gọi thống nhất là “EURO”, chữ ký của thống đốc ECB, và chữ viết tắt
của ngân hàng Châu Âu bằng năm thứ tiếng: ECB (viết tắt bằng tiếng Anh), BCE (viết tắt bằng tiếng Pháp),
EZB, EKT, EKP. Giấy bạc EURO do ngân hàng nhà nước thành viên chịu trách nhiệm in.
Về tiền kim loại: Có tám loại tất cả đều hình tròn, với các kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng, nặng nhẹ khác
nhau trong đó loại 1,2,5 cent màu đồng , loại 10,20,50 màu vàng, loại 1 và 2 EURO có 2 màu: ở giữa màu trắng
do ba lớp kim loại tạo lên (đồng kền/kền/đồng kền ), vành ngoài màu đồng thau. Ngược lại đồng 2 EURO ở
giữa màu vàng, được tạo bởi ba lớp: Đồng thau/kền/đồng thau, vành ngoài màu trắng làm bằng hợp kim đồng
kền.
Với số lượng dự tính không ít hơn 13 tỷ tiền giấy và 70 tỷ tiền kim loại sẽ đi vào lưu thông từ ngay 1/1/2002.
Công việc in và đúc là công việc nặng nề cả về số lượng và các yêu cầu an toàn: Như chống làm giả cũng như
mức độ tiện lợi cho việc sử dụng đồng tiền cho mọi đối tượng, kể cả người mù lẫn máy rút tiền tự động. Công
việc in và đúc do các ngân hàng trung ương nước thành viên thực hiện.
1.3 Chức năng của đồng EURO.
Đồng EURO là một đồng tiền thực thụ đưa vào lưu thông với đủ tư cách pháp lý, có chức năng cơ bản là một
đồng tiền quốc tế(4 chức năng) (khác với đơn vị tiền tệ ECU là đồng tiền nặng về danh nghĩa, không có hình
thái vật chất cụ thể).
Cơ sở để khẳng định đồng EURO sẽ được đảm nhiệm các chức năng trên vì:
- Đồng EURO là một đồng tiền thực thụ.
- Là một đồng tiền được đảm bảo bằng một khối kinh tế lớn mạnh.
- Được lưu hành trong một thị trường lớn nhiều tiềm năng.
- Có cơ quan điều hành độc lập.
- Được thừa hưởng sức mạnh từ các đồng NCU phần lớn là các đồng tiền mạnh đã được đảm nhiệm các chức
năng cơ bản của đồng tiền quốc tế như đồng DM, đồng fance
1.4 .VỊ THẾ CỦA ĐỒNG ERO
Sau khi đồng EURO ra đời, năm 2001, khối lượng tiền giấy Euro với 592 tỷ Euro đã vựơt qua tổng khối lượng
Đô la xanh của Hoa Kỳ là 579 tỷ USD. Đồng Euro ngày càng được các công ty cũng như các chính phủ từ
Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ .
Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên
toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong
cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn

64,5%. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999,
21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%.
Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với
lãi suất cố định và lãi suất thả nổi. Trong cuối tháng 9 năm 2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái
quốc tế lưu hành trên toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỉ đồng
Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại
các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ
lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị
trường ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng
Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.
Giá trị Euro trong lưu hành đã vượt qua đồng USD lần đầu tiên vào năm 2006. Theo Quỹ Tiền tệ thế giới
(IMF), dự trữ ngoại tệ toàn cầu trong quí 1 -2006 xấp xỉ 4,34 ngàn tỷ USD. Trong số đó, đồng USD chiếm
66,3% và đồng Euro 24,8%.
Năm 2009, đồng Euro chiếm 27,3% dự trữ ngoại tệ toàn cầu, tăng so với mức 27% của năm trước đó. Trong
khi đó, thị phần tương ứng của đồng USD là 62,2% và đồng yên Nhật là 3%.
Tuy nhiên, giá trị của đồng Euro đã giảm mạnh so với USD trong những tháng đầu năm 2010, bắt nguồn từ
những lo ngại về tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công tăng vọt tại nhiều nước thành viên khu vực đồng
Euro.
1.4.1.Tác động tích cực của đồng EURO về mặt kinh tế
-Thị trường chung Châu âu trở nên đồng nhất và hiệu quả hơn
-Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối:
Người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại
tệ trong giao dịch quốc tế, tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước
thành viên. Hơn nữa, đối với người dân các nước sử dụng đồng EURO giúp việc di chuyển dễ dàng giữa các
nước thành viên mà không cần phải lo đến việc đổi tiền.
-Giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các
đồng tiền quốc gia cũng như việc đầu cơ tiền tệ.
-Tăng cường hoạt động thương mại giữa các nước thành viên
Mọi hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự

chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia
-Tăng đầu tư và du lịch quốc tế
1.4.2.Tác động tiêu cực của đồng EURO
-Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ
Các nước khi tham gia vào liên minh tiền tệ sẽ không được áp dụng chính sách tiền tệ của riêng mình, đặc biệt
là các công cụ lãi suất và tỉ giá. Chính vì thế mà các nước này cũng không thể can thiệp một cách chủ động vào
tính hiệu quả của các chính sách về phát triển kinh tế, trợ cấp thất nghiệp, kìm chế lạm phát và bất bình đẳng
thu nhập.
Ngoài ra, các quốc gia thành viên khu vực đồng Euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính
sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung, vì mỗi quốc gia có một nhà nước riêng
thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối
với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với
nhau.
Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu
chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính
sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn
hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là
giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.
• Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô
Mỗi quốc gia có lựa chọn về mức độ lạm phát-công ăn việc làm khác nhau. Khi tham gia liên minh tiền tệ, phải
áp dụng một chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động kinh tế. Điều này gây ra
sự mất tự chủ của các nước thành viên khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở ngoài tầm
kiểm soát.
• Bất bình đẳng khu vực
Việc hình thành Liên minh tiền tệ châu Âu khiến cho một số quốc gia thu được lợi ích nhiều, một số quốc gia
thu được lợi ích ít hơn. Nó kích thích vốn và lao động di chuyển từ khu vực (quốc gia) có năng suất lao động
thấp đến nơi có năng suất lao động cao. Điều này tạo ra hậu quả xã hội khá nghiêm trọng.Tại các nước kém
phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia
tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm
hụt ngân sách.

• Chi phí thời kỳ quá độ
Khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải chịu chi phí gọi là chi phí thời kì quá độ
bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc hiện hành, in đồng bạc chung ,thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng
tiền chung.
Như vậy, có thể thấy Liên minh tiền tệ vẫn có những hạn chế riêng của nó. Chính sự gắn kết này làm cho
khủng hoảng từ nội bộ một hoặc vài nước lan rộng ra toàn khu vực liên minh và đem lại hậu quả khủng khiếp.
Minh chứng rõ nhất cho điều này chính là cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2008, đã tác động tiêu cực
đến không chỉ nội bộ các nước thành viên EU mà còn đến cả các nền kinh tế thế giới.
1.5 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ Châu âu:
• Nguyên nhân đầu tiên và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của khủng
hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra
những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân
sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra tại hầu hết các nước trên thế
giới, không chỉ có Hy Lạp và EU. Do vậy, bên cạnh các tác nhân bên ngoài, Hy Lạp còn có những
nguy cơ tiềm ẩn - đó là các yếu tố nội sinh của khu vực đồng tiền chung.
• Việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ
• Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
• Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
1.5.1 Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, chính phủ Hy Lạp đã tung ra những gói hỗ trợ
khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển Chính sách "vung tay quá trán" và "căn bệnh thành tích" đã khiến
Hy Lạp trượt sâu trong vũng lầy nợ công. Thực chất, nợ không phải là điều gì xấu, nhưng vấn đề đặt ra đối với
mỗi quốc gia là mức nợ ấy phải rõ ràng và trong tầm kiểm soát.
Ở trường hợp Hy Lạp, có thể thấy rằng khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ sự "lạm chi" và sự lơi lỏng của EU
khi Brussel sốt ruột muốn đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Hy Lạp. Nói cách khác, những "ảo tưởng" về một
viễn cảnh mới, về ánh hào quang của EU đã khiến Athens phớt lờ mọi cảnh báo, tiếp tục mạnh tay chi tiêu và
hậu quả nhãn tiền đều như người ta đã thấy.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào những nguyên nhân riêng có của Hy Lạp.
• Nạn nhân của bệnh thành tích

Có nhiều dẫn chứng thuyết phục cho thấy chính việc châu Âu nhiều lần làm ngơ trước các hành xử vô nguyên
tắc của thành viên khiến Hy Lạp ra nông nỗi ngày nay.
Theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng
nhiều chuẩn mực, theo những quy định của Hiệp ước này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng
tiền chung Châu Âu vào tháng 5/1998. Nhưng 2 năm sau, ngày 1/1/2001, mặc dù chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng
được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân
sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách
và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
• Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền
kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn.
Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó.Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự
là thách thức.
Việc gia nhập vội vã của Hy Lạp đã bộc lộ những mặt trái của nó.Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn
hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản
xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi
an sinh xã hội cao.
Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao
động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này
góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách.
• Thiếu sót trong cơ cấu của Hiệp định Maastricht- Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài chính
Trong điều kiện nền kinh tế không có khủng hoảng, việc duy trì cam kết giữ mức thâm hụt ngân sách nhà nước
ở mức 3% GDP và tổng nợ công không được vượt quá 60% GDP không gặp khó khăn gì đặc biệt. Nhưng khi
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2008, hầu hết các nước tham gia hệ thống đồng euro đã buộc
phải phá rào trước cả hai điều khoản nói trên để cứu nguy ngành ngân hàng, và qua đó, cứu nguy nền kinh tế.
Đặc biệt, đáng lo ngại là mức thâm hụt ngân sách của 4 nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ai Len, Hy Lạp đã
lên tới 9-14%, vượt xa quy định của Hiệp ước Maastricht.
Hy Lạp là mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền Euro.Trước khủng hoảng, nước này có tỷ lệ tăng trưởng cao
nhất trong khối EU nhờ tập trung phát triển các ngành dịch vụ, ngân hàng, du lịch và địa ốc.Tuy nhiên, kinh tế

ngầm chiếm tới hơn 30% GDP và sản xuất kém phát triển nên nước này luôn phải nhập siêu. Khủng hoảng nổ
ra, nợ công lên tới 115% GDP (gấp đôi quy định của hiệp ước) và thâm hụt ngân sách quốc gia là 14% GDP
(cao hơn quy định 3,5 lần). Khả năng thanh toán nợ của Chính phủ Hy Lạp bị nghi ngờ và các nhà đầu tư vội vã
rút vốn khỏi Hy Lạp và không cho Chính phủ nước này vay thêm tiền.
Việc cam kết giảm thâm hụt ngân sách về mức 3% được xem như bất khả thi do: thứ nhất, Hy lạp không thể hạ
giá đồng euro để khuyến khích xuất khẩu, thứ hai là Chính phủ không thể tự ý điều chỉnh lãi suất cơ bản để vực
dậy nền kinh tế. Nếu đứng ngoài khối euro, làm hai việc trên không khó đối với Hy Lạp.
Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và
16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Tuy nhiên, yếu kém trong thanh khoản của Hy Lạp đã làm lộ ra thiếu sót mang tính cơ cấu trong chính
sách tiền tệ chung: Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung,
một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung.
Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với
hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung
bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau.
Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu
chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định.
Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng
lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát
hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả
năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới. Thật vậy, Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành
19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong
khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%.
Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ
thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu.
Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP.
Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp
những khó khăn tương tự.Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao

dịch nội khối.Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp
thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung,
nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công.
• Sự yếu kém trong điều hành đất nước của chính phủ Hy Lạp
Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn
quốc tế. Đáng buồn thay, đây lại là nguyên nhân khiến quốc gia này lâm vào cảnh “chúa chổm”.
Dễ dàng hút vốn đầu tư nước ngoài, trong gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để
thu về hàng trăm tỷ ơ-rô. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi
tiêu hợp lý.Nhưng điều này không xảy ra, nhà chức trách dường như “ngủ quên” trên núi tiền có được nhờ vay
nợ.Nói đúng hơn, Chính phủ Hy Lạp chỉ biết chi tiêu (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) chứ hầu như không quan tâm
đến các kế hoạch trả nợ. Một ví dụ dễ thấy nhất là công tác tổ chức Thế vận hội Olympic Athens 2004, một thế
vận hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử. Chi 12 tỷ euro (cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến)
nhưng không cho phép bất cứ một biển hiệu quảng cáo nào được xuất hiện trên đường phố, Chính phủ Hy Lạp
đã khiến ngân sách quốc gia năm 2004 thâm hụt tới 6,1% (so với GDP) trong khi giới hạn mà khối EU cho phép
là 3%.
• Cơ cấu vốn vay bất hợp lý: chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn
Một điều đáng chú ý là sự chi tiêu lãng phí của Chính phủ Hy Lạp lại dựa trên cơ cấu nợ bất hợp lý, khi mà
hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Tỷ lệ nợ
công trên GDP của Hy Lạp là 108,1, khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la
Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-5-2010. Khi các khoản vay ngắn hạn chưa phát huy được hiệu quả thì
chính phủ lại lo trả nợ. Điều này càng làm gia tăng áp lực nợ lên chính phủ.
1.6 Đồng tiền chung Châu Âu và xu hướng của nó trong thời gian tới
Châu Âu được biết đến là nơi có điều kiện sống hàng đầu thế giới với cuộc sống vật chất và tinh thần rất cao,
chế độ chính trị và xã hội khá ổn định, đồng tiền chung của 16 quốc gia ngày càng khẳng định được vị thế, tạo
sự tin cậy, từng bước thay thế vị trí độc tôn của USD trong gần chục năm qua về thanh toán và dự trữ quốc
tế Tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng trung ương trên thế giới vào cuối năm 2009 đã lên
tới gần 30%, so với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ,
các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau
(i)
được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm sút mạnh. Tính đến tháng

7/2010
(ii)
, Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với GBP và 20% so với JPY… Những gì đang
diễn ra bên trong eurozone, khiến nhiều người phải đặt câu hỏi về sự gắn kết ở khu vực này.Tương lai của Euro
sẽ ra sao? Tiếp tục tồn tại và phát triển hay đồng tiền chung Châu Âu bị tan vỡ…?
Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010
Nguồn: RatesFX
Nhận định về xu hướng này, chúng tôi cho rằng các nước trong khu vực không dễ dàng để Euro chết yểu, Euro
vẫn tồn tại, nhưng sẽ bị giảm giá trong trung hạn. Nhận định này được xuất phát từ ba lý do sau:
Một là, cuộc khủng hoảng nợ công
( iii)
ở các nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ
kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của eurozone. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ
phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ. Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha,… sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro. Vì thế, Châu Âu khó tránh
khỏi cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Như vậy, tăng trưởng
kinh tế của khu vực này sẽ chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển
khác, trong khi lượng tiền không nhỏ đưa ra để cứu trợ, sẽ đẩy nhanh đà mất giá của Euro.
Hai là, Sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp lực giảm giá Euro. Niềm tin
đối với triển vọng kinh tế của 16 quốc gia khu vực sử dụng Euro đã sụt giảm trong quí 2 và 3 năm 2010. Theo
số liệu của IMF, chỉ số niềm tin của giới chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng tại Eurozone đã giảm từ mức
100,6 điểm trong tháng 4 xuống 94,5 điểm trong tháng 6, trong đó, tại Hy Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống
còn 51,9 điểm, tại Bồ Đào Nha giảm từ 93,8 điểm xuống còn 87,1 điểm. Xu hướng giảm giá Euro càng thể hiện
rõ khi Liên minh Châu Âu và IMF phải đưa ra quyết định về việc thành lập Quỹ cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.000
tỷ USD, nhằm ngăn ngừa sự sụt giảm liên tục của Euro hiện tại và trong tương lai.
Ba là, Khi các gói cứu trợ nhằm giúp các nước trong Eurozone thoát khởi cuộc khủng hoảng nợ, phục hồi tăng
trưởng kinh tế, thì việc Euro suy yếu cũng tạo cơ hội để khu vực này phát triển. Bởi khi Euro mất giá, hàng hóa
nhập khẩu vào Châu Âu trở nên đắt hơn, sẽ giúp giảm thâm hụt thương mại, đồng thời tăng cường xuất khẩu,
cải thiện sức cạnh tranh vốn đang rất yếu của các nước trong Eurozone, từ đó thúc đẩy tiến trình phục hồi kinh
tế của khu vực

( iv)
.
Như vậy, chính sự suy yếu của Euro có thể sẽ là một sự hỗ trợ quan trọng không chỉ đối với một vài nền kinh tế
khu vực đang nỗ lực để thoát suy thoái, mà còn đối với các quốc gia thành viên Eurozone đang gặp khó khăn
trong việc thúc đẩy những chương trình cắt giảm thâm hụt ngân sách. Đây cũng có thể là điều mà các nước
trong Eurozone mong muốn. Nhiều ý kiến cho rằng: Euro sẽ giảm giá trong những năm tới, nhưng khả năng
phục hồi của nó nhanh hay chậm
( v)
, điều này phụ thuộc rất lớn vào việc cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính
từng quốc gia, việc thực thi chính sách tài khóa và kỷ luật tài chính nghiêm ngặt, cũng như việc điều hành chính
sách tiền tệ của ECB ngay trong năm 2011, 2012.
• 2013 trở đi :Triển vọng đồng Euro trong bối cảnh khủng hoảng nợ công châu Âu
-Theo IMF (4/2012)[12], cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu leo thang có thể diễn biến xấu đi, vượt quá khả
năng kiểm soát của các nhà hoạch định chính sách, khiến nền kinh tế khu vực này có thể phải đối mặt với một
cuộc suy thoái mới. Do đó, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, ảnh hưởng đến triển vọng của đồng Euro
trong năm 2012-2013 cũng như trong dài hạn.
-Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công vẫn còn có thể lan rộng và gây hậu quả nghiêm trọng, hầu hết các
dự báo đều cho rằng đồng Euro sẽ tiếp tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt trong năm 2012-2013.
-Triển vọng của đồng Euro còn phụ thuộc vào diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu,các biện
pháp cải cách.
- Theo thống kê, đồng euro đã tăng giá từ 1,21 USD vào cuối tháng 7/2012 lên 1,37 USD vào đầu tháng 2 vừa
qua và đang dao động quanh mức 1,33 USD
Bảng 2. Khảo sát của Reuters về dự báo tỷ giá EUR/USD trong năm 2012-2013

Tỷ giá dự báo bình quân 1 tháng tới 3 tháng tới 6 tháng tới 12 tháng tới
EUR/USD 1,240 1,240 1,250 1,253
EUR/JPY 98,4 99,0 101,3 105,0
EUR/GBP 0,801 0,800 0,803 0,800
Số ngân hàng, tổ chức tài chính tham
gia dự báo 58 56 54 55

(Nguồn: Reuters, ngày 25/6/2012)
Bảng 3. Dự báo về tỷ giá USD/EUR của Financial Forecast
Tỷ giá dự báo bình quân
tháng
T5/2012 T6/2012 T7/2012 T8/2012 T9/2012 T10/2012 T11/2012
EUR/USD 1,2806 1,260 1,272 1,244 1,210 1,216 1,239
(Nguồn: Financial Forecast Center, 6/6/2012)
Bảng 4. Dự báo tỷ giá EUR/USD trong năm 2012-2013 của các tổ chức tài chính
Tỷ giá dự báo bình quân 1 tháng tới 3 tháng tới 6 tháng tới 12 tháng tới
Barclays Capital 1,250 1,210 1,190 1,150
Morgan Stanley 1,280 1,240 1,210 1,180
Nomura 1,280 1,260 1,237 1,220
Scotiabank 1,220 1,230 1,230 1,220
Deutsche Bank 1,250 1,300 1,350 1,250
(Nguồn: Tổng hợp từ Reuters, ngày 25/6/2012)
-Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương các quốc gia thành viên trong Khu vực
đồng tiền chung Châu Âu vừa đưa ra thông tin về bộ tiền giấy thế hệ thứ hai của đồng Euro dự kiến phát hành
vào tháng 5 năm 2013.
2.Nhu cầu hình thành đồng ACU
* Xuất phát từ thực tế:
- Sau khủng hoảng tài chính – kinh tế châu Á năm 1997, các nước châu Á liên tục hợp tác chặt chẽ về kinh tế-
tài chính và người ta cũng đã tính đến một hướng đi mới trong quá trình hợp tác, thậm chí hợp nhất đơn vị tiền
tệ tại khu vực
- Sự trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước châu Á ngày càng tăng đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á
với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
- Tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí khám phá khả năng hình thành một Cộng đồng Kinh
tế ASEAN (AEC) vào 2020 với sự hội nhập kinh tế ở mức độ cao hơn.
* Xuất phát từ điều kiện khách quan:
- Năm 2003, cha đẻ của đồng euro (Robert Mundell) cũng đưa ra kiến nghị xây dựng một đồng tiền chung cho
châu Á, cùng sử dụng song song với đồng tiền hiện tại của các nước trong khu vực.

- Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dự trữ bằng USD dần bị phân tán, trong khi đồng Euro và yên
Nhật đã trở thành một trong những đồng tiền đáng tin cậy cho các nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên, do sức cạnh
tranh của kinh tế châu Âu và Nhật Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng tiền mạnh nhất.
Do đó, nhu cầu hình thành đồng ACU càng cần thiết ,đóng góp rất lớn thúc đẩy kinh tế châu Á phát triển,
củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu Á, phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa.
2.1 SỰ HÌNH THÀNH ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU Á (ACU)
2.1.1 Khái quát đồng ACU
- Đồng ACU, đồng tiền chung Châu Á là đơn vị tiền tệ dự tính cho các nền kinh tế trong ASEAN +3 (Trung
Quốc, Nhật, Hàn Quốc).
- Đồng ACU lấy ý tưởng từ đồng Euro của các nước Châu Âu. ACU chưa phải là một đồng tiền thực mà mới
dừng lại là chỉ số đại diện cho một rổ tiền tệ, tức là một chỉ số bình quân gia quyền của đồng tiền các nước
Đông Á, đóng vai trò như một chuẩn mực để đánh giá các biến động tiền tệ trong khu vực.
- Đơn vị tiền tệ mới này được phát hành trên cơ sở giá trị trung bình của 15 đồng tiền của 15 nền kinh tế Châu
Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN).
- Giá trị tương đối của mỗi đồng tiền thành phần của cả hệ thống sẽ được tính toán dựa trên tổng sản phẩm
quốc nội và giá trị thương mại của quốc gia sử dụng đồng tiền cũng như giá trị của đồng tiền đó
- Các đồng tiền của Nhật Bản, Trung Quốc, và Hàn Quốc sẽ có giá trị lớn hơn trong hệ thống các đồng tiền
được dùng làm cơ sở tính toán
2.1.2 Tác động của ACU
* Đối với khu vực:
Những lợi thế về kinh tế:
+ Thuận lợi trong việc giảm tính dễ bị tổn thương bởi sự biến động tỷ giá hối đoái.
+ Cho phép phát hành trái phiếu bằng đồng tiền tệ khu vực và có lợi cho việc khắc phục sự bất bình đẳng quốc
tế.
+ Việc xây dựng tính độc lập của Châu Á về hệ thống hỗ trợ và giám sát tài chính riêng sẽ làm cho kinh tế toàn
cầu và hệ thống tài chính thêm vững chắc hơn và có khả năng phát triển kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm
riêng khu vực Châu Á.
Những lợi thế về chính trị :
Bao gồm sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và phối hợp chính trị uyển chuyển trong khu vực, đóng góp cho một ý
thức về bản sắc Châu Á.

* Đối với thế giới:
+ Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ được giải quyết (bao gồm tự
do hoá thương mại khu vực và các giao dịch vốn), làm cho việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do
hóa thương mại toàn cầu và giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế toàn cầu.
+ Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó hơn cho xung đột chính
trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong khu vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị toàn cầu.
+ Xét về lợi ích kinh tế, nó sẽ làm cho sự phát triển kinh tế trong khu vực Châu Á hiệu quả hơn và ổn định
hơn, và sẽ tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho phần còn lại của thế giới Hơn nữa, đối với những nền kinh
tế quy mô nhỏ hơn, lưu hành một loại tiền tệ lớn sẽ ổn định thương mại và giao dịch vốn, làm gia tăng sự ổn
định nền kinh tế.
+ Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ được giải quyết (bao gồm tự
do hoá thương mại khu vực và các giao dịch vốn), làm cho việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do
hóa thương mại toàn cầu và giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế toàn cầu.
+ Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó hơn cho xung đột chính
trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong khu vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị toàn cầu.
2.2 Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành đồng tiền chung
2.2.1. Thuận lợi
-Nền tảng của các nước Châu Á hiện nay tương đối tốt: Mặc dù các nước châu Á cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 nhưng hiện nay các nước đang dần hồi phục khả quan. Theo dự báo của
IMF, châu Á sẽ tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong hai năm tới bất chấp lạm phát đang diễn ra
và bất ổn ở Trung Đông với tốc độ tăng trưởng là 7%.
-Sự chuyển dịch nền kinh tế từ phương Tây sang phương Đông: Những năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như
cơn bão kinh tế trở thành nền kinh tế thứ hai trên thế giới. Theo cựu thủ tướng singapore Lý Quang Diệu dự
đoán Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển nhanh gấp ba lần Mỹ để soán ngôi nền kinh tế số 1 trong thập kỷ tới, làm
cường quốc số 1 ở châu Á và cả thế giới. Ngoài ra, chúng ta còn biết đến các nền kinh tế mới nổi khác như Ấn
Độ… Các nền kinh tế trên góp phần đưa châu Á lên vị thế mới trên trường quốc tế. Nó cũng thể hiện đang có sự
chuyển dịch từ phương Tây sang phương Đông. Điều này thúc đẩy các nước châu Á phải có sự liên minh chặt
chẽ hơn để đưa vị thế của mình lên cao hơn, mà hình thức thể hiện của nó là đồng tiền chung.
-Sự ra đời của đồng EURO tạo tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của đồng tiền chung châu Á – ACU: Dù hiện
nay, châu Âu cũng đang gặp một số vấn đề khó khăn với với đồng tiền chung của mình, nhưng trên hết EURO

vẫn chứng tỏ được vị thế vai trò của mình. Chính vì vậy, đồng EURO tạo tiền đề quan trọng cho ý tưởng hình
thành đồng tiền ACU. Hay chính những thất bại và khó khăn của Châu Âu sẽ là bài học giúp các nước châu Á
né tránh vết xe đổ và có những điều chỉnh phù hợp.
2.2.2 Khó khăn
Bên cạnh thuận lợi trên, các nhà hoạch định cho đồng ACU phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
2.1 Sự liên kết về kinh tế giữa các thành viên trong khu vực còn ở mức thấp
Các liên kết phổ biến hiện nay trên thế giới là: Khu vực mậu dịch tự do Asian(AFTA), Liên minh thuế quan,
Thị trường chung, Liên minh tiền tệ và liên minh kinh tế.
Bảng 1: Các liên kết phổ biến hiện nay
A2/A1 (1) (2) (3) (4) (5)
FTA
Liên minh thuế quan
Thị trường chung
Liên minh tiền tệ
Liên minh kinh tế
Nguồn: Tổng hợp
A1: Đặc trưng
A2: Mức độ liên kết
(1): Hàng hoá dịch vụ di chuyển tự do
(2): Thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên
(3): Sức lao động và tư bản di chuyển tự do
(4): Phát hành đồng tiền tập thể thống nhất
(5): Hình thành trung tâm kinh tế mới
Hiện nay, châu Âu đang trải qua liên kết liên minh kinh tế còn các nước châu Á mới dừng lại ở liên minh khu
vực mậu dịch tự do còn sơ khai. Khu vực mậu dịch tự do của ASEAN+3 vẫn chưa được hình thành, chúng ta
mới chỉ có khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA và ACFTA (khu vực mậu dịch tự do asian-trung quốc).
AFTA ra đời với mục đích đưa các nước ASEAN trở thành cơ sở sản xuất của thế giới, thu hút đầu tư nước
ngoài và tăng cường giao thương nội khối. Nhưng đến thời điểm này, kết quả AFTA mang lại không như kỳ
vọng của các thành viên.
2.2.3 Sự khác biệt lớn giữa các quốc gia

Điều kiện quan trọng cho sự thành công của liên minh khu vực trong đó có liên minh về tiền tệ là sự đồng đều
của các quốc gia trong khu vực đó. Sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu cũng dựa trên điều kiện đó.
Mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-
pin, Thái Lan và Singapore) với ASEAN 4( Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanma) khá cao - được coi là yếu tố
cản trở chính của sự liên kết. Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu (4I),
gồm: kết cấu hạ tầng, thu nhập, liên kết và thể chế.
Ví dụ: chênh lệch thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành của
Singapore (25.207 USD) - cao gấp 152 lần so với Mianma (166 USD) - nước nghèo nhất khu vực.
Biểu đồ 3: GDP/người năm 2010 của các nước ASEAN + 3
Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010
Trong khi đó, vào thời điểm hình thành đồng EURO, các nước EU có GDP/người tương đối đồng đều:
Biểu đồ 4: GDP/người của các nước EU năm 2000
Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010
Hay chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên các thông số về tuổi thọ, mức chi tiêu cho
giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biết chữ ASEAN +3 được chia thành 4 nhóm về HDI: nhóm phát triển nguồn
nhân lực cao, trung bình cao, trung bình và thấp. Việt Nam nằm trong nhóm trung bình.
Biểu đồ 5: Chỉ số HDI của các nước ASEAN + 3 năm 2010
Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010
Và HDI của các nước EU:
Biểu đồ 6: Chỉ số HDI của các nước EU năm 2010
Nguồn: Thống kê của UNDP, 2010
Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở chênh lệch về sự phát triển của thị
trường tài chính, năng lực tài chính Trong đó, việc thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn
nhất. Chênh lệch về trình độ phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tính khả thi của
các chính sách đồng tiền chung bị hạn chế.
Một số khó khăn khác như:
*Tranh chấp biên giới giữa các quốc gia như Việt Nam và Trung Quốc giao tranh về quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, Thái Lan và Campuchia về ngôi đền Prếch-vihia. Đồng tiền chung châu Á chỉ ra đời khi các vấn đề
về tranh chấp trên được giải quyết sớm.
* Sự khác nhau về tôn giáo

Nếu như các thành viên của EU chỉ có một tôn giáo là thiên chúa giáo, thì ở châu Á tôn giáo lại rất đa dạng
như: Kito giáo, Phật giáo, Hồi giáo…
* Sự suy yếu của đồng EURO
Sau hơn 10 năm ra đời, đồng tiền chung châu Âu cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế của mình, minh chứng
cho điều này là bi kịch nợ của Hy Lạp. Sự suy yếu này khiến những ai đang kỳ vọng vào đồng tiền chung châu
Á trở nên bi quan hơn.
2.4 Các vấn đề của Việt Nam trong tiến trình hội nhập ASEAN - hướng tới hình thành một đồng tiền
chung
• Điều chỉnh và hoàn thành chính sách thương mại
Việc liên kết các vùng trong khu vực bằng chế độ giá cả cố định là có lợi cho toàn bộ khu vực vì điều này thúc
đẩy tính hữu dụng của tiền tệ nhờ giảm bớt chi phí giao dịch, loại bỏ rủi ro tỷ giá, tiết kiệm chi phí phòng ngừa
rủi ro tiền tệ. Khi giá cả và tiền lương không linh hoạt thì sự điều chỉnh về vị trí cần bằng có thể gây ra thất
nghiệp ở một vùng hoặc lạm phát ở vùng khác.Cần có sự hợp lý hơn về giá cả và tiền lương ở Việt Nam.
Thỏa thuận tiền tệ tối ưu của một nền kinh tế tương đối đóng cửa với bên ngoài và mở cửa với bên trong sẽ là
neo đồng tiền của mình vào một cơ chế tỷ giá của khu vực để ổn định giá cả bên trong và áp dụng một chế độ tỷ
giá linh hoạt với bên ngoài để cân bằng bên ngoài. Trong trường hợp này, việc áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi
hay tham gia vào một khu vực tiền tệ quá lớn đều ko có lợi.
Thực hiện tự do hóa thương mại, tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, tự do di
chuyển các yếu tố. Sự tư do di chuyển các yếu tố ( đặc biệt là lao động) sẽ làm giảm nhẹ áp lực thay đổi giá cả
thực tế của các yếu tố để đối phó với các cú sốc về cung cầu, do đó, nhu cầu điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm
điều chỉnh giá thực tế của các yếu tố sẽ được giảm nhẹ. Điều này cho thấy sự tự do di chuyển các yếu tố phần
nào đóng vai trò là một sự thay thế cho tính linh hoạt của giá cả tiền lương. Sự hội nhập thị trường các yếu tố sẽ
tạo điều kiện để các nước không phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm duy trì tình hình cán cân thanh toán ổn
định giữa các vùng trong khu vực.
• Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế
Việc ra đời một đồng tiền chung đồng nghĩa với việc ra đời một thị trường chung với sự tự do di chuyển các
yếu tố. Vì vậy, sự di chuyển của hàng hóa từ nước này sang nước khác hoàn toàn không có rào cản. Đó sẽ là
thách thức đối với sản xuất trong nước và hàng hóa nội địa. Sự luân chuyển tự do của các yếu tố sẽ có tác động
không nhỏ đối với kinh tế trong nước. Trong thời gian sắp tới, việc cải cách hệ thống thuế phù hợp với điều
kiện hội nhập hiện tại là cần thiết nhằm một mặt thúc đẩy kinh tế trong nước, mặt khác hòa nhập vào sự phát

triển của kinh tế khu vực.
Do đó trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục lộ trình cắt giảm tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan về
số lượng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu phù hợp với chính sách và luật lệ với các nước còn lại trong khu vực để
đạt được mục tiêu này.
• Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài
Để tận dụng được cơ hội tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ từ các nước ASEAN mà còn nhiều
quốc gia khác khi tham gia thực hiện AFTA, Việt Nam phải tích cực điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài,
tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Chính sách đầu tư của Việt Nam trong thời gian tới nên điều chỉnh theo các
hướng sau:
- Mở rộng, đa dạng hoá các lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở thêm kênh thu hút vốn
- Đơn giản hoá thủ tục đầu tư
- Cung cấp thông tin kinh doanh cũng như nhanh chóng hoàn thiện công tác hành chính, đảm bảo các yếu tố
trong sạch, trách nhiệm, giải thích rõ ràng và khả năng có thể dự đoán trước. Việt Nam phải phát triển hệ thống
khuyến khích đầu tư, cung cấp thông tin ra các nước về cơ hội và môi trường đầu tư ở Việt Nam.Cho đến nay,
các nhà đầu tư vẫn chưa có đủ thông tin thông qua Internet hoặc các websites.
• Điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ
Chính sách tài chính - tiền tệ, đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí quan trọng hàng đầu trong các
chính sách thương mại. Trong quá trình hội nhập AFTA hướng tới hình thành đồng tiền chung, nền kinh tế
nước ta đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng: trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, chi phí sản xuất đều rất cao,
làm cho giá hàng Việt Nam cao hơn, khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam thấp so với các nước trong
khu vực. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, để thoát khỏi tình trạng hiện nay, tự do hoá kinh tế nhanh và
quyết liệt hơn kết hợp với phá giá vừa phải tỷ giá danh nghĩa là giải pháp phù hợp nhất.Tuy nhiên, việc phá giá
tiền tệ là một trong những quyết định hết sức khó khăn và nhạy cảm vì nó liên quan đến rất nhiều khía cạnh của
hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống của dân chúng. Do đó, cần phải nghiên cứu thận trọng trước khi quyết
định có phá giá nội tệ hay không.
Phá giá nội tệ sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ, đến thu nhập cố
định của người lao động và sự ổn định xã hội. Đây là những yếu tố Việt Nam cần xem xét khi quyết định phá
giá trong giai đoạn hiện nay.Nhìn một cách tổng thể, chúng ta sẽ được lợi nhiều hơn khi phá giá thêm đồng tiền
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Trong điều kiện Việt Nam tham gia AFTA , hướng tới hình thành đồng tiền chung, vấn đề chúng ta quan tâm

nhất là phá giá tiền tệ làm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế đều
khẳng định phá giá tiền tệ chủ động, đủ tầm trong bối cảnh chưa phát sinh những mất cân bằng kinh tế trầm
trọng sẽ có tác dụng rất lớn tới tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu
vì phá giá tiền tệ làm cho chi phí sản xuất trong nước thấp hơn giá cả quốc tế.
• Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội buôn bánhàng hóa và dịch vụ thương mại,
bao gồm các hoạt động chủ yếu như: thông tinthương mại, hội chợ, triễn lãm, quảng cáo, trưng bày giới thiệu
hàng hoá, tư vấnvà môi giới thương mại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực kinhdoanh. Để đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại trong thời gian tới, Nhà nước và các tổ chức xúc
tiến thương mại cần chú ýxây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động xúc tiến thương mại, đào tạo đội ngũ xúc tiến
thương mại cho các doanh nghiệp từ ngoạingữ, kiến thức luật pháp thương mại quốc tế, nghệ thuật đàm phán,
• Phát triển kinh tế - xã hội tạo việc làm để giải quyết thất nghiệp
Vì hình thành một đồng tiền chung trong khu vực, việc tự do thông thương buôn bán mở rộng, Nó kích thích
vốn và lao động di chuyển từ quốc gia có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao. Nên vấn
đề thất nghiệp là vấn đề cần được quan tâm triệt để nếu không muốn làn sóng di dân làm suy giảm kinh tế xã
hội.
Nhà nước cần tập trung các chương trình phát triển kinh tế trọng điểm tạo việc làm, thu hút nhiều lao động ở
tất cả các mảng nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, chú trọng hơn nữa đến chính sách đào tạo việc làm thích
hợp cho người lao động, nhất là lao động nông thôn để họ có thể bắt kịp với sự biến đổi nhanh về nhu cầu lao
động của nền kinh tế. Con số 73% lao động thất nghiệp, thiếu việc làm hiện nay là những người không qua đào
tạo vẫn là điều các cơ quan chức năng cần quan tâm giải quyết.
3. *** SDR ***
3.1 Vài điều về SDR
Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDR (Special Drawing Rights) là đơn vị tiền tệ qui ước của một số nước
thành viên của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế).SDR có mã tiền tệ ISO 4217 là XDR.
3.2 Lịch sử hình thành SDR
- SDRs được IMF đặt ra năm 1969 theo đề nghị của 10 nước trong Câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada,
Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức.
- Khi được khai sinh, SDRs là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của
các quốc gia thành viên.

- Tại thời điểm này hệ thống tỷ giá hối đoái cố định trong khuôn khổ Hiệp ước Bretton Woods đang
tồn tại nên các nước tham gia hiệp ước phải đảm bảo dự trữ vàng hoặc tiền tệ mạnh để có thể sử dụng
nó mua vào nội tệ khi cần thiết nhằm duy trì tỷ giá hối đoái. Với sự phát triển của thương mại và tài
chính quốc tế, đến lúc đó nguồn lực dự trữ chủ yếu bằng vàng và USD của các quốc gia trở nên
không đủ đáp ứng.
- SDRs ra đời cung cấp cho các quốc gia thành viên một nguồn lực bổ sung để có thể duy trì tỷ giá hối
đoái của đồng nội tệ.
- IMF nhận tiền đóng góp (tương ứng là quyền biểu quyết) và sử dụng nguồn góp đó, cộng thêm với
các tài trợ khẩn cấp đặc biệt để cho một số nước thành viên vay, nhằm ổn định cung cầu tiền tệ, tỷ giá
hối đoái, cán cân thanh toán ngắn hạn.
- Số tiền cụ thể mà mỗi quốc gia phải đóng góp được IMF xem xét quyết định căn cứ tình hình kinh tế
của quốc gia đó. Trước ngày 1 tháng 4 năm 1978, cứ 5 năm một lần, IMF sẽ xem xét lại số tiền mà
mỗi thành viên phải đóng góp (tăng lên hoặc giảm đi), từ ngày 1 tháng 4 năm 1978 trở đi, việc này
được thực hiện 3 năm một lần.
3.3 Sử dụng SDR
• SDRs có thể được sử dụng trong quan hệ tín dụng giữa các nước thành viên IMF với quỹ này cũng
như trong thanh toán cán cân thương mại giữa các quốc gia.
• Khi giải ngân, có thể quy đổi ra một loại tiền tệ mạnh nào đó như Đô la Mỹ, Euro, hoặc Yên Nhật,
tùy tình huống.
• SDRs cũng được sử dụng trong một số thỏa thuận, công ước quốc tế như Công ước Warsaw về trách
nhiệm vật chất của các hãng hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hóa chuyên chở; sử dụng
để tính toán cước bưu chính, viễn thông quốc tế theo thỏa thuận giữa các nước thành viên Liên minh
Bưu chính Thế giới (Universal Postal Union), Liên minh Viễn thông Quốc tế (International
Telecommunication Union).
Tuy nhiên nó chỉ là đơn vị qui ước, chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong lưu thông do
vậy người ta không thể tiêu nó như các loại tiền tệ dùng trong lưu thông khác.
3.4 Xác định giá trị của SDR
Từ 1969 đến tháng 6 năm 1974, SDRs được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị so
với vàng:
• Từ 1969 đến ngày 17 tháng 12 năm 1971: 35 USD = 1 oz vàng.

• Từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến ngày 11 tháng 2 năm 1973: 38 USD = 1 oz vàng.
• Từ ngày 12 tháng 2 năm 1973 đến ngày 30 tháng 6 năm 1974: 42,22 USD = 1 oz vàng.
Năm 1973, chế độ tỷ giá hối đoái cố định sụp đổ nên từ tháng 7 năm 1974 đến nay, SDRs được định nghĩa theo
các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài chính
quốc tế:
• Từ tháng 7 năm 1974 đến ngày 31 tháng 12 năm 1980: rổ tiền tệ bao gồm 16 loại tiền mà mỗi loại
chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế. Trong giai đoạn đầu (đến hết tháng 6 năm
1978, tỷ trọng này dựa trên số liệu thống kê từ năm 1968 đến 1972, giai đoạn còn lại dựa trên số liệu
thống kê từ năm 1972 đến 1976.
• Từ năm 1981 đến 1999: các loại tiền tệ trong rổ là mác Đức, frăng Pháp, bảng Anh, yên Nhật, đô la
Mỹ.
• Từ 1999 cho đến nay: rổ tiền tệ gồm euro, bảng Anh, yên Nhật, đô la Mỹ.
Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một XDR được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại và tài
chính quốc tế. Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo của IMF thực hiện sau
mỗi 5 năm. Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là:
• 1981–1985: USD 42%, DEM 19%, JPY 13%, GBP 13%, FRF 13%
• 1986–1990: USD 42%, DEM 19%, JPY 15%, GBP 12%, FRF 12%
• 1991–1995: USD 40%, DEM 21%, JPY 17%, GBP 11%, FRF 11%
• 1996–2000: USD 39%, DEM 21%, JPY 18%, GBP 11%, FRF 11%
• 2001–2005: USD 45%, EUR 29%, JPY 15%, GBP 11%
• 2006–2010: USD 44%, EUR 34%, JPY 11%, GBP 11%
Ngày 1 tháng 4 năm 2007, tỷ giá quy đổi là: 1 SDR = 1,135 EUR = 1,51USD.
- SDR được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh (đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro và Yên
Nhật). IMF tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng được chính phủ các nước
thành viên hỗ trợ.
1 SDR = Ʃ (giá trị quy ra USD của 4 loại tiền tệ)
= Ʃ (tỷ trọng của 1 loại tiền tệ trong rổ tiền tệ SDR x tỷ giá của loại tiền tệ đó so với USD) (công thức bình quân
gia quyền)
- Giá quy đổi theo đôla của SDR được niêm yết hàng ngày trên website của IMF (có thểm xem tại:
/>- Tỷ giá hối đoái mà IMF sử dụng để tính toán và công bố giá trị của SDR hàng ngày là tỷ giá trên thị trường

ngoại hối London, nếu thị trường này đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường ngoại hối New York, cuối cùng là
tỷ giá trên thị trường ngoại hối Frankfurt sẽ được sử dụng nếu thị trường New York cũng đóng cửa.
Ví dụ về cách xác định giá SDR ngày 01/07/2009
Nguồn: />Notes:
- Cột 2 (Currency amount under Rule O-1): tỷ trọng của từng loại tiền tệ trong rổ SDR được xác định theo Rule
O-1 của IMF.
- Cột 3 (Exchange Rate): TGHĐ ở cột này là tỷ giá của 1 loại tiền tệ/USD, riêng TGHĐ của JPY được thể hiện
USD/JPY.
3.4 Ưu và khuyết điểm cả SDR , mối liên hệ với Việt Nam
• Ưu điểm
- SDR ra đời góp phần làm thay đổi hệ thống tỷ giá hối đoái từ cố định sang tỷ giá thả nổi linh hoạt hơn.
- Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng đôla và vàng _công cụ thanh toán quốc tế duy nhất.
-SDR ra đời cung cấp cho các quốc gia thành viên một nguồn lực bổ sung để có thể duy trì tỷ giá hối đoái của
đồng nội tệ.
- SDR ra đời đã bổ sung vào quỹ dự trữ tiền tệ thế giới, làm cho hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt
hơn, đồng thời khiến cho thị trường hối đoái ổn định hơn.
- Việc sử dụng SDR một khi đáp ứng được yêu cầu dự trữ tiền tệ của toàn cầu trong thời gian dài là một cách
thúc đẩy việc đạt được mục đích của IMF và tránh suy giảm kinh tế và giảm phát.
- Việc sử dụng SDR góp phần làm giảm suy thoái kinh tế thế giới, đặc biệt là trong và sau cuộc khủng hoảng.
Nhiều nước tiếp tục tích lũy dự trữ tiền tệ ở mức cao phòng ngừa, đặc biệt là để tránh các cuộc khủng hoảng
trong tương lai xảy ra do sự đảo chiều vốn hay thâm hụt thương mại.
-Các thành viên của IMF có thể trao đổi SDR tự do với nhau và với các chủ sở hữu theo quy định, việc trao
đổi có thể diễn ra theo thỏa thuận tự nguyện hoặc theo chỉ định của Quỹ.
-Thành viên IMF cũng có thể sử dụng SDR trong hoạt động kinh doanh và các giao dịch liên quan đến IMF,
chẳng hạn như việc thanh toán lãi và trả nợ.
• Nhược điểm
_ Việc sử dụng SDR gặp khó khăn vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi
chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực tế. Lúc ban đầu, SDR được phân
chia cho mỗi nước hội viên theo phần đóng góp , do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR.
Trong những lần phân chia sau này, Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này.

-Trong điều kiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hiện nay, vai trò của SDR với tư cách là tài sản dự trữ bổ sung
rất hạn chế, nó chủ yếu phát huy tác dụng như một đơn vị tính toán.
3.6 SDR và Việt Nam
- USD, Euro và Yên Nhật đang biến động bởi những vấn đề chính trị, khủng hoảng nợ và động đất.
Đây là lúc thế giới hướng tới đồng tiền ổn định SDR.
- Trong một bối cảnh như vậy, việc tăng cường sử dụng đồng SDR có lẽ là một hướng đi mới, giúp ổn
định được thị trường tiền tệ thế giới. Thế giới sẽ không rơi vào tình trạng quá phụ thuộc vào một
đồng tiền nhất định, và sẽ xảy ra bất ổn khi Chính phủ phát hành đồng tiền đó gặp rắc rối.
- Một biện pháp lý tưởng nhất là việc phát hành bổ sung SDR phải được đi kèm với các biện pháp tăng
cường hiệu quả của nó.
Điều này được coi là bước đầu tiên hướng tới sử dụng đồng tiền chung, và để gia tăng vai trò của
SDR trong các giao dịch IMF. Trong khủng hoảng, hoạt động cho vay của IMF cần được tài trợ hoàn
toàn bởi SDR với số lượng không giới hạn.
- Vừa rồi, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ cho vay ưu đãi trị giá 235,2 triệu
Một tỷ lệ lớn hơn của SDR được cung cấp cho các nước đang thực sự có nhu cầu dự trữ tiền tệ
tín dụng hỗ trợ giảm nghèo 8 (PRSC8).
3.7 SDR - Đồng tiền dự trữ chung trong tương lai?
- IMF nhóm họp và đi đến quyết định sẽ phát hành trái phiếu quốc tế dưới dạng SDR - "Quyền rút vốn
đặc biệt". Đã có một số nước "háo hức" mua với khối lượng lớn, trong đó có Trung Quốc (dự kiến
khoảng 50 tỷ USD) và Nga (10 tỷ USD)
- Tháng 4 vừa qua, các nước G20 đã cam kết bổ sung nguồn lực cho IMF với số tiền lên tới 500 tỉ. 185
nước thành viên IMF đã thống nhất về một bước đi chưa từng có tiền lệ của IMF, là phát hành trái
phiếu. Trái phiếu mới của IMF sẽ được chào bán dưới dạng "Quyền rút vốn đặc biệt - SDR". Rõ ràng,
đây là một khối lượng quá lớn và sẽ tăng đáng kể sự "hiện diện" của đồng tiền này "trong kho" rất
nhiều quốc gia.
- Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết, sẽ sớm phát hành trái phiếu lần đầu tiên. Kế hoạch này đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nền kinh tế mới nổi, đang tìm kiếm một đồng tiền dự trữ mới thay thế cho đồng
dollar, vốn đang bị thiếu hấp dẫn do thâm hụt ngân sách Mỹ quá lớn.

×