BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO CHO CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Đức Thắng
Sinh viên : Nguyễn Thế Hiệp
Lớp : KH11 - CSC
Chuyên ngành : Chính sách công
Niên khóa : 2010 - 2014
Hà Nội, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận, Tôi đã có nhiều cơ hội
được học hỏi những điều chưa biết, được tạo điều kiện nghiên cứu đề tài mà
mình tâm huyết. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô Khoa
Hành chính học đã tạo cơ hội cho Tôi có thể hoàn thành tốt nhất khóa luận của mình.
Với sự biết ơn sâu sắc của người học trò, Tôi xin gửi lời cảm ơn đến giảng
viên Th.s Nguyễn Đức Thắng. Cảm ơn Thầy trong thời gian qua đã tận tình
hướng dẫn, giúp Tôi sửa chữa dần những sai sót. Những tâm huyết của Thầy đã
cho Tôi rất nhiều động lực để hoàn thành đề tài khóa luận này.
Những hạn chế khi tiếp cận đề tài thực tiễn chắc chắn sẽ còn nhiều thiết
sót. Tôi mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy, các cô và các bạn sinh
viên để Tôi hoàn thiện hơn nữa kiến thức và kỹ năng của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thế Hiệp
MỤC LỤC
!"#$%&"'(&#)*+,&-'
.!"".!"!/"'0!#123'0!42*!+(!+,&-'5
56#+ #"7-!"'8976!/"'0!#12:
56#+ #"!/"'0!#12:
5"'8976!/"'0!#12:
:;'&<=!/7-%">97'!/"'0!#12:
:?">97'!/"'0!#12@
@?"<A!/%"B%32C!7-%"<A!/%"B%!/"'0!#12@
D(&#$2#)*E"F*32C!
"<A!/G
HIJJKLMNOPIQRSS
TUQVG
/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*ZG
D"B'!'89!/2W!!"X!3Y#7-!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*ZG
/2W!!"X!3Y#G
/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z[
\#+']9^7*'&_`#)*!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z
\#+']9#)*!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z
*'&_`#)*!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z&_Z!/%"B&&_']!E'!"&(^ab"c'5
" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!!"-!<f#G
c&d;E"B'!'89#Agh!G
A42*!!"-!<f#G
" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y#[
5" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!!"-!<f#
*'&_`#)*#" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!!"-!<f#:
5B#i(2&;h!""<j!/+(!#" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!
!"-!<f#@
5D'!"!/"'89&_Z!/7-!/Z-'!<f#7-g-'"k#E'!"!/"'89#"Z&l!"`*.!"
5D'!"!/"'89#)*9c&d;!<f#
5D'!"!/"'89#)*m'!n/*n%Z
5D'!"!/"'89#)*-!T2;#[
5D'!"!/"'89#)*9c&d;+o*%"<A!/5p
5D'!"!/"'89#)*"-!"%";W" '!"5p
5D'!"!/"'89#)*-q!/5
55-'"k#E'!"!/"'89#"Z&l!"`*.!"55
']2E(&#"<A!/5@
"<A!/5
PrsKLMNOPIQRSSTU
QV5
tuv5
D"B'42B&#"2!/7,&l!"`*.!"5
',2E'8!&Y!"'0!7-wX!d;5
.!"".!"E'!"&(nab"c'5G
" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z&_Z!/#A42*!!"-!<f#j&l!"`*.!" 5[
-'!x&7,!/2W!!"X!3Y#&_Z!/#A42*!!"-!<f#j&l!"`*.!"5[
c'w2!/#" !"dB#"&"2"e&!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!!"-!<f#j&l!"
`*.!":
6#y02:
;'&<=!/#)*#" !"dB#":5
5'8!%"B%#)*#" !"dB#":
:/2W!3Y#+]&"Y#"'8!#" !"dB#":
5B!"/'B#" !"dB#"&"2"e&#"$&3<=!/#*Z#"Z#A42*!!"-!<f#&l!"`*.!" :[
5"z!/E(&42h+>&+<=#:[
n,!c'w2!/#" !"dB#"&"2"e&@p
n,E(&42h&"Y#"'8!#" !"dB#"@
5"z!/">!#"(^i(2Ex9@:
n,!c'w2!/#" !"dB#"&"2"e&@:
n,E(&42h&"Y#"'8!@G
55/2i0!!"X!#)*!"z!/">!#"(^i(2Ex9p
55/2i0!!"X!E"B#"42*!p
55/2i0!!"X!#")42*!
"<A!/5:
SUKLMNOPIQRSSTU
QVtuv:
5T2*!+']9^+o!""<f!/&"2"e&^%"B&&_']!!/2W!!"X!3Y##"$&3<=!/#*Z#"ZT&l!"`*
.!"/'*'+Z>!p{pp:
56#y02%"B&&_']!Dnm&l!"`*.!"/'*'+Z>!p{pp:
5T2*!+']9^96#y02%"B&&_']!^&"2"e&#"$&3<=!/#*Z#"ZT&l!"`*.!"+(!
!|9pp@
5c&d;/'h'%"B%
5"F9/'h'%"B%7,&2i0!&_2i,!^%"}g'(!^+}'9f'!"C!&"1#^&>ZdY&";!/!"$&7,42*!
+']9^#")&_<A!/7,#" !"dB#"&"2"e&#"$&3<=!/#*Z
5"F9/'h'%"B%7,g}d2!/^"Z-!&"'8!7|!gh!#" !"dB#"&"2"e&#"$&3<=!/#*Z
55"F9/'h'%"B%7,3b!"+>Z^42h!3~7-&}#"1#gc9Bi^!X!/#*Z!|!/3Y#&"Y#&"'#" !"
dB#"G
5:"F9/'h'%"B%/•!E(&#"\&#"€/'z*7'8#&"2"e&^&2i]!w6!/7f'+-Z&>Z^gW'w<•!/7-+b'
!/c^&‚!7'!"G:
5@"F9/'h'%"B%+ƒi9>!"#h'#B#"/'BZw6#^!/"'0!#12E"Z*"k#^"=%&B#42;#&(7-&_*Z
+}'E'!"!/"'89/'z*#B#+o*%"<A!/7,"Z-!&"'8!#" !"dB#"&"2"e&G@
D„UD…G
UDS
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT
1 CB Cán bộ
2 CC Công chức
3 CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
4 CQNN Cơ quan nhà nước
5 DTTS Dân tộc thiểu số
6 HĐND Hội đồng nhân dân
7 KT-XH Kinh tế - Xã hội
8 NNL Nguồn nhân lực
9 NQ Nghị quyết
10 QĐ Quyết định
11 QLNN Quản lý nhà nước
12 TTg Thủ tướng
13 UBND Ủy ban nhân dân
14 VC Viên chức
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Số bảng Tên bảng, biểu Trang
Bảng 2.1
Thống kê số lượng và chất lượng CB, CC, VC cấp
tỉnh, huyện theo trình độ đào tạo tính đến ngày
30/06/2013
39
Bảng 2.2
Thống kê số lượng và chất lượng của CB chuyên
trách, CC cấp xã, VC y tế cơ sở theo trình độ đào tạo
tính đến ngày 30/06/2013
40
Bảng 2.3
Danh mục ngành nghề được tỉnh Hòa Bình ưu tiên
tiếp nhận, bố trí công tác (Kèm theo Nghị quyết số
35/2005/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Hòa Bình)
45-46
Bảng 2.4
Bảng số liệu thể hiện số lượng và chất lượng của
NNL chất lượng cao thu hút cho các CQNN ở các cấp
của tỉnh Hòa Bình
52
Bảng 2.5
Bảng số liệu thể hiện mức tiền hỗ trợ ban đầu đối với
các đối tượng thu hút, tiếp nhận vào làm việc trong
các CQNN của tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Hòa Bình
đang có hiệu lực
55-56
Bảng 2.6
Bảng số liệu thể hiện số sinh viên đại học, cao đẳng là
con em ở tỉnh hòa Bình được đào tạo theo hệ giáo
giục (Bộ Giáo dục và Đào tạo) từ năm 2001 đến năm
2010
56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế
các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi trọng việc giáo dục
nhân tài, kén chọn kẻ sỹ, vun trồng nguyên khí quốc gia là công việc cần
thiết…”. Trải qua hơn 570 năm lịch sử, câu nói của hiền nhân Thân Nhân
Trung (1419 – 1499) về nhân tài, giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sỹ, vun
trồng nguyên khí quốc gia vẫn còn nguyên giá trị.
Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến trọng
dụng và thu hút nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định tìm người tài để
xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài,
trọng dụng nhân tài. Ngày 14/11/1945, trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài, nhân tài nước ta dù chưa có nhiều
lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân
tài ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. [12,tr99] Người cho rằng phải
biết chăm lo phát hiện nhân tài, phải biết đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và
phải biết sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng nhân tài theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục
như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. [13,tr273] Tại Đại
hội X, Báo cáo Ban chấp hành Trung ương chỉ rõ “Thực hiện chính sách
trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư
trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao…
thu hút chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
giảng dạy, phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam”. [3,tr212]
Để phát triển mỗi quốc gia phải dựa vào các nguồn lực cơ bản: nguồn
nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực khoa học công nghệ và cơ sở vật
chất kỹ thuật, nguồn vốn. Trong đó, NNL luôn luôn là nguồn lực cơ bản và
chủ yếu nhất cho sự phát triển, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Trong thời đại ngày
nay, tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, cùng với đó kinh tế tri thức,
1
khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ khiến nhân tố con người càng
được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là NNL chất lượng cao.
Từ thực tiễn hiện nay, để nâng cao hiệu quả hoạt động của cả khu
vực tư nhân và khu vực nhà nước, vấn đề thu hút NNL chất lượng cao đặc
biệt được quan tâm. Tuy nhiên, môi trường làm việc cũng như các chế độ
ưu đãi của hai khu vực này khác nhau rất lớn, khu vực kinh tế tư nhân đang
phát triển mạnh, với cơ chế thông thoáng và mức thu nhập cao hơn nhiều so
với khu vực nhà nước, điều đó được coi là “mảnh đất màu mỡ” để lực
lượng lớn NNL chất lượng cao đến đó để phát triển. Khu vực nhà nước với
những đặc thù hoạt động gò bó, tính linh hoạt kém, chế độ đãi ngộ thấp
nên lượng nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc không nhiều. Vậy
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QLNN, đảm bảo KT-XH tầm vĩ mô
được phát triển một cách ổn định, bền vững thì Nhà nước cần đặc biệt quan
tâm chính sách thu hút NNL chất lượng cao, bởi lực lượng này có vai trò
quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động QLNN.
Trong thời gian qua, xác định được ý nghĩa và vai trò to lớn của
chính sách thu hút NNL chất lượng cao cho các CQNN. Đảng, Nhà nước ta
và các địa phương bao gồm tỉnh Hòa Bình đã đã có các chính sách thu hút
NNL chất lượng cao về địa phương, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, là biện
pháp đột phá trong phát triển bền vững. Ban hành nhiều văn bản chính sách
liên quan đến chế độ chính sách để thu hút, đãi ngộ lực lượng NNL chất
lượng cao của xã hội vào làm việc trong CQNN. Đặc biệt, tỉnh Hòa Bình là
một tỉnh miền núi, còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp so với
mặt bằng chung, kinh tế phát triển còn ở mức thấp thì việc thu hút NNL
chất lượng cao cho CQNN càng quan trọng hơn nữa nếu không muốn
khoảng cách ngày càng xa hơn với các tỉnh khác trên cả nước.
Dựa vào điều kiện và nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước cũng
như của tỉnh, HĐND và UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành chính sách để
thu hút NNL chất lượng cao về làm việc trong các CQNN của tỉnh. Tuy
nhiên, do năng lực hoạch định chính sách của đội ngũ CB, CC còn hạn chế
và sự phát triển, thay đổi nhanh chóng của xã hội nên một số điểm của
2
chính sách không còn phù hợp, mục tiêu của chính sách chưa đạt được như
mong muốn. Điều đó đòi hỏi tỉnh Hòa Bình cần phải nghiên cứu, điều chỉnh
chính sách một cách hợp lý để có thể đem lại hiệu quả, hút hút được một
lực lượng nguồn nhân lực chất lượng cao về phục vụ địa phương.
Với những lý do trên, Tôi đã lựa chọn đề tài:"Chính sách thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ quan nhà nước tỉnh ở Hòa Bình
hiện nay" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Đây là vấn đề cấp
bách, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay và
phù hợp với thực tiễn của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về NNL chất lượng cao nói chung
và NNL chất lượng cao cho CQNN nói riêng. Cụ thể:
Lê Thị Hồng Điệp, Kinh nghiệm trọng dụng nhân tài để hình thành
nền kinh tế tri thức của một số quốc gia châu Á và những gợi ý cho Việt
Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh
25 (2009). Nội dung của bài tập trung vào tổng kết kinh nghiệm trọng dụng
nhân tài trong khu vực công và khu vực sản xuất, kinh doanh để hình thành
nền kinh tế tri thức của các quốc gia châu Á.
Phạm Kim Cúc (2009), Thu hút NNL chất lượng cao cho các cơ
quan HCNN cấp huyện tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Quản lý hành
chính công, Học Viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Thị Thủy (2013), Chính sách thu hút NNL chất lượng cao cho
các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sỹ Quản lý
hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
Đậu Thị Hiếu (2012), Hoạt động thu hút NNL chất lượng cao cho
các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Nghệ An hiện nay, Khóa luận tốt
nghiệp, Học viện Hành chính, Hà Nội.
Ba đề tài trên tập trung nghiên cứu chính sách thu hút NNL chất
lượng cao trong phạm vi cho các cơ quan hành chính nhà nước của một số
địa phương cụ thể. Nội dung các bài cũng tập trung vào nghiên cứu chủ yếu
3
về hoạt động thu hút (thực thi chính sách) NNL chất lượng cao và đưa ra
các giải pháp để nâng cao hoạt động thu hút NNL chất lượng cao.
Nguyễn Chín (2011), Các giải pháp thu hút NNL trình độ cao cho
các cơ quan nhà nước ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại
học Đà Nẵng, Đà Nẵng. Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm ra những giải pháp
để nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút NNL chất lượng cao cho các
CQNN ở tỉnh Quảng Nam qua việc nghiên cứu thực trạng và tổng kết, đánh
giá hoạt động thu hút của tỉnh trong thời gian qua.
Tuy nhiên, các đề tài trên chủ yếu nghiên cứu về thực trạng hoạt
động thu hút, đãi ngộ mà chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá cụ
thể về nội dung của chính sách. Đặc biệt, chưa có một công trình nghiên
cứu cụ thể nào về chính sách thu hút NNL chất lượng cao cho CQNN ở tỉnh
Hòa Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung chính sách thu hút NNL, kết quả thực hiện với
những mặt đạt được và hạn chế để đưa ra giải pháp hoàn thiện chính sách.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách thu hút NNL chất
lượng cao cho CQNN.
+ Nghiên cứu, phân tích và đánh giá nội dung của chính sách thu hút
NNL chất lượng cao cho CQNN tỉnh Hòa Bình cũng như kết quả thực hiện
để thấy được những mặt đạt được và hạn chế, yếu kém của chính sách.
+ Chỉ ra những hạn chế, yếu kém của chính sách và nguyên nhân của
những hạn chế trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện
chính sách và đem lại hiệu quả cho chính sách trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, đề tài tập trung nghiên
cứu về chính sách thu hút NNL chất lượng cao cho CQNN của tỉnh Hòa
Bình. Trong đó, tập trung vào nghiên cứu nội dung của chính sách và nhóm
4
đối tượng là NNL được thu hút theo danh mục ngành nghề nêu ở trong
chính sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung của chính sách,
qua đó đánh giá kết quả của chính sách và chỉ ra các ưu điểm, nhược điểm
của chính sách, đồng thời xác định nguyên nhân của những hạn chế làm cơ
sở đề ra những giải pháp để hoàn thiện chính sách thu hút NNL chất lượng
cao cho CQNN tỉnh Hòa Bình.
- Về không gian: Đề tài được thực hiện trong phạm vi các cơ quan
nhà nước ở tỉnh Hòa Bình, (Bao gồm các cơ quan mà lĩnh vực hoạt động có
đối tượng được ưu tiên thu hút, tiếp nhận phù hợp với danh mục ngành
nghề nêu trong chính sách).
- Về thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay (Từ
khi Hội đồng nhân dân tỉnh Hòa Bình ban hành Nghị quyết số 35/2005/NQ-
HĐND ngày 22 tháng 07 năm 2005 và Quyết định số 55/2005/QĐ-UBND
ngày 15 tháng 12 năm 2005 Về việc quy định một số chính sách khuyến
khích cán bộ, công chức học tập; Thu hút và tiếp nhận, sử dụng người có
trình độ về công tác tại tỉnh giai đoạn 2005 – 2015).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Quan
điểm của Đảng về vấn đề thu hút NNL chất lượng cao cho các CQNN.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu khóa luận
sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp thu thập thông tin: Đây là phương pháp quan trọng và
chủ yếu nhất để nghiên cứu đề tài khóa luận này, vận dụng một cách linh
hoạt để có thể thu thập đầy đủ, chính xác nhất các thông tin liên quan đến
chính sách thu hút nguồn NNL như: nội dung chính sách, tình hình thực
hiện chính sách trong những năm qua, các bài học, kinh nghiệm thu hút
NNL chất lượng cao của một số nước, một số địa phương,…
5
+ Phương pháp thống kê: Từ những thông tin, tài liệu đã thu thập
được, cần được thống kê lại một cách đầy đủ, khoa học để có thể nghiên
cứu, phân tích các tài liệu dễ dàng hơn, trình bày một cách dễ hiểu, đặc biệt
các thông tin liên quan đến con số như: tình hình NNL trong CQNN tỉnh
Hòa Bình, Số lượng NNL chất lượng cao thu hút, tiếp nhận trong gian đoạn
thực hiện chính sách vừa qua,…
+ Phương pháp phân tích tài liệu, số liệu: Để hiểu rõ được nội dung
của chính sách thu hút NNL chất lượng cao cho CQNN tỉnh Hòa Bình,
cũng như làm sáng tỏ được các vấn đề liên quan như ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế và cách khắc phục để hoàn thiện chính sách thì
phương pháp phân tích tài liệu, số liệu là không thể thiếu.
+ Phương pháp so sánh: Vận dụng phương pháp này để so sánh mức
đãi ngộ của chính sách thu hút tỉnh Hòa Bình với các tỉnh khác để thấy
được tính hợp lý và mức độ cạnh tranh với địa phương khác.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng số liệu, danh mục tài
liệu tham khảo, khóa luận có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao cho cơ quan nhà nước;
Chương 2: Thực trạng chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao cho cơ quan nhà nước ở tỉnh Hòa Bình;
Chương 3: Hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao cho cơ quan nhà nước ở tỉnh Hòa Bình.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
Thuật ngữ nguồn nhân lực (Human resourses) xuất hiện vào khoảng
thập niên 80 của thế kỷ XX khi mà có sự thay đổi căn bản về phương thức
quản lý, sử dụng con người trong kinh tế lao động. Khác với trước đây,
phương thức quản trị nhân viên với các đặc trưng coi nhân viên là lực lượng
thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí
tối thiểu thì từ những năm 80 đến nay với phương thức sản xuất mới, vấn đề
quản lý NNL có sự mềm dẻo và linh hoạt hơn, tạo điều kiện tốt hơn để
người là động có thể phát huy tốt hơn ở mức cao nhất các khả năng tiềm
tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự nhiên trong quá trình lao động,
phát triển.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ NNL. Theo
truyền thống, NNL thường được gọi là lao động, như một nguồn vốn đầu
vào của sản xuất bên cạnh các loại vốn vật chất khác. Cách hiểu thứ hai
được sử dụng phổ biến hơn thiên về chất lượng của NNL – là tất cả kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người, có
quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. Trong
đó, trình độ đào tạo được xem là một trong các tiêu chí quyết định tạo nên
chất lượng và cơ cấu NNL.
Xuất phát từ quan niệm coi NNL là nguồn lực cùng với các yếu tố
vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ sự phát triển nói
chung của các tổ chức, do vậy NNL được hiểu là nguồn lực con người của
tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm
7
năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển
KT-XH của quốc gia, khu vực, thế giới”. [21,tr10]
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “NNL là tất cả những kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có
quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. [27]
Theo Trần Thị Tâm Đan: “NNL là tổng thể sức dự trữ, những tiềm
năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người
trong việc cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội”. [22,tr10]
Theo tổ chức Lao động quốc tế thì: NNL của mỗi quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. NNL được hiểu
theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó,
NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa
hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển
KT-XH, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng
tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của
họ được huy động vào quá trình lao động. [27]
Theo quan điểm của kinh tế phát triển: NNL là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. NNL được biểu hiện
trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động
làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động
được từ họ; về chất lượng, đó là sức khỏe và trình độ chuyên môn, kiến
thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số
những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc
đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai
mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được
tính là NNL nhưng không phải nguồn lao động, đó là: Những người không
8
có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, những người trong độ
tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…. [27]
Theo Tổng cục Thống kê, khi tính toán NNL xã hội còn bao gồm
những người ngoài tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
quốc dân. NNL có thể lượng hóa được trong công tác kế hoạch hóa ở nước
ta được quy định là một bộ phận dân số, bao gồm những người trong độ
tuổi lao động có khả năng tham gia lao động theo Quy định của Bộ luật Lao
động Việt Nam (nam đủ từ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ từ 15 đến hết 55 tuổi). [27]
Từ những quan niệm về NNL được nêu trên, có thể hiểu: NNL là
tổng thể những tiềm năng của con người, bao gồm: thể lực, trí lực, nhân
cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ
cấu KT-XH nhất định. Và những tiềm năng này tồn tại trong toàn bộ lực
lượng lao động xã hội của một quốc gia.
1.1.1.2. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Có rất nhiều thuật ngữ khác nhau dùng để chỉ NNL chất lượng cao
như: NNL trình độ cao, NNL tài năng, lao động trình độ cao, nhân tài…
Tùy theo cách tiếp cận mà có các quan niệm khác nhau. Cho đến nay, khái
niệm NNL chất lượng cao cũng chưa được hiểu một cách thống nhất.
NNL chất lượng cao được hiểu là NNL có khả năng đáp ứng các yêu
cầu phức tạp trong công việc từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong
công việc. [17,tr7] Cách hiểu này dựa trên hiệu quả, năng suất công việc
của người lao động, xem là họ có đáp ứng được công việc đang làm hay
không, và đáp ứng ở mức nào.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, phân theo trình độ
đào tạo thì có thể hiểu NNL chất lượng cao “bao gồm những người đã qua
đào tạo có trình độ đại học trở lên hoặc đáp ứng được công việc của người
đã tốt nghiệp đại học” [17,tr7]
Theo Nguyễn Hữu Dũng, “NNL chất lượng cao là khái niệm để chỉ
một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề về chuyên
9
môn kỹ thuật ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao
động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng,
lao động kỹ thuật lành nghề)”. Như vậy, khái niệm NNL chất lượng cao chỉ
có tính chất tương đối, một người có thể tài năng trên lĩnh vực này nhưng
lại bình thường trên các lĩnh vực khác. Vì thế, khi xem xét một người có
thuộc NNL chất lượng cao hay không phải xác định tài năng của người đó
trên một ngành, lĩnh vực, phạm vi nhất định. [4,tr10]
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là “tài nguyên đặc biệt”,
một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, phát triển con người, phát
triển NNL trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển
các nguồn lực. Không phải tự nhiên mà có được một lực lượng NNL chất
lượng cao, cần có một giai đoạn đào tạo hoặc phát triển, nâng cao năng lực
của con người. Đó chính là sự biến đổi về chất lượng và số lượng NNL trên
các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần.
Giữa chất lượng NNL và NNL chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng
NNL là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó NNL chất
lượng cao là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy
nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL chất lượng cao không thể
không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng NNL nói chung của một đất
nước, một khu vực hay một địa phương. NNL chất lượng cao là NNL phải
đáp ứng được yêu cầu của thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và
ngoài nước), đó là: có kiến thức về chuyên môn, kinh tế, tin học, ngoại ngữ;
có kỹ năng, kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, hợp tác, có tác
phong làm việc và thái độ tốt, có trách nhiệm với công việc.
Tiêu chí xác định NNL chất lượng cao bao gồm: Đạo đức nghề
nghiệp; khả năng thích ứng với công nghệ mới; linh hoạt cao trong công
việc; khả năng sáng tạo. Hoặc: có nhân cách; trí tuệ phát triển mức độ cao;
Phẩm chất nổi bật về năng lực trí tuệ IQ, EQ; giàu tính sáng tạo; tư duy độc
10
đáo; giải quyết công việc nhanh, chính xác, hiệu quả cao; năng lực và kỹ
năng chuyên biệt…. [11] Tuy nhiên, trên đây chỉ là các tiêu chí xác định
NNL chất lượng cao một cách tương đối.
Nghiên cứu, tiếp cận từ vị trí việc làm, về trình độ được đào tạo,
NNL chất lượng cao bao gồm: những lao động qua đào tạo và tự tích lũy
được, có chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi, có
khả năng hòa nhập, thích ứng với những thay đổi của xã hội, của khoa học
– công nghệ, tham gia lao động có hiệu quả cao, có khả năng đóng góp cho
sự phát triển của các tổ chức và toàn xã hội. [17,tr8]
Như vậy, NNL chất lượng cao là những con người phát triển cả về
thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động, tính tích cực chính trị - xã hội,
về đạo đức, tình cảm trong sáng. NNL chất lượng cao có thể không cần
đông về số lượng, nhưng phải tập trung vào chất lượng.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực chất lượng cao
Bản thân NNL chất lượng cao là một bộ phận tinh túy nhất của NNL
xã hội. Nên ngoài những đặc điểm chung của NNL xã hội thì NNL chất
lượng cao còn có những đặc trưng riêng. Theo hướng tiếp cận và cách nhìn
nhận của mỗi người sẽ xác định các đặc điểm của NNL một cách khác nhau.
Theo Francois Gagnes, có thể khái quát một số tiêu chí, đặc điểm để
xác định người có tài năng đó là:
- Chất lượng cao: Năng lực cao hơn đồng nghiệp
- Hiếm có: Trình độ kỹ xảo cao hơn đồng nghiệp
- Năng suất: Tạo ra sản phẩm với năng suất cao hơn đồng nghiệp
- Nổi trội: Kết quả công tác cao hơn
- Giá trị: Kết quả công việc được xã hội chấp nhận mang lại hữu ích
cho cuộc sống. [4,tr9,10]
Hay xác định đặc điểm nguồn nhân lực theo ba phương diện: thể lực,
trí lực và phẩm chất tâm lý xã hội. Cụ thể như sau:
11
- Về mặt thể lực của NNL chất lượng cao
Đó là sức khỏe của người lao động, bao gồm sức khỏe về cơ thể và
sức khỏe về tình thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao
động chân tay. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh,
khả năng vận động trí tuệ và áp dụng vào thực tiễn.
NNL có chất lượng cao là lực lượng lao động có sức chịu đựng dẻo dai,
đáp ứng được quá trình sản xuất hay công việc nặng, khó khăn, căng thẳng và
lâu dài. NNL chất lượng cao phải đáp ứng được các thông số nhân chủng học
về chiều cao, cân nặng, giọng nói… phù hợp với từng công việc. NNL chất
lượng cao phải luôn luôn tỉnh táo, sảng khoái về mặt tinh thần để giải quyết
các công việc một cách nhanh chóng, đúng thời gian, đảm bảo hiệu quả của
công việc, có tính vượt trội hơn so với NNL có trình độ trung bình.
- Về mặt trí lực của NNL chất lượng cao:
Trí lực là một nhân tố không thể thiếu của NNL chất lượng cao, nó
quyết định rất lớn đến việc người đó có phải là NNL chất lượng cao hay
không. Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nền kinh
tế tri thức, cho ra đời các vật dụng, sản phẩm, máy móc hiện đại, yêu cầu
người lao động phải có kiến thức cơ bản, trình độ chuyên môn, kỹ thuật lành
nghề về một lĩnh vực nào đó để có thể bắt kịp với khoa học công nghệ, máy
móc hiện đại, đáp ứng yêu cầu công việc và sự dụng một cách hiệu quả.
Nhân tố trí lực của NNL chất lượng cao được xem xét trên hai góc độ
đó là: trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng thực hành.
+ Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật: NNL chất lượng cao là
loại lao động trí tuệ, có trình độ chyên môn, kỹ thuật có khả năng đảm nhận
các chức năng quản lý phức tạp, hiện đại ở các ngành, lĩnh vực. Người có
trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cao cần phải am hiểu rộng, nắm
bắt thông tin nhanh, chính xác đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, mọi thông
tin, công việc thay đổi nhanh chóng bởi sự cạnh tranh gay gắt trong nền
12
kinh tế thị trường. Nắm vững các kiến thức chuyên môn, vận dụng được
một cách khoa học vào thực tế.
+ Kỹ năng thực hành: NNL chất lượng cao được đào tạo một cách kỹ
lưỡng, nắm vững được các vấn đề từ tổng thể đến chi tiết của công việc. Có
tay nghề cao, nên khi thực hiện có thể đưa ra sản phẩm nhanh hơn và đẹp
hơn sản phẩm của người khác.
NNL chất lượng cao luôn luôn phải đi đôi với phát triển hệ thống giáo
dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên nhằm luôn luôn cập
nhật, bổ sung những kiến thức, kỹ năng mới cho NNL chất lượng cao
.
- Về phẩm chất tâm lý xã hội của NNL chất lượng cao:
NNL chất lượng cao đòi hỏi phải có tác phong công việc nhanh nhẹn,
đúng giờ, có ý thức chấp hành nội quy, quy chế, tính kỷ luật cao và giải
quyết công việc trong mối quan hệ tập thể tốt, hài hòa.
Phát huy tính sáng tạo cao độ trong quá trình thực hiện công việc, có
niềm say mê với công việc chuyên môn của mình. Thích ứng với những
thay đổi trong công việc như công nghệ và quản lý.
1.1.2.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế, xã hội
Trong thế giới hiện đại, khi chuyền dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa
trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL chất
lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định trong hiệu quả KT-XH. Các
lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công
nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng NNL.
Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững
chính là những con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao, tức là những con
người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm,
năng lực sáng tạo trở thành “nguồn vốn – vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi
trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần
13
thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNL chất lượng cao, có môi trường
pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị xã hội ổn định. [27]
Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao
động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong
các nguồn lực để phát triển kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh, William
Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất.
C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Trong
truyền thống Việt Nam xác định “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà
tương lai Mỹ, Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo
ông “tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con
người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. [1]
Vai trò của NNL chất lượng cao đối với sự phát triển KT-XH có thể
kể đến như sau:
- Thứ nhất: NNL chất lượng cao vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển
Để tồn tại và phát triển, con người phải được đáp ứng những nhu cầu
về mặt vật chất. Để không ngừng thỏa mãn về nhu cầu vật chất, tinh thần
ngày càng được nâng cao về số lượng và chất lượng trong điều kiện các
nguồn lực đều có hạn, con người ngày càng phải phát huy đầy đủ hơn khả
năng về thể lực và trí tuệ cho việc phát triển không ngừng kho tàng vật chất
và tinh thần đó. Chính vì vậy, sự tiêu dùng của con người, sự đáp ứng ngày
càng tốt hơn những nhu cầu của con người và là động lực phát triển. Suy
cho cùng, mục đích của sản xuất là để tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị
trường, khối lượng và cơ cấu tiêu dùng là một yếu tố quyết định quy mô và
cơ cấu sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Với tư cách là người sản xuất, con người có vai trò quyết định đối
với sự phát triển. Không thể không thừa nhận rằng, con người với khả năng
thể lực và trí tuệ của mình là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất của sự
phát triển sản xuất xã hội. Tất cả các kho tàng vật chất và văn hóa đã có và
14
còn tiếp tục được sáng tạo thêm làm phong phú sản phẩm lao động của con
người đều là kết quả hoạt động lao động của con người. Trong bất kỳ một
trình độ văn minh sản xuất nào, lao động của con người vẫn đóng vai trò
quyết định. Vấn đề chỉ là, cùng với sự phát triển của văn minh sản xuất sẽ
dẫn đến sự thay đổi vị trí lao động chân tay và lao động trí tuệ, trong đó lao
động trí tuệ ngày càng đóng vai trò quyết định.
- Thứ hai: NNL chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá
trình tăng trưởng và phát triển KT-XH
NNL, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng,
bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối
quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là năng lực nội
sinh chi phối quá trình phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. So với các
nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thể nổi
bật ở chỗ là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp
lý, còn các nguồn vốn khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với NNL một cách hiệu quả. Vì vậy,
con người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của
quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định
quá trình phát triển KT-XH.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện
thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh thế có thể tăng trưởng
nhanh và phát triển bền vững nếu hội tụ bốn điều kiện :
+ Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
+ Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
+ Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và
đông đảo
+ Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba
15
- Thứ ba: NNL chất lượng cao là một trong thững yếu tố quyết định
sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH
Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động được đào tạo với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đối với nước ta, đây là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi đất nước ta đang bước vào giai
đoạn CNH-HĐH, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển KT-XH
còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa
quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và phát
triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng NNL
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Thứ tư: NNL chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách
tụt hậu. Tiếp thu nhanh các thành tựu khoa học công nghệ để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm phát
triển bền vững.
Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn là
nước nông nghiệp, nên NNL chất lượng cao vẫn còn mang nặng thói quen
và tập quán của người tiểu nông, thiếu năng động, tính tổ chức kỷ luật trong
nền sản xuất công nghiệp hiện đại còn yếu, thích tự do, tác phong công
nghiệp và trình độ văn hóa còn thấp. Trong khi lao động phổ thông dư thừa
rất lớn thì NNL chất lượng cao lại thiếu hụt nghiêm trọng, đặc biệt là NNL
chất lượng cao về khoa học, công nghệ. Đây là tình trạng đáng báo động,
không phù phù hợp với quy luật phát triển là tỷ lệ tăng trưởng lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật bao giờ cũng phải cao hơn tốc độ tăng GDP
để đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Như vậy, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu với các nước phát triển,
cần phải quan tâm đầu tư và có tính chiến lược trong phát triển NNL chất
16
lượng cao và trình độ năng lực chuyên môn, đồng thời là nâng cao kỹ năng
nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam.
Thứ năm: NNL chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, NNL đặc biệt
là NNL chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước những cơ hội là
thách thức lớn. NNL chất lượng cao sẽ có cơ hội và môi trường phát triển,
phát huy được năng lực bản thân, có cơ hội giao lưu, học hỏi và làm việc ở
các quốc gia khác và có thu nhập cao hơn để nâng cao chất lượng cuộc
sống. Tuy nhiên, so sánh tương quan thì chất lượng NNL Việt Nam còn khá
xa so với một số nước Đông Á, cụ thể ta đang ở mức gần tương đương với
In-đô-nê-xi-a nhưng thua hầu hết các nước và lãnh thổ khác như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Xin-ga-po, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Ma-
lai-xi-a… từ đó dẫn đến một loạt các yếu kém khác như vận dụng trình độ
khoa học kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao và
đương nhiên dẫn đến sức cạnh tranh của nước ta còn ở vị trí thấp, và NNL
sẽ gặp khó khăn lớn trong cơ hội tìm kiếm việc làm.
1.2. Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ quan
nhà nước
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Cơ quan nhà nước
Trong thực tiễn và trong khoa học, thuật ngữ “Cơ quan nhà nước” đã
được đề cập đến và giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Trong tiếng Pháp có từ “établissement public” được hiểu: “CQNN là
một pháp nhân công quyền, chịu trách nhiệm tiến hành một trong các hoạt
động của các đơn vị hành chính địa phương thay cho nhà nước, cho tỉnh,
cho xã nhưng chịu sự kiểm tra của cấp đó. [29,tr80]
Theo một số tài liệu của các nhà khoa học Việt Nam, thuật ngữ
CQNN được giải thích như sau:
17