Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

luận văn hoàn thiện các quy định của luật pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.03 KB, 13 trang )

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
5
1.1. Khái luận về bảo hiểm nhân thọ 5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam
22
1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân 27
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP KINH
DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
31
2.1. Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo các
hình thức doanh nghiệp nhất định
31
2.2. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình kinh doanh có điều kiện 37
2.3. Tài chính doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 44
2.4. Trung gian bảo hiểm nhân thọ 50
2.5. Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 54
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VÀ KIẾN
NGHỊ
57
3.1. Một số nhận xét về pháp luật đối với doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ
57
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ
64
KẾT LUẬN 75


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ tháng 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của
Việt Nam đã đi vào hoạt động. Đặc trưng của hoạt động bảo hiểm nhân
thọ là vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phòng ngõa rủi
ro. Với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, thu nhập của người dân
ngày càng tăng thì hoạt động này càng có điều kiện phát triển và trở
thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho
nền kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn, các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ đã thu hót, tạo việc làm mới cho trên 100.000 lao động có thu
nhập ổn định, hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các chương trình
tài chính rất đa dạng đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp
cho thị trường, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn chi nhiều tỷ đồng cho
hoạt động từ thiện, tài trợ cho các hoạt động văn hóa, thể thao, khuyến
học
Để phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngay từ khi
ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nước ta đã xác lập
tính đa dạng của các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có
những quy định làm tiền đề cho sù ra đời của các công ty bảo hiểm nhân
thọ sau này. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam đã mang lại những lợi Ých rất to lớn cho sự phát triển nền kinh tế -
xã hội và lợi Ých của người tham gia bảo hiểm. Việt Nam đang trong quá
trình hội nhập, đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Quá trình này tất yếu buộc nước ta phải mở rộng cửa thị trường
để có thêm các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải
được kiểm soát hết sức chặt chẽ và phải được điều chỉnh bằng luật pháp,

để hoạt động này phát triển lành mạnh phục vụ cho công cuộc phát triển
và xây dựng đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và
phát triển hàng trăm năm nay. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày càng
được thể hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển
trên thế giới.
Trước đây, đã có một số công trình nghiên cứu về mặt kỹ thuật bảo
hiểm, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhưng chủ yếu đi sâu vào lĩnh
vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, hệ thống về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt
là về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là mới mẻ. Quá
trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hướng vừa làm vừa
học, tham khảo tài liệu của nước ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh
hoạt động này thời kỳ đầu còn thiếu và chưa đồng bộ, qua một thời gian
hoạt động cùng với trải nghiệm thực tế, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong
việc hoàn thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở
pháp lý đầy đủ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có được môi
trường phát triển thuận lợi.
Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, vẫn tồn tại một số quy định
pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó,
mục tiêu đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách
tổng quát, toàn diện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ, đối chiếu với thực tiễn hoạt động, kết quả hoạt động
của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Từ đó đề ra hướng bổ sung và
1
hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ cũng như các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

nhằm tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam, giúp khuyến khích, thu hót ngày càng nhiều các tầng líp dân
cư tham gia bảo hiểm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dùa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chỉ đạo hoạt
động bảo hiểm, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, bên cạnh việc
phân tích các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận
văn sẽ nhìn nhận vấn đề theo quan điểm duy vật, biện chứng, áp dụng
phương pháp lịch sử, lôgic trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tài liệu
pháp lý liên quan, kết hợp so sánh, đối chiếu, tổng hợp với thực tiễn để
rót ra kết luận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn những đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện
các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn
kinh doanh cần bổ sung, góp phần tạo ra môi trường pháp lý chuẩn mực
và lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ,
thúc đẩy hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển phục vụ đời
sống kinh tế - xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Chương 3: Mét số nhận xét chung và kiến nghị.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN
Chương 1

Những vấn đề chung về Bảo hiểm Nhân thọ
1.1. Khái luận về bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện từ hàng trăm năm.
Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành dịch
vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện Ých cơ bản
của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối
với người mua bảo hiểm.
Với những đặc trưng cơ bản của mình là vừa mang tính chất tiết
kiệm vừa mang tính chất phòng ngõa rủi ro, bảo hiểm nhân thọ có thể
được sử dụng để áp ứng nhiều mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của
khách hàng. Với đối tượng bảo hiểm chỉ là con người, bảo hiểm nhân thọ
là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự kiện trái
ngược nhau là sống và chết. Trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền với một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là
chắc chắn xảy ra, khác với bảo hiểm phi nhân thọ là loại hình bảo hiểm
chỉ trả tiền khi có rủi ro xảy ra.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của bảo hiểm nhân thọ, pháp
luật đã quy định có tính chất ràng buộc, hạn chế có liên quan đến việc
giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này được thể
hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), và chúng đều đã có mặt
trong các văn bản pháp luật tương tự ở mọi quốc gia cho phép kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ.
1
Thứ nhất, ràng buộc về quyền lợi có thể được bảo hiểm. Trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tượng được phép mua bảo
hiểm cho người khác đã trở thành thông lệ quốc tế xuất phát từ quan
điểm xã hội cho rằng những người thân thiết, ruột thịt trong gia đình là
những người phải chịu đựng mất mát nhiều nhất khi người thân gặp rủi
ro. Và cũng có một số quan hệ cũng được chấp nhận là đảm bảo quyền

lợi này như quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động.
Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường
hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tượng
được bảo hiểm. Quy định này nhấn mạnh đến yếu tố nhất trí của người
được bảo hiểm và đây chính là cách thức phòng tránh có hiệu quả đối với
các trường hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm trục lợi trên sinh mạng
của người khác.
Nói tóm lại, với những đặc điểm riêng của mình, đã từ lâu, bảo hiểm
nhân thọ giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường bảo hiểm thế
giới và hiện nay càng ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của
mình trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam.
1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản
Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ được thiết
kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, đó là bảo hiểm
sinh kỳ, tử kỳ, hỗn hợp, trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kỳ, trong mỗi
loại hình bảo hiểm cá nhân trên lại bao gồm rất nhiều sản phẩm khác
nhau, ngoài ra còn có các loại hình bảo hiểm nhóm và bảo hiểm bổ trợ.
1.1.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và các hình thức
đảm bảo khác
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ
Đối tượng của bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài
sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác, đối tượng của
bảo hiểm nhân thọ chỉ duy nhất là con người. Bảo hiểm phi nhân thọ chỉ
có một mục đích chống lại rủi ro, còn bảo hiểm nhân thọ có thể giúp
người được bảo hiểm vừa đạt được mục đích chống lại rủi ro vừa có mục
đích tiết kiệm. Thời hạn của hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ ngắn (1
năm trở xuống), còn thời hạn bảo hiểm của hợp đồng nhân thọ thường

dài hạn (từ 5 năm trở lên).
Khi tham gia bảo hiểm phi nhân thọ, khách hàng phải theo đuổi hợp
đồng đến cùng, trừ lý do rơi vào tình huống phải chấm dứt hợp đồng theo
quy định của pháp luật, còn trong bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm
có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào.
1.1.3.2. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thương mại) đều là
chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhưng vì là hai
loại hình bảo hiểm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiều mặt như sau:
Thứ nhất: VÒ mục đích, nguyên tắc
Bảo hiểm xã hội là một phần của chế độ bảo trợ xã hội bắt buộc thực
hiện theo pháp luật của nhà nước, bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thương
mại) là loại hình do mọi người tự nguyện tham gia bảo hiểm, không có
sự bắt buộc. Bảo hiểm thương mại có luật điều chỉnh riêng.
Thứ hai: Khác nhau về đối tượng và chức năng bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm xã hội là những người lao động trong xã
hội. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cơ bản
cho người lao động khi ốm đau, già cả, bị thương, bị tàn phế, mất khả
năng lao động Đối tượng bảo hiểm thương mại thường không có quy
định đặc biệt mà áp dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dùa vào
nguyên tắc tự nguyện lùa chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng
chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường hoặc chi trả số tiền bảo
1
hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro hoặc khi đáo hạn
hợp đồng như đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Thứ ba, sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm
Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn đóng góp của
người sử dụng lao động và của người lao động, nguồn do nhà nước hỗ trợ
thêm và các nguồn khác Quỹ bảo hiểm thương mại hình thành trên cơ
sở thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thể hiện dưới hợp đồng

hoặc do luật định. Đây là quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà
nước. Quỹ này không do cơ quan nhà nước quản lý tập trung thống nhất,
mà do chính các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý và sử dụng theo luật.
1.1.3.4. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy
động vốn qua kênh ngân hàng
Hoạt động bảo hiểm nhân thọ và hoạt động ngân hàng cùng có tính
chất giúp người dân tiết kiệm tiền và được hưởng lãi suất từ những khoản
tiền tiết kiệm. Nhưng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt
lớn, đó là hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn có tính chất đảm bảo rủi ro
cho người tham gia trong khi hoạt động ngân hàng không có.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam
Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1996 trong điều
kiện kinh tế - xã hội có nhiều thuận lợi. Trình độ dân trí được nâng cao
cùng với sự phát triển đáng kể của khoa học - công nghệ đã tạo những
tiền đề thuận lợi cho sự xuất hiện của loại hình dịch vụ như bảo hiểm
nhân thọ. Tuy nhiên, vào thời điểm này, sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ
cũng gặp phải một số khó khăn do nền kinh tế tuy đã có bước phát triển
song vẫn còn chậm và ở mức thấp, đây lại là một loại dịch vụ hoàn toàn
mới, bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như người tiêu dùng đều
chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm về loại hình dịch vụ mới mẻ này.
Và các quy định của pháp luật có liên quan còn nhiều bất cập, chưa tạo
được một hành lang pháp lý thật sự phù hợp cho bảo hiểm nhân thọ phát
triển.
Trong bối cảnh như vậy, bảo hiểm nhân thọ đã được ra đời ở Việt
Nam sau rất nhiều cố gắng chuẩn bị cả từ phía cơ quan bảo hiểm và các
doanh nghiệp bảo hiểm. Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam là đơn vị đầu
tiên và duy nhất trên thị trường tại thời điểm đó tiến hành kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ. Từ đó đến nay, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
đã trải qua các giai đoạn phát triển sau đây:

- Giai đoạn 1 (tháng 8/1996 – 6/1999): Đây là giai đoạn chỉ có một
công ty bảo hiểm duy nhất triển khai bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, đó
là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Các sản phẩm triển khai thời gian
này còn tương đối đơn giản, phản ánh đúng trình độ và khả năng của thị
trường ở giai đoạn đầu. Số lượng hợp đồng khai thác được tăng khá
nhanh, cho thấy tiềm năng đầy hứa hẹn của thị trường Việt Nam.
- Giai đoạn 2 (tháng 6/1999 – năm 2003): Đây là giai đoạn phát
triển mạnh mẽ nhất của thị trường bảo hiểm Việt Nam với sự tham gia
của ba công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn đầu tư nước ngoài, đó là các
công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ Prudential,
Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA và Công ty
trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Manulife và 01 công ty liên doanh với
nước ngoài là Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Baominh-CMG
Các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài mới vào Việt Nam và tập
trung đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm mới, thu hót nhiều sự quan
tâm của người tiêu dùng. Kể từ đây, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có
những bước tiến nhanh chóng và vững chắc, quy mô thị trường bảo hiểm
nhân thọ được mở rộng từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và
đời sống nhân dân. Theo đó, trình độ nhận thức và hiểu biết của khách
hàng về bảo hiểm nhân thọ đã phát triển một cách rõ rệt. Mô hình tổ chức
ở tất cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã thể hiện tính
chuyên nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao.
1
- Giai đoạn 3 (năm 2004 đến nay): Là giai đoạn thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam dần đi vào ổn định và có dấu hiệu chững lại sau cơn
bão phát triển bảo hiểm nhân thọ ở giai đoạn trên. Cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đã có thêm 03 công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
100% vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép là: Công ty trách nhiệm hữu
hạn Bảo hiểm Prevoir và 02 Công ty là ACE Life và New York Life
International.

Nói tóm lại, trải qua 10 năm hoạt động, thị trường bảo hiểm nhân thọ
Việt Nam qua các giai đoạn phát triển đã đạt được tốc độ tăng trưởng
tương đối mạnh mẽ và thị trường vẫn đang hứa hẹn nhiều tiềm năng to
lớn đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ với các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia thị trường.
1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân
Bảo hiểm nhân thọ ra đời đã có những đóng góp quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân, có thể thấy rõ một số vai trò quan trọng của bảo
hiểm nhân thọ dưới đây:
- Góp phần ổn định cuộc sống của con người, kinh tế xã hội:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ổn định tài chính,
khắc phục hậu quả rủi ro xảy ra có thể mang đến những thiệt hại bất
thường đối với tính mạng của con người, giúp khách hàng nhanh chóng
khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống đồng thời cũng giúp cho khách hàng
thực hiện tiết kiệm dài hạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra,
tạo lập một cuộc sống đầy đủ về tài chính, hạnh phóc.
- Tạo việc làm cho xã hội:
Bên cạnh ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm nhân thọ trong xã hội hiện
đại, ngành bảo hiểm nhân thọ đã thu hót hơn 100.000 lao động làm việc
tại các doanh nghiệp bảo hiểm, mạng lưới đại lý bảo hiểm, ngoài ra còn
tạo việc làm cho các ngành khác có liên quan như giám định sức khỏe,
công nghệ thông tin, ngân hàng, in Ên, quảng cáo giải quyết tình trạng
thiếu việc làm cũng như các vấn đề xã hội liên quan.
- Tập trung nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Với vai trò là một trung gian tài chính, bảo hiểm nhân thọ đã thực
hiện các hoạt động thu hót, tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư, tạo nên một kênh huy động vốn quan trọng trong nền kinh tế. Tổng
số tiền mà ngành bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế tính đến hết năm
2005 là trên 70 nghìn tỉ đồng. Con số này đã góp phần không nhỏ vào
việc tăng trưởng nền kinh tế nói chung.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng trong xã hội hiện đại ngày nay,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đời sống con
người ngày càng được quan tâm và nâng cao hơn thì bảo hiểm nhân thọ
thực sự đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được tại hầu hết các
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu hoàn
thiện quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
thực sự đóng vai trò rất quan trọng giúp cho hoạt động này ngày càng
phát triển.
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP KINH DOANH
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
2.1. Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo các hình
thức doanh nghiệp nhất định
Ở tất cả các nước trên thế giới, hoạt động bảo hiểm luôn được coi là
một ngành dịch vụ tài chính đặc biệt. Vì vậy, hoạt động bảo hiểm chỉ
được giới hạn trong các công ty có cơ chế giám sát chặt chẽ, hiệu quả, có
chế độ trách nhiệm tài sản rõ ràng và tính ổn định lâu dài không bị đe
dọa. Ở hầu hết các nước, loại hình công ty bảo hiểm cổ phần là một trong
những loại hình doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về quản trị và
giám sát nên trở thành loại hình doanh nghiệp bảo hiểm phổ biến nhất.
1
Ở Việt Nam, Điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các loại
hình doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm 5 loại: Doanh nghiệp bảo hiểm nhà
nước; công ty cổ phần bảo hiểm; tổ chức bảo hiểm tương hỗ; doanh nghiệp
bảo hiểm liên doanh; doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài.
Do các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm trên đã được quy định khá
cụ thể trong các luật tương ứng và đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ
bản về các loại hình doanh nghiệp này, nhưng đối với loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm tương hỗ thì còn quá mới mẻ, chưa từng được vận dụng,
chưa có khuôn mẫu thực tiễn, vì vậy phần viết này tác giả chủ yếu trình

bày một số nét cơ bản của tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
2.2. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình kinh doanh có điều kiện
2.2.1. Chỉ được kinh doanh khi có Giấy phép
Kinh doanh bảo hiểm là một dịch vụ tài chính hết sức phức tạp, liên
quan đến mọi hoạt động của đời sống xã hội và mang tính đặc thù. Chính
vì vậy ở tất cả các nước kể cả các nước có nền kinh tế tự do như các
nước Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ, bảo hiểm là hoạt động được kiểm soát
hết sức chặt chẽ, muốn kinh doanh bảo hiểm doanh nghiệp phải được cấp
phép, việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm được tiến
hành theo một trình tự thủ tục hết sức chặt chẽ. Điều 62 Luật kinh doanh
bảo hiểm quy định "thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động
cho doanh nghiệp bảo hiểm" là của Bộ Tài chính.
2.2.2. Phải có đủ vốn pháp định
Để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, doanh nghiệp bảo
hiểm phải chứng minh được năng lực tài chính của mình bằng việc phải đáp
ứng điều kiện có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định
theo quy định của Chính phủ (khoản 1 Điều 63 Luật kinh doanh bảo hiểm).
2.2.3. Kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm theo giấy phép
Do sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dễ bắt chước, nhưng nếu
không tính toán kỹ và khoa học, mở rộng phạm vi bảo hiểm, hạ phí để
cạnh tranh bằng mọi giá sẽ dẫn đến khả năng doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán, vì vậy pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã quy định rõ:
"Các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được kinh doanh các loại sản phÈm bảo
hiểm quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động, theo quy tắc, điều
khoản, biểu phí bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đăng ký với Bộ
Tài chính hoặc được Bộ Tài chính phê chuẩn, ban hành" (khoản 2 Điều 5
Nghị định 42/CP).
2.2.4. Có loại hình doanh nghiệp bảo hiểm thích hợp
Khoản 3 điều 63 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: Có loại hình
doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngoài ra, việc kinh doanh bảo hiểm phải do "doanh nghiệp bảo hiểm
được thành lập và hoạt động theo Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan" (Điều 58 Luật kinh doanh bảo hiểm).
2.2.5. Doanh nghiệp chỉ được cấp phép khi người lãnh đạo đủ năng
lực chuyên môn
Trong bảo hiểm khi yếu tố tin tưởng giữa bên bán bảo hiểm và bên
mua bảo hiểm được coi là một trong những yếu tố cấu thành hợp đồng
bảo hiểm thì luật pháp ở hầu khắp các nước đều có các quy định về năng
lực cũng như đạo đức của người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp là
Chủ tịch và Giám đốc (Tổng Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm đó.
Doanh nghiệp sẽ không được cấp phép hoạt động nếu không đáp ứng tiêu
chí trên.
2.2.6. Tái bảo hiểm
Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, có thể cá nhân, tổ chức tham gia bảo
hiểm mới đóng phí bảo hiểm thì đã bị xảy ra tai nạn, do đó mặc dù doanh
nghiệp bảo hiểm mới chỉ được nhận một khoản phí bảo hiểm nhỏ ban
đầu mà người tham gia bảo hiểm đóng (so với trách nhiệm được bảo
hiểm) thì đã phải bồi thường một số tiền lớn. Vì vậy, doanh nghiệp bảo
hiểm sau khi đã nhận bảo hiểm phải phân tán rủi ro đã nhận bảo hiểm
1
cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác, đề phòng khi tổn thất lớn xảy ra đã
có các doanh nghiệp này cùng gánh vác, đủ khả năng tài chính bồi
thường cho những người được bảo hiểm. Đây chính là hình thức tái bảo
hiểm.
2.3. Tài chính doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là có
thể doanh nghiệp bảo hiểm vừa thu phí bảo hiểm thì đã phát sinh ngay
trách nhiệm bồi thường. Do vậy, để đảm bảo hoạt động lành mạnh của
các doanh nghiệp trên thị trường, yêu cầu về mặt tài chính của doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của

doanh nghiệp nói riêng và thị trường bảo hiểm nói chung.
2.4. Trung gian bảo hiểm nhân thọ
Để sản phẩm bảo hiểm đến được với các tổ chức và mọi tầng líp dân
cư, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần phải có một đội ngò những
người hỗ trợ bán bảo hiểm, đội ngò đó chính là đại lý bảo hiểm và doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam mới chỉ có sự tham gia
của đại lý bảo hiểm, còn các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Do vậy, ở phần này, tác
giả chỉ nêu về vai trò của đại lý bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ.
2.5. Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Nhằm hạn chế những ảnh hưởng bất lợi của tình trạng phá sản doanh
nghiệp bảo hiểm, theo Luật kinh doanh bảo hiểm, nếu một doanh nghiệp
bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán, giải thể, sáp nhập thì
phải chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số
nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp khác. Nếu hai bên không thỏa
thuận được, Bộ Tài chính sẽ đứng ra chỉ định doanh nghiệp bảo hiểm
nhận chuyển giao. Khi đó quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng bảo hiểm của
khách hàng không thay đổi.
Tóm lại, qua phân tích những quy định pháp luật điều chỉnh hoạt
động bảo hiểm nhân thọ ở chương 2, có thể thấy rằng hệ thống pháp
luật về lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ đã được Nhà nước luôn quan tâm
xem xét bằng việc ban hành mới các quy định pháp luật bổ sung, tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
phát triển nghiệp vụ này. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động kinh
doanh cho thấy, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật trong kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ ở nước ta vẫn còn đặt ra một số vấn đề cần
quan tâm giải quyết. Vấn đề này tác giả xin được trình bày ở chương 3
của luận văn

Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Một số nhận xét về pháp luật đối với doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ
Vào những thời kỳ khác nhau, Nhà nước đã ban hành các văn bản
pháp luật phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy kinh
tế phát triển, ổn định đời sống và sản xuất. Nghị định 100/CP ngày
18/12/1993 ra đời đã đánh dấu một bước chuyển lớn của hoạt động bảo
hiểm Việt Nam trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp bảo
hiểm, làm tiền đề cho sù ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. Luật
kinh doanh bảo hiểm năm 2000 có hiệu lực thi hành thay thế cho Nghị
định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm đã tiếp tục hoàn thiện các quy định
pháp lý về bảo hiểm.
Từ chỗ chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ duy nhất trên thị
trường là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), thì tới nay đã có
08 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
1
Từ khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ đã nhận được sự quan tâm, tạo môi trường pháp luật thuận lợi
từ phía Nhà nước để phát triển. Các quy định của pháp luật về lĩnh vực
này dần được xây dựng và sửa đổi, bổ sung từng bước cho phù hợp hơn
với thực tiễn đã tạo những điều kiện cần thiết cho hoạt động bảo hiểm
nhân thọ phát triển.
Tuy nhiên, cũng do bản thân nghiệp vụ còn mới mẻ, nên trong quy
định pháp luật về loại hình doanh nghiệp, về hoạt động kinh doanh còn
bất cập, có thể kể đến một số nội dung sau:
* Sự khập khiễng và không sát với thực tiễn trong các quy định pháp
luật về tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm: Theo quy định của Điều 10 Nghị
định 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm thì các Tổng Công ty

nhà nước được tổ chức và hoạt động dưới các hình thức: Văn phòng trụ
sở chính của Tổng Công ty; Văn phòng trụ sở chính của các đơn vị thành
viên; Văn phòng đại diện
Cũng tại khoản 2 Điều 10 của Nghị định này thì đối với các doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nước khác, công ty cổ phần bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được tổ chức và hoạt động
dưới các hình thức: Văn phòng trụ sở chính công ty; Chi nhánh; Văn
phòng đại diện.
Nhưng không có bất kỳ một văn bản nào của Nhà nước quy định về
thủ tục thành lập và cấp phép khi các Tổng Công ty nhà nước mở các
đơn vị thành viên và phải cần những thủ tục pháp lý gì. Trong khi đó
Điều 11 Nghị định 42 lại quy định rất chi tiết về việc mở Chi nhánh của
doanh nghiệp bảo hiểm (doanh nghiệp nhà nước khác, công ty cổ phần
và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài).
Như đã nêu ở trên, cùng là một đối tượng như nhau, nhưng quy định
về các đơn vị thành viên của Tổng công ty và Chi nhánh của doanh
nghiệp bảo hiểm lại được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác
nhau và các đối tượng này phải hành xử khác nhau mặc dù có thể không
có sự ưu ái khác nhau từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc Nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng như
Luật đầu tư mới thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật
khuyến khích đầu tư trong nước đã bộc lé những điểm mà thực tiễn tổ
chức các doanh nghiệp phải thay đổi cho phù hợp với quy định của luật.
* Trong thực tế áp dụng, còn tồn tại một số quy định pháp luật chưa
thật phù hợp với các nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Thứ nhất: Quy định về việc thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ,
theo quy định của Luật thì trường hợp người được bảo hiểm khai nhầm
tuổi mà theo tuổi đúng, người đó không được nhận bảo hiểm thì doanh
nghiệp có quyền hủy hợp đồng và trả lại cho bên mua bảo hiểm số phí
bảo hiểm đã đóng nếu hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 2 năm, và trả giá trị

hoàn lại của hợp đồng nếu hợp đồng có hiệu lực 2 năm trở lên.
Quy định trên đã bộc lé những điểm bất hợp lý, vì giá trị hoàn lại
của hợp đồng trong nhiều trường hợp (đặc biệt ở những năm đầu) thấp
hơn đáng kể so với số phí bảo hiểm đã đóng, vì vậy khách hàng đã mua
bảo hiểm thời hạn càng dài lại có nguy cơ thiệt thòi hơn so với khách
hàng mới mua bảo hiểm.
Thứ hai: Quy định tại khoản 2, Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm
đưa ra chế tài đối với bên mua bảo hiểm có hành vi thông báo sai tuổi
của người được bảo hiểm là "hủy bỏ hợp đồng" nhưng lại áp dụng hai
hậu quả pháp lý (như đã nêu ở trên) hoàn toàn khác nhau và không đúng
với bản chất của hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 425 Bộ luật
dân sự sửa đổi năm 2005. Về nguyên tắc, hậu quả pháp lý của hợp đồng
bị hủy bỏ cũng giống như hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, nếu
quy định khách hàng phải chịu hậu quả pháp lý - nhận giá trị giải ước khi
hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên là không đúng với bản chất của
hợp đồng bị hủy bỏ được quy định tại Bộ luật dân sù.
1
* Cần có hướng dẫn và quy định cụ thể về vấn đề nghĩa vụ cung cấp
thông tin và giải thích hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
khi giao kết hợp đồng (quy định tại Điều 17 khoản 2(a); Điều 19 Luật
kinh doanh bảo hiểm, để tránh trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng
quy định này để lẩn tránh nghĩa vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể
chứng minh ngược lại được.
* Một số nội dung cần thiết được pháp luật quy định nhưng lại chưa
xuất hiện trong các văn bản pháp luật tại Việt Nam.
Chẳng hạn, quy định về thời gian tù do xem xét. Pháp luật Việt Nam
không hề có một quy định nào về nội dung này. Kết quả là các doanh
nghiệp áp dụng các thời hạn khác nhau (14 ngày và 21 ngày).
* Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này, chưa có quy định pháp lý về
việc sử dụng các thuật ngữ bảo hiểm mặc dù đây là những thuật ngữ

phức tạp, rất khó hiểu đối với đa số người mua bảo hiểm.
* Mét lĩnh vực còn thiếu những quy định pháp luật cụ thể là việc bảo
vệ quyền lợi của khách hàng khi công ty bảo hiểm quyết định chấm dứt
hoạt động trên thị trường hoặc công ty bảo hiểm bị rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán.
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ
Từ những vấn đề vướng mắc nêu trên, tác giả xin được kiến nghị
một số giải pháp sau:
Những điểm cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật:
* Việc ban hành các văn bản pháp lý, tạo dựng môi trường kinh doanh
bình đẳng cho các doanh nghiệp bảo hiểm là hết sức cần thiết nhất trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và trong bối cảnh cần xây dựng một thị trường
bảo hiểm lành mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, Nhà nước cần
ban hành các văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh các hoạt động của
chi nhánh các doanh nghiệp bảo hiểm mà không có sự phân biệt đã là chi
nhánh của công ty nhà nước hay cổ phần hay 100% vốn nước ngoài.
Nhà nước cũng cần sớm có quy định cho phép các công ty trách
nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì các công
ty trách nhiệm hữu hạn không được kinh doanh bảo hiểm, nhưng trước
đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn tại Việt Nam. Điều
này dẫn tới việc đã có 6 công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài
dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn đang hoạt động tại Việt Nam.
Hiện nay, khi Luật đầu tư nước ngoài được thay thế bằng Luật Đầu tư
năm 2005 thì có sự vênh nhau giữa các quy định pháp luật. Vì vậy, Nhà
nước cần sớm có quy định về vấn đề này.
Tương tự như vậy, trước đây theo Luật đầu tư nước ngoài thì liên
doanh là một loại hình doanh nghiệp giữa bên Việt Nam và bên nước

ngoài (hoặc các bên nước ngoài). Vì vậy, trong lĩnh vực bảo hiểm nhân
thọ cũng có một công ty bảo hiểm liên doanh. Hiện nay, theo Luật đầu tư
năm 2005 thì liên doanh là hình thức đầu tư chứ không còn là loại hình
doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tổ chức và hoạt động theo Luật
doanh nghiệp thì việc tổ chức lại các công ty này như thế nào, khả năng
duy nhất là theo hình thức cổ phần, nhưng phải có hướng dẫn của Nhà nước.
* Như đã nêu ở trên, trong thực tế áp dụng, còn tồn tại một số quy
định pháp luật chưa thật phù hợp với các nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ:
- Quy định bất hợp lý có liên quan đến việc giải quyết trường hợp kê
khai nhầm tuổi của người được bảo hiểm. Quy định này được xây dựng
rõ ràng là thiếu sự tham khảo cần thiết về đặc trưng của các sản phẩm
bảo hiểm nhân thọ. Người phải chịu thiệt thòi trước nhất khi áp dụng quy
định này chính là khách hàng mua bảo hiểm (bên mua bảo hiểm). Vì vậy,
việc sửa đổi quy định pháp luật này là rất cần thiết, góp phần thể hiện rõ
tinh thần của pháp luật là trước hết và trên hết bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng.
1
- Để các doanh nghiệp và cơ quan tố tụng không bị lúng túng trong
cách giải quyết khi "bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được
bảo hiểm" thì quy định về việc đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và
tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong Luật kinh doanh bảo hiểm cần được rà
soát lại nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định được rõ ràng và chính xác.
* Về nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải thích hợp đồng bảo hiểm.
Pháp luật qui định khi giao kết hợp đồng các bên phải cung cấp
thông tin cho nhau liên quan đến các nội dung, yêu cầu của hợp đồng bảo
hiểm, giao kết, khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm và hậu quả pháp lý
trong trường hợp các bên không thực hiện các nghĩa vụ này. Tuy nhiên,
khi áp dụng các quy định này trong thực tiễn thì đòi hỏi phải có hướng
dẫn giải thích rõ hơn về:

+ Các trường hợp nào thì coi là doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung
cấp sai thông tin nhằm giao kết hợp đồng?
+ Các thông tin này là những thông tin gì?
Như vậy, vấn đề này cần có hướng dẫn và quy định cụ thể (hoặc cho
phép các bên tù thỏa thuận) về thời điểm hoặc khoảng thời gian cụ thể để
các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ này; nếu quá thời điểm đó mà
các bên không thực hiện thì coi như mặc nhiên không có tranh chấp về
vấn đề này. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của
doanh nghiệp bảo hiểm, tránh trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dông
quy định này để lẩn tránh nghĩa vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể
chứng minh ngược lại được.
* Để hướng tới một thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển bền
vững và tăng trưởng trong tương lai, có những quy định mang tính
nghiệp vụ cao nên được quan tâm, bổ sung, đó là:
- Quy định về thời gian tù do xem xét. Quy định này chính là việc tạo
điều kiện cho người mua bảo hiểm có một khoảng thời gian nhất định để
xem xét lại hợp đồng sau khi ký kết, xem hợp đồng đã được phát hành có
đúng với khả năng tài chính, mong muốn và dự kiến của mình hay
không. Tuy nhiên, thời hạn này cũng phải đảm bảo không quá dài để có
thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm, không đưa doanh nghiệp
vào tình thế bất lợi vì bị khách hàng lợi dụng. Trên cơ sở cân nhắc tất cả
các yếu tố này, các doanh nghiệp bảo hiểm trên khắp thế giới đã cùng
nhau lùa chọn và hầu hết đều chọn khoảng thời gian 14 ngày kể từ ngày
hợp đồng phát sinh hiệu lực. Các nhà lập pháp ở các quốc gia cũng nhận
thấy tính hợp lý của thời hạn này, do vậy, pháp luật các nước đều ghi nhận
nội dung tương tự.
* Do người tiêu dùng cá nhân còn rất thiếu kinh nghiệm sử dụng bảo
hiểm, vì vậy thực tế kinh doanh cho thấy, khách hàng thường không hiểu
rõ hết về điều khoản bảo hiểm do có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn
khó hiểu.

Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm cần ban hành quy
định chuẩn hóa các thuật ngữ phù hợp để các công ty bảo hiểm cùng áp
dụng, giúp khách hàng có thể hiểu rõ ràng ý nghĩa của các điều khoản và
điều kiện bảo hiểm, tránh việc hiểu sai, hiểu lầm trong tương lai.
* Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên
mất khả năng thanh toán cần được pháp luật quy định chi tiết và cụ thể
hơn. Vì công ty bảo hiểm không giống như bất kỳ công ty nào khác,
quyền lợi của người mua bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ. Nếu áp
dụng thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên nhận
thanh toán có thể không đảm bảo được quyền lợi của người mua bảo
hiểm. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp là cần phải rà soát
kỹ các văn bản pháp lý có liên quan để đảm bảo các nguyên tắc của Luật
phá sản doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của người
mua bảo hiểm vẫn được bảo vệ tối đa.
Bên cạnh các quy định pháp luật cần được sửa đổi bổ sung như đã
nêu ở trên, tác giả xin kiến nghị thêm một số vấn đề sau mà các nhà làm
luật cần nghiên cứu quan tâm, xem xét:
1
* Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để cho vay phù hợp với Luật các tổ
chức tín dụng. Nhưng hiện tại, Chính phủ chưa có nghị định hướng dẫn
về việc này, do đó các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chưa có một
hành lang pháp lý rõ ràng để tiến hành đầu tư.
- Đối với ngành bảo hiểm, thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò
là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò là nơi đầu tư nhàn rỗi của các
doanh nghiệp bảo hiểm. Cho đến nay, một phần do các hạn chế của quy
định pháp luật, một phần do sự hạn chế về khả năng tài chính cũng như
sự minh bạch của tình hình tài chính doanh nghiệp nên chưa có một
doanh nghiệp bảo hiểm nào được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp phải nghiên cứu, cải thiện

các quy định pháp lý nhằm trợ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào thị
trường chứng khoán được thuận lợi, biến thị trường chứng khoán thành
nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty bảo hiểm.
- Hiện tượng đặt ra mối quan ngại chung cho các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ là hiện nay, theo đà phát triển của lĩnh vực kinh
doanh này, hiện tượng khách hàng có hành vi lừa dối trong giao kết hợp
đồng bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm diễn ra ngày càng phổ
biến. Để ngăn chặn, hạn chế các hành vi trục lợi bảo hiểm của khách hàng
và sự thông đồng của cán bộ bảo hiểm, Nhà nước cần đề ra những biện
pháp, chế tài đủ mạnh mới có ý nghĩa răn đe, đảm bảo được sự công
bằng.
Tóm lại, bên cạnh những mặt tích cực, còn tồn tại một số quy định
pháp luật bất cập cần được rà soát điều chỉnh, bổ sung để pháp luật thực
sự đóng vai trò hữu hiệu, giúp cho hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ phát triển.
KẾT LUẬN
Bảo hiểm nhân thọ ra đời xuất phát từ nhu cầu trong cuộc sống,
việc ra đời của bảo hiểm nhân thọ đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong
việc thực hiện và giải quyết các nhu cầu tài chính liên quan tới con
người. Ở Việt Nam, sù ra đời, phát triển của bảo hiểm nhân thọ gắn liền
với những thay đổi của đất nước, bảo hiểm nhân thọ mới đi vào hoạt
động được 10 năm sau thời kỳ đổi mới kinh tế và nghiệp vụ này đến nay
có thể nói vẫn còn là mới mẻ, nhưng cũng rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn ở
Việt Nam. Trong hơn mười năm vừa qua, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ đã tạo được việc làm cho hơn 100.000 lao động, đóng góp cho
ngân sách hàng năm khá cao.
Nghiệp vụ này cũng đã tạo ra một hướng đi mới để phát triển an sinh
xã hội ở nước ta, mang lại sự bảo vệ cho hàng triệu người trước những
rủi ro không mong đợi, nhưng thường là những rủi ro nặng nề nhất mà
cuộc đời một con người phải hứng chịu, đó là chết và thương tật. Đồng

thời, bảo hiểm nhân thọ góp thêm một tiếng nói để mở rộng các hình
thức dịch vụ tài chính, huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu
tư trở lại cho nền kinh tế, thúc đẩy giao lưu tài chính và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Do đặc
trưng nghiệp vụ của mình, bảo hiểm nhân thọ còn tạo thêm cơ hội để thúc
đẩy phát triển công nghệ, kỹ thuật cao trong nước.
Chính vì có ý nghĩa trên nhiều mặt như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang
được Nhà nước ta quan tâm đầu tư phát triển bằng nhiều biện pháp, trong
đó là việc tạo cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia vào thị
trường có một hành lang pháp lý thông thoáng để phát triển hoạt động
kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm đã
nhận được sự quan tâm từ phía Nhà nước bằng việc Nhà nước ta đã lần
lượt ban hành bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật phù hợp điều
chỉnh lĩnh vực hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực
cũng còn tồn tại một số quy định pháp luật bất cập gây khó khăn cho các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong quá trình hoạt động và gây thắc
1
mắc trong khách hàng khi tham gia bảo hiểm, điều này cũng sẽ ảnh
hưởng tới kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Chính vì vậy, cần quan tâm đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý
cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phát triển, cụ thể là:
- Bổ sung quy định pháp luật về loại hình doanh nghiệp bảo hiểm
được phép kinh doanh trên thị trường, sửa đổi những nguyên tắc nghiệp
vụ bảo hiểm nhân thọ chưa phù hợp trong thực tiễn kinh doanh, để pháp
luật thực sự đáp ứng đúng những nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội phát
sinh trong cuộc sống;
- Bổ sung một số quy định pháp luật còn thiếu trên cơ sở tham khảo
kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần nâng cao hiệu quả tác
động của pháp luật;
- Củng cố và đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước về bảo hiểm

nhân thọ trên nhiều mặt, để hoạt động bảo hiểm nhân thọ hoạt động theo
đúng định hướng của Nhà nước, mang lại lợi Ých thiết thực cho mỗi
khách hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế - xã hội đất nước; đồng thời
đấu tranh kiên quyết và không khoan nhượng với các biểu hiện vi phạm
pháp luật, lừa dối khách hàng hoặc trục lợi bảo hiểm để hoạt động bảo
hiểm nhân thọ phát triển lành mạnh và vững chắc về chất;
- Tăng cường việc đào tạo đội ngò cán bộ làm công tác quản lý cho
ngành để đảm bảo hiệu quả quản lý trước mắt cũng như về lâu về dài.
Đồng thời, cần có sự quan tâm thích đáng đến việc tuyên truyền, giáo
dục người dân những kiến thức chung về bảo hiểm nhân thọ, nâng dần
mặt bằng hiểu biết xã hội về nghiệp vụ này nhằm phát triển bảo hiểm
nhân thọ trên diện rộng cũng như tăng cường sự quan tâm chung đến các
bảo đảm an toàn xã hội.
Đi lên cùng với sự phát triển toàn diện mọi mặt nền kinh tế - xã hội
đất nước, vấn đề tăng cường an sinh xã hội đang ngày càng thu hót được
sự quan tâm sâu sắc và rộng khắp của cả Nhà nước cũng như mỗi người
dân. Đó chính là cơ hội và là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, sự phát triển này sẽ mang lại những
hiệu quả thiết thực cho đời sống của người dân và sự phát triển của đất nước.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thời cơ và
những thách thức mới đang mở ra. Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm Nhà
nước ta cần phải rà soát lại các quy định pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ để các quy định này phù hợp với pháp luật quốc tế, tạo đà cho
sự phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ.
1

×