Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tìm hiểu và đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 85 trang )

1 | P a g e
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế truyền thống mũi nhọn, có thế
mạnh của các tỉnh có vùng ven biển và đầm phá ở nước ta. Sự phát triển mạnh
ngành NTTS đã góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Song song với những lợi ích của các hoạt động NTTS mang đến, nó còn để lại
những ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên và môi trường vùng ven biển, vùng
biển.
Việt Nam là nước có tiềm năng về thủy sản. Với điều kiện thiên nhiên
thuận lợi, nước ta có chiều dài đường bờ biển khá lớn 3200 km, cùng với các
yếu tố nhiệt độ, môi trường, nguồn thức ăn là điều kiện lý tưởng để đầu tư
phát triển kinh tế thủy sản. Đặc biệt, tỉnh Thừa Thiên Huế là tỉnh có đường bờ
biển dài 126 km và hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai lớn nhất Đông Nam Á
với diện tích là 21.594 ha, là nơi có điều kiện khá lý tưởng cho sự sinh trưởng
các loài thủy sản có giá trị cao, đặc biệt là tôm.
Huyện Quảng Điền là huyện trọng điểm của vùng ven biển đầm phá TTH,
có tiềm năng lớn về NTTS, chủ yếu là nuôi tôm. Trong đó, xã Quảng Công là
một trong những xã có nghề nuôi tôm phát triển sớm nhất ở huyện Quảng
2 | P a g e
Điền với nhiều hình thức nuôi tôm nhất ở huyện: QCCT, BTC, TC. Sự phát
triển ngành nuôi tôm ở xã Quảng Công góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo
công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người dân địa phương.
Các mô hình nuôi trồng thuỷ sản nói chung, nuôi tôm nói riêng đã phát
triển rất nhanh cùng với quá trình phát triển của ngành. Phương thức nuôi
trồng đã chuyển từ nuôi tự nhiên, quảng canh, nuôi phân tán với mật độ
thấp sang nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi công nghiệp với mật độ cao,
nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu. Tuy nhiên, việc nuôi trồng thủy sản với mật độ cao, năng suất lớn, đã
gây nên những tác động môi trường ngày càng nghiêm trọng, nếu không được


xử lý triệt để có thể gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên và ảnh
hưởng đến việc nuôi trồng thủy sản.
Để thực hiện Quyết định 1690/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát
triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 và Nghị định số 109/2003/NĐ-CP
ngày 23/9/2003 của Chính Phủ về Bảo tồn và Phát triển bền vững của các
vùng đất ngập nước, chúng ta cần nghiên cứu đánh giá tính bền vững các hình
thức NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng phù hợp với đặc tính sinh thái
của từng địa phương.
Đối với ngành Thủy sản, việc xây dựng Bộ chỉ thị đã được FAO thực hiện
từ lâu với mục đích là hướng đến các vùng nuôi bền vững. Nhưng việc xây
3 | P a g e
dựng Bộ chỉ thị để đánh giá các hình thức nuôi ở từng địa phương vẫn chưa
nhận được sự quan tâm cần thiết.
Dựa vào tính cấp thiết đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên
cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng
Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
1.2 Mục tiêu.
1.2.1 Mục tiêu chung
Nhằm nâng cao nhận thức cho ngư dân và cộng đồng trong việc sử dụng
các hình thức nuôi tôm hợp lý nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ
tốt hơn về vấn đề môi trường trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Bước đầu xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm.
- Đánh giá các ảnh hưởng của các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công
đến môi trường.
- Lựa chọn mô hình và hình thức nuôi tôm phù hợp.
4 | P a g e
- Đề xuất các biện pháp bảo vệ môi trường và quản lý để phát triển nghề
nuôi tôm ở xã Quảng Công.
5 | P a g e

PHẦN II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU, CÁCH TIẾP CẬN,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế với các hình thức nuôi: Thâm canh,
bán thâm canh, quảng canh cải tiến.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Phạm vi thời gian: từ ngày 1/12/2009 đến ngày 1/12/2010.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành ngành nghiên cứu việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá
các hình thức nuôi tôm của một số hộ dân ở thôn 1, 2, 4 ở xã Quảng Công,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
6 | P a g e
Để hoàn thành được đề tài này và đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi
đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
2.3.1. Phương pháp điều tra
2.3.1.1. Thu thập số liệu:
Các số liệu thu thập được từ những tác giả đi trước, cũng như việc thu thập
các tài liệu, số liệu ở các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thủy sản Thừa
Thiên Huế, Phòng thống kê của Cục thống kê thành phố Huế, Phòng Nông
nghiệp huyện Quảng Điền,… của các đề tài, dự án, các trang web, các báo
cáo, các quy định, chỉ thị, tạp chí, báo chí,…
2.3.1.2. Điều tra phỏng vấn và trả lời câu hỏi bằng phiếu điều tra
Người trả lời câu hỏi sẽ trả lời vào phiếu điều tra về 4 lĩnh vực: về QMHN,
LP-TC, MT-ST, KT-XH. Chúng tôi chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 2 người đã

trực tiếp điều tra ở 21 hộ nuôi tôm tại các thôn: 1, 2, 4.
2.3.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp này nhằm mục đích kiểm nghiệm lại việc xây dựng các
nhóm chỉ thị đã phù hợp chưa, nếu chưa thì chỉnh sửa hoàn thiện hơn để Bộ
chỉ thị được xây dựng đảm bảo tính đại diện cho địa phương.
2.3.3. Phương pháp thống kê
7 | P a g e
Các số liệu thu thập đều ở dạng rời rạc, do vậy, cần được chọn lọc, thống
kê, xâu chuỗi thành một thể thống nhất ngắn gọn nhưng mà phản ánh đầy đủ
các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Chúng tôi đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2003 và phương pháp
thống kê toán học để xử lý số liệu sau khi thu thập được.
2.3.4. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã trao đổi thông tin, hỏi ý kiến
các cán bộ có trình độ chuyên môn về nuôi tôm, môi trường, cán bộ và người
dân nuôi tôm ở xã Quảng Công, Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Điền.
Nhằm để xác định các nhóm chỉ thị, các tham số nào cần được xây dựng và
xem xét tầm quan trọng của từng chỉ thị để cho điểm chính xác hơn.
2.3.5. Phương pháp so sánh
Các chỉ thị sau khi được xây dựng xong, điều tra, cho điểm, tính điểm cần
phải so sánh giữa kết quả lý thuyết với thực tế nhằm điều chỉnh lại các tham
số, quy trình xây dựng. Sau đó, đánh giá hình thức nào là bền vững và ở địa
phương nào nên áp dụng hình thức phù hợp để cho kết quả tốt.
8 | P a g e
PHẦN III
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lý luận
3.1.1. Theo tổ chức FAO
Theo tổ chức FAO (Tổ chức Nông Lương Thế Giới), sự PTBV trong
NTTS: “là sự quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và sự định hướng về

những thay đổi công nghệ và thể chế theo hướng đảm bảo sự đáp ứng các nhu
cầu cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển như vậy đòi hỏi phải bảo
vệ đất, nước, các nguồn gen động vật và thực vật, không làm suy thoái môi
trường, phải phù hợp về mặt kỹ thuật, vững chắc về mặt kinh tế và được chấp
nhận về mặt xã hội ”.
Để thực hiện những vấn đề trên, FAO đã đưa ra mục tiêu PTBV trong
NTTS:
Mục tiêu 1: Sử dụng đất và nước thích hợp trong NTTS bền vững.
Mục tiêu 2: Bảo tồn các chức năng của các hệ sinh thái quan trọng và
những môi trường nước nhạy cảm.
Mục tiêu 3: Quản lý tốt các nguồn tài nguyên đất và cải tạo đất nhằm giảm
thiểu các tác động có hại lên môi trường xung quanh.
9 | P a g e
Mục tiêu 4: Giảm thiểu các tác động có hại lên các nguồn tài nguyên nước
địa phương.
Mục tiêu 5: Tránh việc để các loài nuôi ngoại lai và chuyển ghép gen xâm
nhập vào môi trường xung quanh.
Mục tiêu 6: Quản lý tốt việc sử dụng các loại hóa chất có hại cho sức khỏe
con người và các hệ sinh thái.
Mục tiêu 7: Gia tăng cao nhất hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và
giảm thiểu thấp nhất lượng chất thải được tạo ra.
Mục tiêu 8: Giảm thiểu sự lệ thuộc vào các nguồn giống tự nhiên ở các
trang trại.
Mục tiêu 9: Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho vật nuôi nhằm giảm
thiểu nguy cơ dịch bệnh trong các trang trại (TT) và ngoài tự nhiên.
Mục tiêu 10: Tối ưu hóa các lợi ích KT-XH cho cộng đồng và đất nước.
Mục tiêu 11: Cải tiến các hoạt động ở TT nuôi nhằm giảm thiểu các tác
động lên những đối tượng sản xuất xung quanh.
Mục tiêu 12: Đảm bảo quyền và phúc lợi của nhân công làm việc ở các
trung tâm.

Trong Chương trình Nghị sự 21, tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) đã chỉ ra
rằng, muốn xây dựng các chỉ thị PTBV cần tập trung vào các vấn đề: Kinh tế,
xã hội, môi trường và năng lực thể chế. Đồng thời Uỷ ban LHQ còn kêu gọi
10 | P a g e
mỗi ngành hãy xây cho mình Bộ chỉ thị riêng của ngành đó. Đối với ngành
NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng là cần thiết bởi vì đây là ngành gây ra
nhiều tác động không chỉ cho môi trường mà còn trong lĩnh vực KT-XH.
Trong Hội nghị bàn về các chỉ thị và chỉ tiêu đánh giá sự bền vững trong
NTTS được tổ chức tại Roma-Ý từ ngày 28 đến 30 tháng 4, năm 1998, nhóm
chuyên gia kỹ thuật của FAO cũng đã thống nhất đưa ra 4 nhóm chỉ thị cơ bản
dựa trên 4 nhóm chỉ thị về PTBV được đề xuất bởi Ủy Ban
* Nhóm chỉ thị về luật pháp thể chế
Hội nghị đã thống nhất các chỉ thị về LP-TC là những chỉ thị về áp lực trực
tiếp hoặc gián tiếp, hoặc động lực có tác động đến hệ thống tài nguyên. Ví dụ
như số lượng giấy phép được phát hành để trang trại hoặc hộ nuôi hoạt động,
hoặc là các chỉ thị về đáp ứng phản ánh những hành động của chính quyền
(luật pháp và quy định) hay của ngành (các cam kết và tiêu chí) để giảm thiểu,
loại bỏ hay đền bù về những thiệt hại do sự phát triển và quản lý việc NTTS
gây ra. Nhóm chuyên gia kỹ thuật cũng đã xét đến các khía cạnh khác nhau
của các chỉ thị thuộc nhóm này như: về quy hoạch, về quản lý trang trại,…
* Nhóm chỉ thị về quy mô trang trại (QMTT) hoặc hộ nuôi
Để xem xét đầy đủ các vấn đề liên quan đến QMTT hoặc QMHN là rất
khó khăn bởi việc thu thập số liệu, các thông tin liên quan đến tài chính là khó
thực hiện. Do vậy, Hội nghị đã thống nhất đưa ra những thông tin để mang lại
11 | P a g e
hiệu quả nuôi cho trang trại hoặc hộ nuôi như: thời gian hoạt động, cơ sở hạ
tầng,…
* Nhóm chỉ thị về môi trường
Đây là vấn đề nan giải bởi vì những tác động lên môi trường thường mang
tính tiềm tàng. Khi xây dựng chỉ thị, ta nên hạn chế số lượng các chỉ thị và tập

trung vào những chỉ thị cho thấy sự bền vững của quốc gia hoặc khu vực sinh
thái. Tại Hội nghị đã xem xét và đưa ra các chỉ thị về PTBV trong NTTS liên
quan đến MT-ST là: diện tích ao nuôi, sử dụng nguồn nước và chất lượng
nước, sử dụng hóa chất, giống và thức ăn, dịch bệnh và xử lý dịch bệnh,…
* Nhóm chỉ thị về kinh tế xã hội
Nhóm chuyên gia kỹ thuật của FAO đưa ra chú ý khi xác định các tham số
đặc trưng về nhóm chỉ thị KT-XH là phải đánh giá khả năng tồn tại về mặt
kinh tế cũng như sự chấp nhận của xã hội đối với việc NTTS ở hiện tại và
tương lai.
Tóm lại, các nhóm chỉ thị trên chỉ nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Mỗi
nhóm có thể phù hợp ở một phạm vi nhất định. Các chuyên gia kỹ thuật của
FAO khuyến khích nên phát triển các chỉ thị ở cấp độ càng nhỏ thì sẽ dễ đánh
giá hơn.
3.1.2. Các hình thức nuôi tôm hiện nay [8]
3.1.2.1. Nuôi quảng canh (Extensive culture)
12 | P a g e
Là hình thức nuôi phụ thuộc vào tự nhiên là chính, thông qua việc lấy
nước qua cửa cống và nhốt giữ trong một thời gian nhất định, ít đầu tư chăm
sóc. Mật độ thả giống rất thấp, từ 1-3 con/m
2
. Năng suất bình quân đạt 180
kg/ha/vụ. Ở vùng đầm phá TTH, nuôi tôm cá CS được xem là nuôi QC. Hình
thức này vốn đầu tư phù hợp với dân nghèo nhưng mức độ rủi ro lớn do bị
ảnh hưởng trực tiếp của mưa lụt, nhất là lụt tiểu mãn.
3.1.2.2. Nuôi quảng canh cải tiến (Improve extensive)
Là hình thức nuôi cao hơn của QC. Ở hình thức QCCT, tuy phụ thuộc
nhiều vào tự nhiên, lấy nước theo thủy triều nhưng được đầu tư chủ động
giống, thức ăn ở mật độ nhất định đồng thời có đầu tư biện pháp cải tạo đầm,
diệt trừ các đối tượng dịch hại để tăng tỷ lệ sống và năng suất. Quy mô DT
dưới 2 ha. Mật độ giống thả từ 4-9 con/m

2
. NS đạt từ 300-900 kg/ha/vụ. Mực
nước sâu 1-1,2 m. Ở vùng đầm phá, nuôi ao hạ triều được xem là nuôi QCCT.
Hình thức này phù hợp với vùng có bãi triều rộng hoang hóa, nuôi có hiệu
quả nhưng dễ ô nhiễm môi trường vì không xử lý triệt để đáy, nhất là nếu
nâng cao mật độ thả giống
3.1.2.3. Nuôi bán thâm canh (Semi-intensive)
Là hình thức nuôi bằng giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp là chủ yếu,
đồng thời kết hợp một phần sử dụng thức ăn tự nhiên có trong đầm phá. Hệ
thống ao đầm đã được đầu tư một số cơ sở hạ tầng nhất định (điện, cơ khí,
thủy lợi,…) để chủ động nguồn nước, xử lý và khống chế môi trường như hệ
13 | P a g e
thống máy bơm, máy sục khí. Diện tích ao từ 0,5-1,5 ha, mật độ thả giống từ
10-15 con/m
2
, mực nước từ 1,2-1,4 m. Năng suất đạt từ 1-2 tấn/ha/vụ
3.1.2.4. Nuôi thâm canh hay nuôi công nghiệp (Intensive)
Là hình thức nuôi hoàn toàn bằng giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư
cơ sở hạ tầng đầy đủ để có thể khống chế các yếu tố môi trường, chủ động
được nguồn nước mặn và ngọt. Diện tích ao từ 0,5-1 ha, độ sâu mực nước từ
1,5-2,0 m. Mật độ giống thả từ 16-30 con/m
2
và đạt năng suất từ 2-5
tấn/ha/vụ.
Bảng 3.1: Chỉ tiêu các hình thức nuôi tôm
Chỉ tiêu QC QCCT BTC TC
Cở ao (ha) Không xác
định
1 - 2 0,5 - 1,5 0,5 - 1,0
Mực nước tối

thiểu (m)
Phụ thuộc
thủy triều
1,0 - 1,2 0,12 - 1,4 1,5 - 2,0
Mật độ thả giống
(con/m
2
)
1 - 3 4 - 9 10 - 15 6 - 30
Quạt nước sụt
khí
Không Không Có Có
Thức ăn Tự nhiên Có bổ sung Thức ăn công
nghiệp, một
phần thức ăn tự
Thức ăn
công
nghiệp
14 | P a g e
nhiên
Cung cấp nước Lấy nước
triều qua
cống
Lấy nước
triều qua
cống
Theo yêu cầu
kỹ thuật
Theo yêu
cầu kỹ

thuật
NS (tấn/ha/vụ) 0,05 - 0,3 0,31 - 0,9 1,00 - 2,00 2,00 - 5,00
( Nguồn: Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 12/2008)
3.1.3. Khái niệm về chỉ thị và việc sử dụng chỉ thị hiện nay [3]
3.1.3.1. Khái niệm chỉ thị
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED) cho rằng chỉ thị là một sự
đo lường phản ánh tình trạng các hệ thống xã hội, kinh tế và môi trường theo
thời gian.
Theo Uỷ Ban Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (UNCSD), chỉ thị là
những đơn vị thông tin mô tả tình trạng của các hệ thống, là thước đo tổng
hợp các thông tin liên quan đến một hiện tượng nhất định. Chỉ thị là dụng cụ,
đơn vị đo lường được sử dụng để đánh giá, quan trắc những kết quả đạt được
trong suốt quá trình. Mục đích của nó cho thấy được hoạt động của một hệ
thống tự nhiên, kinh tế, xã hội đang diễn ra theo chiều hướng như thế nào, tốt
hay xấu. Vì vậy, chỉ thị là rất có ích trong việc đánh giá một vấn đề, nó chỉ
phù hợp khi xét trong mối tương quan với các mục đích cụ thể, ví dụ mục
đích là chỉ thị môi trường. Nó nhằm:
* Cung cấp thông tin cho sự đánh giá
15 | P a g e
Nó cung cấp thông tin đến các nhà hoach định chính sách và công chúng,
đối với mỗi nhóm đối tượng thì chỉ thị sẽ cung cấp sẽ khác nhau.
Đối với các nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý môi trường, chỉ thị
cung cấp thông tin về hiện trạng môi trường đang diễn ra và nhận định hiện
trạng đó dựa trên xây dựng chỉ thị về môi trường đất, không khí, nước,… rồi
đánh giá xem nó đang ở mức độ ô nhiễm nào, hay suy thoái. Tiếp đến, dự
báo những diễn biến có thể xảy ra ở mức nào nếu ta tiếp tục gây ra tác động,
hoặc hạn chế gây tác động. Sau đó, họ sẽ đưa ra những biện pháp, chính sách
trước mắt và lâu dài để làm giảm những vấn đề môi trường và dự đoán những
kết quả đạt được khi thực hiện việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Rồi so sánh
các chiến lược, chính sách với các địa phương tốt hơn để rút ra bài học kinh

nghiệm. Để đạt mục tiêu, ta phải đưa ra những chỉ thị đơn giản, phù hợp với
thực tế từng địa phương.
* Phục vụ hoạch định chính sách
Đó là việc đặt ra mục tiêu và chỉ tiêu nhằm phục vụ việc xây dựng chiến
lược thực hiện và đánh giá chính sách. Trong giai đoạn này, các chỉ thị được
xây dựng cần được lựa chọn sao cho thực thi và đánh giá tốt các chính sách
đã đề ra.
* Đối với cộng đồng
16 | P a g e
Các chỉ thị đưa ra nhằm mục đích là thông tin môi trường dựa vào các
chiến dịch, nhờ đó mà thay đổi nhận thức của con người và sự tham gia nhiệt
tình trong việc BVMT tốt hơn. Đó là các chỉ thị liên quan đến sức khỏe người
dân, việc gây suy thoái môi trường làm cho họ mất đi kế sinh nhai,…
3.1.3.2. Các tiêu chí dùng để chọn lựa các chỉ thị [3]
Để nhằm mang lại hiệu quả cho việc chọn lựa các chỉ thị, Anderson (1991)
và Lê Thạc Cán (2005) đã đưa ra các tiêu chí như sau:
1.Tính phù hợp với chính sách: được kiểm nghiệm qua việc xem xét tham
khảo các văn bản chính sách, các kế hoạch, luật định
2. Khả năng giám sát tiến độ so với mục tiêu đề ra: được kiểm nghiệm
thông qua các thông tin trong các văn bản chính sách.
3. Mức độ bao phủ về mặt không gian và thời gian: nhất quán về không
gian và xem xét đến địa phương phù hợp đối với một vấn đề môi trường nhất
định. Chỉ thị bao phủ một khoảng thời gian đủ để có thể cho thấy xu hướng
theo thời gian.
4. Mức độ phù hợp với cấp sử dụng chỉ thị (quốc gia/tỉnh) và mang tính
đại diện cho các địa phương nhằm hỗ trợ việc so sánh.
5. Phù hợp với việc so sánh: ví dụ như so sánh giữa các huyện trong một
tỉnh. Khi so sánh nếu một huyện vượt trội huyện khác về điểm số thì chứng tỏ
có thể học được một số điều từ huyện này.
17 | P a g e

6. Đơn giản và dễ hiểu nhờ: định nghĩa về các chỉ thị phải rõ ràng và thống
nhất và trình bày chỉ thị một cách hợp lý. Không nên có những nội dung mâu
thuẫn giữa các chỉ thị với nhau.
7. Phải có cơ sở về mặt khái niệm cũng như phương pháp luận: điều này
phải được thể hiện trong các mô tả về phương pháp luận và công thức sử
dụng, các tham khảo khoa học cho phương pháp luận và công thức đó. Tất cả
những mô tả này cần được đưa vào phần tài liệu hoá của chỉ thị.
8. Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng: điều này được
đánh giá bằng cách thực hiện kiểm tra công tác tài liệu hoá đối với chỉ thị và
mức độ đều đặn các tài liệu này được cập nhật. Hệ thống quản lý chỉ thị sẽ hỗ
trợ các công việc này, hệ thống này sẽ đem lại tính minh bạch và là cơ sở để
có thể quản lý tốt hơn quy trình xây dựng và công bố chỉ thị.
9. Tính sẵn có của dữ liệu: các dữ liệu thu thập phục vụ cho chỉ thị phải
đảm bảo tính khả thi cả về mặt chuyên môn cũng như tài chính. Các chỉ thị đó
phải được xem xét ở các mức độ quan trọng của chỉ thị đem lại phù hợp với
chi phí thu thập dữ liệu để phục vụ cho việc lựa chọn chỉ thị trong thời gian
dài hoặc ngắn.
3.1.3.3. Một số chỉ thị thông dụng hiện đang được sử dụng [1,3]
18 | P a g e
Chỉ số phát triển con người: được đánh giá trên thang điểm từ 0 đến 1 là
một tập hợp của 3 chỉ thị: tuổi thọ bình quân, tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ
người biết chữ và thời gian trung bình đến trường.
Chỉ số Daly-Cobb: là một chỉ thị toàn diện hơn về sự phát triển kinh tế
bền vững. Chỉ số này không chỉ phản ảnh mức tiêu thụ trung bình mà còn cho
thấy sự công bằng trong phân phối sản phẩm và sự suy thoái môi trường.
Chỉ số tiêu thụ lương thực đầu người: (Per Capital Grain Index) là một
thước đo hữu hiệu về kinh tế ở các nước có thu nhập thấp. Chỉ thị này phản
ảnh sự thoả mãn của nhu cầu cơ bản con người bởi con người không thể tồn
tại nếu mức tiêu thụ lương thực hàng năm dưới 180 kg.
Chỉ số thịnh vượng quốc gia (Wealth of Nations Index, WNI)

Chỉ số thịnh vượng quốc gia do nhóm chuyên gia kinh tế của World Paper
và Viện Nghiên cứu các vấn đề tiền tệ Mỹ công bố hằng năm.
WNI được tính dựa trên 3 nhóm chỉ tiêu là kinh tế, xã hội và trao đổi
thông tin. Mỗi nhóm chỉ tiêu gồm 21 thông số, các tham số này có trọng số
như nhau. Đối với mỗi nhóm chỉ số, các số liệu thô được chuyển đổi thành
các chỉ số thay đổi từ thấp nhất 0 điểm đến cao nhất là 100 điểm. Tổng số
điểm của mỗi nhóm tham số là 800 điểm, điểm tổng cộng tối đa của WNI là
2.400 điểm.
19 | P a g e
Về chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam đạt 494 điểm, bằng 62% mức cao nhất các
nước đang phát triển; về chỉ tiêu xã hội, chúng ta đạt 507 điểm bằng 63,4%
mức cao nhất các nước đang phát triển và nhóm chỉ tiêu về trao đổi thông tin
chúng ta chỉ đạt 226 điểm bằng 28,3% mức cao nhất của các nước đang phát
triển. Tính chung 3 nhóm chỉ tiêu trên, Việt Nam đạt được 1.227 điểm bằng
51,1% mức cao nhất của các nước đang phát triển, đứng thứ 56/70 nước đang
phát triển có số liệu so sánh.
Chỉ số thương tổn môi trường (Environmental Vulnerability Index, EVI)
Chỉ số EVI đã được Uỷ ban Khoa học Địa lý ứng dụng Nam Thái Bình
Dương (SOPAC) và Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc(UNDP) triển khai.
Chỉ số này được xây dựng dựa trên các chỉ số thương tổn về xã hội, kinh tế để
hiểu được các quá trình có thể tác động tiêu cực tới sự PTBV của các quốc gia
như thế nào.
Chỉ số EVI gồm 57 chỉ thị thuộc 3 nhóm chỉ số thứ cấp: chỉ số về tai biến,
chỉ số về phục hồi sau các tai biến từ tự nhiên hay nhân tạo, chỉ số về sự suy
thoái hay tính nguyên vẹn của môi trường.
Chỉ có 6 trong số 57 chỉ thị này có trọng số là 5, các chỉ thị còn lại có
trọng số như nhau là 1. Thang điểm của chỉ số EVI dao động từ 1 đến 7. Điểm
càng cao thì tính dễ bị thương tổn càng lớn.
20 | P a g e
Chỉ số phát triển bền vững (Sustainable Development Index, SDI): Trong

Chương trình nghị sự 21 của Hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992 về Môi
trường và Phát triển khuyến khích việc sử dụng các chỉ thị PTBV để mô tả
hiện trạng kinh tế, môi trường và xã hội nhằm đo lường mức độ phát triển
toàn diện của một quốc gia.
Chỉ số SDI được xây dựng bao gồm 134 chỉ thị đã được chọn lọc và 22
quốc gia tình nguyện áp dụng thử nghiệm Bộ chỉ thị này. Vào năm 2001, Bộ
chỉ thị này đã được chuẩn hoá như là một công cụ đo lường các sự tiến bộ
trong PTBV nhằm hỗ trợ cho những người ra quyết định, những nhà hoạch
định chính sách phát triển KT-XH của một quốc gia được bền vững lâu dài.
Chỉ số bền vững môi trường (Environmental Sustainability Index, ESI):
chỉ ra những việc làm, những khả năng của một quốc gia trong việc BVMT
cho tương lai. Chỉ số này được xây dựng bởi 21 chỉ thị bền vững môi trường
với 76 tham số, tập trung vào 5 khía cạnh sau:
- Hệ thống môi trường
- Giảm thiểu tác động môi trường
- Giảm thiểu tính thương tổn của con người đối với các áp lực môi trường
- Năng lực xã hội, thể chế trong việc đáp ứng các thách thức môi trường
- Quản lý trái đất
3.2. Cơ sở thực tiễn
21 | P a g e
3.2.1. Các văn bản pháp luật
Nơi nào có vùng ven đầm phá và biển lớn thì nơi đó có ngành NTTS được
phát triển mạnh. NTTS là ngành gắn liền với thiên nhiên, do vậy không tránh
khỏi những nguy cơ những tác động tiêu cực do nó gây ra về mặt môi trường:
ô nhiễm môi trường, giảm sự đa dạng sinh học, …
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm
nói riêng của tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện
cũng nằm trong những diễn biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó
khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, huyện Quảng Điền trong
những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp phần thúc đẩy

ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành
thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.
Hiện nay, xã Quảng Công có 3 loại hình nuôi tôm: nuôi cao sản, nuôi ao
đất hạ triều, nuôi ao nổi cao triều. Dựa vào những ưu nhược điểm của mỗi
loại hình mà có các phương thức phù hợp với chúng. Nuôi ao hạ triều phù
hợp với hình thức nuôi QCCT, nuôi ao cao triều phù hợp với hình thức BTC
và TC.
Theo Báo cáo Đánh giá thực trạng môi trường của UBND huyện Quảng
Điền năm 2008 cho biết việc phát triển NTTS đang làm cho pH của đầm phá
thay đổi, biến đổi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái vùng đầm phá.
22 | P a g e
Vì vậy, việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm là rất cần
thiết, nhằm cho phép các nhà quản lý có thể mô tả, đánh giá hình thức nào
mang lại tính bền vững cho môi trường, đồng thời cũng thỏa mãn những nhu
cầu về KT-XH.
Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà Nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách về PTBV đối với mọi hoạt động sản xuất KT-XH, trong đó có hoạt
động NTTS. Trên cơ sở chủ trương, định hướng về PTBV và BVMT, trong
thời gian qua, Đảng và Nhà Nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên
quan như:
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
- Quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc ban hành Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản
xuất
- Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc ban hành Danh mục chất thải nguy hại
- Quyết định 19/2007/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc ban hành Quy định về điều kiện và hoạt động dịch vụ thẩm định báo cáo
đánh giá tác động môi trường

23 | P a g e
- Nghị định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn
- Nghị định 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý lưu vực sông
3.2.2. Tình hình phát triển nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế
3.2.2.1. Đối với tỉnh Thừa Thiên Huế [9]
Thừa Thiên Huế là tỉnh có bờ biển dài 128 km và hệ đầm phá Tam Giang,
Cầu Hai có diện tích 21.594 ha, có rất nhiều bãi ngang hội đủ các điều kiện về
thời tiết khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng… phù hợp với NTTS, là nơi có tiềm
năng để phát triển nghề nuôi tôm. Nhờ những thuận lợi sẵn có của hệ sinh thái
đầm phá, nghề NTTS nước lợ chủ yếu là nuôi tôm sú đã phát triển nhanh
chóng trong những năm gần đây ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế.
Bảng 3.2: Tình hình nuôi tôm sú tỉnh Thừa Thiên Huế qua 3 năm
2007-2009
Chỉ tiêu ĐVT Nă
m
200
7

m
200
8
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
+/- % +/- %
Diện tích Ha 346

4
302
4
3632,
1
-
440
87,3 608,1 120,1
Sản Tấn 336 386 2950, 498 114,8 - 76,4
24 | P a g e
lượng 3 1 5 910,5
Năng
suất
Tấn/h
a
0,97 1,28 0,81 0,31 1,32 -0,47 63,3
( Nguồn:Theo số liệu thống kê sở thủy sản Thừa Thiên Huế, 2009)
Về diện tích nuôi: Diện tích nuôi tôm trong năm 2009 đã có giảm sút đáng
kể, từ 3.464 ha năm 2007 giảm xuống 3.024 ha năm 2008. Nguyên nhân của
vấn đề này là: năm 2007 do thời tiết thay đổi phức tạp ảnh hưởng trực tiếp
đến môi trường sống của con tôm; bên cạnh đó dịch bệnh tại các địa phương
trên địa bàn tỉnh diễn ra phổ biến, tạo tâm lý hoang mang trong người nuôi
tôm. Từ đó, khiến cho diện tích nuôi năm 2008 giảm đáng kể so với năm
2007. Tuy nhiên, năm 2009 diện tích nuôi lại tăng lên khá nhanh, lên tới
3.632,1 ha, tăng 120,1% so với năm 2008.[9]
Về năng suất và sản lượng tôm nuôi: Mặc dù, năm 2008 diện tích nuôi tôm
giảm sút đáng kể, nhưng tình hình nuôi trồng diễn ra thuận lợi; thời tiết ổn
định, thích hợp với con tôm; dịch bệnh không xuất hiện tạo điều kiện thuận
lợi trong việc nuôi trồng, chăm sóc và thu hoạch tôm. Sản lượng tôm nuôi
năm 2008 đạt 3.861 tấn, tăng 114,8% so với năm 2007. Tuy nhiên, sự thay

đổi thất thường của thời tiết khí hậu, sự dao động mạnh của độ mặn; bên cạnh
25 | P a g e
đó là sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh đã làm cho năng suất tôm năm 2009
giảm xuống còn 2.950,5 tấn, tức bằng 76,4% so với năm 2008.[9]
Mặc dù vậy, so với cả nước thì năng suất tôm của Thừa Thiên Huế vẫn
còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Mục tiêu đặt ra là không
ngừng nâng cao năng suất, sản lượng để ngành nuôi trồng nuôi tôm của Thừa
Thiên Huế phát triển, phát huy lợi thế so sánh của vùng.
Tình hình nuôi trồng chịu nhiều rủi ro, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi điều
kiện tự nhiên đã và đang đặt ra cho người nông dân, các cấp chính quyền địa
phương, cơ quan liên quan một bài toán hóc búa, cần phải kịp thời đưa ra các
giải pháp áp dụng vào nuôi trồng, giúp cho người nông dân tránh và hạn chế
rủi ro, nâng cao hiệu quả, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân
3.2.2.2. Đối với huyện Quảng Điền [5], [6]
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm
nói riêng của tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện
cũng nằm trong những diễn biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó
khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, huyện Quảng Điền trong
những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp phần thúc đẩy
ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành
thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.

×