MỤC LỤC
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
KÝ HIỆU VIẾT TẮT 3
3
LỜI MỞ ĐẦU1
2.1.1.1. Sự hình thành của công ty cổ phần Vũ Gia 37
2.1.1.2. Một số chỉ tiêu minh hoạ cho quá trình hình thành và phát triển
của công ty cổ phần Vũ Gia 38
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty cổ phần Vũ Gia
39
2.1.2.1. Chức năng của công ty cổ phần Vũ Gia 39
2.1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của công ty cổ phần Vũ Gia 40
2.1.3. Đặc điểm tổ chức, bộ máy quản lý của công ty cổ phần Vũ Gia 41
2.1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần Vũ Gia 41
2.1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban tại công ty cổ phần Vũ
Gia 43
2.1.4. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ
phần Vũ Gia 44
2.1.4.1. Đặc điểm về sản phẩm của công ty cổ phần Vũ Gia 44
2.1.4.2. Đặc điểm về thị trường kinh doanh của công ty cổ phần Vũ Gia
46
2.1.5. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và tình hình vận dụng chế độ kế
toán tại công ty cổ phần Vũ Gia 47
2.1.5.1. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần Vũ Gia 47
2.1.5.2. Đặc điểm vận dụng chế độ kế toán tại công ty cổ phần Vũ Gia
49
2.2.1. Quy chế quản lý tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia 54
2.2.1.1. Quản lý và sử dụng tài sản tại công ty 54
2.2.1.2. Quản lý doanh thu và chi phí kinh doanh 58
2.2.1.3. Lợi nhuận và trích lập các quỹ 59
2.2.2. Thực trạng lập Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia 59
2.2.2.1. Quy trình chung để lập Báo cáo tài chính 62
2.2.2.2. Bảng cân đối kế toán 62
2.2.2.4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 67
2.2.2.5. Thuyết minh Báo cáo tài chính 68
2.3. Thực trạng công tác phân tích Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần
Vũ Gia 68
2.3.1. Khái quát về phân tích Báo cáo tài chính tại công ty 68
2.3.2. Phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp 69
2.3.3. Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp 76
2.3.4. Phân tích hiệu quả kinh doanh 81
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VŨ GIA 84
3.1. Đánh giá hiệu lực quản lý tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia 84
3.2. Đánh giá thực trạng lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài
chính 85
3.2.1. Đánh giá về lập Báo cáo tài chính tại công ty 85
3.2.2. Đánh giá về phân tích Báo cáo tài chính tại công ty 87
3.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập Báo cáo tài chính và phân
tích Báo cáo tài chính tại công ty 91
3.4. Nội dung hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính tại
công ty 93
3.4.1. Hoàn thiện lập Báo cáo tài chính tại công ty 93
3.4.2. Hoàn thiện phân tích Báo cáo tài chính tại công ty 94
3.5. Điều kiện thực hiện 98
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BĐS : Bất động sản
CNV : Công nhân viên
ĐTTC : Đầu tư tài chính
GTGT : Giá trị gia tăng
KD : Kinh doanh
KH : Khách hàng
KH – KT : Khoa học – Kỹ thuật
NN : Nhà nước
NSNN : Ngân sách nhà nước
SP : Sản phẩm
TC – KT : Tài chính – Kế toán
TK : Tài khoản
TSCĐ : Tài sản cố định
TTNDN : Thuế thu nhập doanh nghiệp
TTSBQ : Tổng tài sản bình quân
VCSH : Vốn chủ sở hữu
VCSHBQ : Vốn chủ sở hữu bình quân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG Trang
Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu tài chính của công ty trong những năm gần đây như sau
(nguồn Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006)
39
Bảng 2.2. Thời gian sử dụng của các nhóm tài sản cố định tại công ty cổ phần Vũ
Gia
55
Bảng 2.3. Bảng cân đối kế toán của công ty cổ phần Vũ Gia năm 2007
Bảng 2.4. Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần Vũ Gia năm 2007
63
67
Bảng 2.5. Các chỉ tiêu phân tích Báo cáo tài chính của công ty cổ phần Vũ Gia
69
Bảng 2.6. Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp năm 2006
70
Bảng 2.7. Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp năm 2007
72
Bảng 2.8. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp năm 2006
74
Bảng 2.9. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp năm 2007
75
Bảng 2.10. Bảng phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp năm 2006
77
Bảng 2.11. Bảng phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp năm 2007
80
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý tại công ty cổ phần Vũ Gia
42
Sơ đồ 2.2. Mô hình tạo sản phẩm dịch vụ của công ty
45
Sơ đồ 2.3. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tại công ty
48
Sơ đồ 2.4. Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán CTGS
53
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ tăng trưởng lợi nhuận của công ty qua các năm
38
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, sự
cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng trở nên gay gắt. Để đứng vững trên thị trường,
để có các quyết định kinh doanh đúng đắn, các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư phải sử
dụng kết hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau trong đó thông tin từ Báo cáo tài chính
được xem là quan trọng hơn cả.
Xuất phát từ nhu cầu quản lý kinh tế ngày càng cao, các doanh nghiệp đã có sự
quan tâm thích đáng đến công tác phân tích tình hình tài chính. Việc phân tích tình
hình tài chính giúp cho thông tin cung cấp trên các Báo cáo tài chính thực sự có ý
nghĩa với người sử dụng. Qua phân tích họ có căn cứ để đánh giá tốt hơn tình hình sử
dụng vốn cũng như thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, xác định được các nhân tố
ảnh hưởng, mức độ cũng như xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh
doanh, từ đó, các đối tượng quan tâm có thể ra quyết định tối ưu nhất.
Báo cáo tài chính là báo cáo phản ánh tổng hợp tình hình tài chính, kết quả sản
xuất kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền trong kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy, có thể nói Báo cáo tài chính là bức tranh toàn cảnh về tình hình tài
chính của doanh nghiệp và là công cụ hữu ích để phân tích hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó, các chủ thể có quyết định cần thiết về quản lý tài chính của doanh
nghiệp.
Công ty cổ phần Vũ Gia là một doanh nghiệp non trẻ, hoạt động trong lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ taxi. Không nằm ngoài quy luật chung của nền kinh tế thị trường,
để kiểm soát tốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình, công ty đã chú trọng đến
công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính.
Xuất phát từ thực trạng trên, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác lập
và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Vũ Gia”, một đề tài có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn to lớn đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần Vũ
Gia nói chung.
Kết cấu ngoài lời mở đầu và kết luận, bản khóa luận gồm 3 chương cơ bản:
- Chương 1 : Cơ sở lý luận về lập và phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Chương 2 : Lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty
cổ phần Vũ Gia.
- Chương 3 : Hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính tại công ty
cổ phần Vũ Gia
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về Báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ
sở và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và
thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm (chủ doanh nghiệp,
nhà đầu tư, nhà cho vay, cơ quan thuế và cơ quan chức năng…).
Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. Theo đó,
báo cáo tài chính chứa đựng những thông tin tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn
vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ
của doanh nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày thực trạng
tài chính và khả năng sinh lời của doanh nghiệp cho những người quan tâm (chủ
doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà cho vay, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng…).
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính Việt Nam qua một số thời kỳ
- Giai đoạn 1: Giai đoạn quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp (trước năm 1986)
Trong giai đoạn này, thông tin trên Báo cáo tài chính thể hiện các chỉ tiêu thực
hiện thu – chi, để tổ chức sản xuất theo kế hoạch đề ra trong giới hạn Ngân sách nhà
nước phân bổ.
Hệ thống báo cáo kế toán trong giai đoạn này đã đáp ứng tốt yêu cầu quản lý
tập trung và phục vụ tốt cho công tác kiểm soát, chỉ đạo của cơ quan chức năng Nhà
nước.
Tuy nhiên, hệ thống báo cáo kế toán như trên ngày càng bộc lộ nhiều nhược
điểm. Số lượng bảng biểu quá nhiều, cùng với các chỉ tiêu kinh tế phức tạp đòi hỏi cả
người lập và đọc báo cáo phải có trình độ nhất định trong khi công tác đào tạo cán bộ
kế toán chưa thực sự tương xứng với yêu cầu trên. Hơn nữa, kỳ lập báo cáo lại ngắn
và liên tục (tháng, quý, 6 tháng, năm). Với đội ngũ cán bộ ít, trình độ có hạn, các báo
cáo được lập trong điều kiện này chỉ mang tính đối phó, thiếu chính xác, không đảm
2
bảo độ trung thực mà thông tin cần có. Do đó, ta thấy công tác lập báo cáo trong giai
đoạn này là không khoa học.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1986 đến nay)
Trong những năm đầu đổi mới, từ 1986 – 1990, nền kinh tế nước ta gặp vô vàn
khó khăn. Để phù hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế, Nhà nước ta đã
thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch hóa và công tác quản lý kinh tế - tài
chính của Nhà nước trong giai đoạn này, chế độ Báo cáo Thống kê – Kế toán định kỳ
đã được ban hành theo quyết định số 13-TCTK/PPCĐ ngày 13/01/1986 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê. Đối với lĩnh vực kế toán, có 9 biểu, các đơn vị phải lập và
gửi báo cáo định kỳ quý, 6 tháng, năm.
Tuy số lượng báo cáo đã giảm và cũng không yêu cầu bắt buộc phải lập báo
cáo theo tháng, song 9 vẫn là tương đối lớn, số lượng các chỉ tiêu vẫn còn nhiều, rườm
rà, không cần thiết cho hoạt động quản lý và quan trọng hơn cả là vẫn được thực hiện
tập trung, mang nặng tính hình thức, chưa thật sự hữu ích cho bản thân đơn vị, thông
tin kế toán chủ yếu vẫn được dùng cho việc kiểm soát, chỉ đạo của cấp trên và các cơ
quan chức năng của Nhà nước.
Từ 1990 – 1995, giai đoạn này sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý kinh tế
mới được nhận thức đầy đủ, những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế theo hướng hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa được cụ thể
hóa, đưa vào cuộc sống. Trong giai đoạn này, hệ thống Báo cáo kế toán chỉ còn 4 báo
cáo định kỳ:
• Bảng tổng kết tài sản (lập theo quý, năm)
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (lập theo năm)
• Chi phí sản xuất theo yếu tố (lập theo năm)
• Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh (lập theo năm)
Các doanh nghiệp quốc doanh phải nộp các báo cáo cho cơ quan Tài chính, cơ
quan chủ quản, cơ quan Thống kê và cơ quan Ngân hàng liên quan. Thời gian lập, nộp
các báo cáo cũng đã “thoáng” hơn, các chỉ tiêu trong từng báo cáo đã phần nào được
đơn giản hóa, phục vụ thiết thực hơn cho việc quản trị doanh nghiệp.
3
Tuy nhiên, thông tin trên các Báo cáo kế toán trong thời gian này chưa thật sự
phù hợp với thông lệ quốc tế vì chúng ta chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề hòa hợp
quốc tế.
Từ năm 1995 đến nay, giai đoạn này được đánh dấu bởi những bước chuyển
đổi kinh tế mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ đặt đất nước ta vào thế
không ngừng thay đổi các chính sách kinh tế để hội nhập với quốc tế. Đứng trước xu
thế đó, hệ thống kế toán nói chung và hệ thống Báo cáo kế toán phải từng bước thay
đổi cho phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước và phải được thay đổi
đồng bộ, triệt để cả về nội dung lẫn hình thức để phục vụ tốt nhu cầu quản lý trong
nền kinh tế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Trong giai đoạn này, hệ thống Báo cáo kế toán được sửa đổi, bổ sung nhiều lần,
song nhìn chung, hệ thống Báo cáo kế toán được quy định thống nhất và ngày càng
phù hợp với thông lệ quốc tế với 4 biểu mẫu kế toán báo cáo phải lập là:
• Bảng cân đối kế toán
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
• Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Riêng Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, từ năm 2003 mới bắt buộc phải lập, nộp.
Ngoài ra, tùy thuộc vào yêu cầu thông tin kế toán của bản thân doanh nghiệp mà có
thể nộp thêm một số báo cáo nội bộ khác.
Từ năm 2000, để cập nhật hơn nữa những nhu cầu của nền kinh tế đang đổi
mới, phát triển, Bộ tài chính vẫn không ngừng nghiên cứu, cải tiến nâng cao vai trò
cung cấp thông tin cho các Báo cáo tài chính, 26 Chuẩn mực kế toán được ban hành,
cùng với các thông tư hướng dẫn kèm theo.
So với giai đoạn trước đây, hệ thống Báo cáo tài chính hiện nay là một bước
đột phá căn bản, nó không chỉ khắc phục được những nhược điểm của hệ thống báo
cáo trước đó mà còn được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc và Chuẩn mực kế toán
quốc tế phục vụ thiết thực hơn cho các cơ quan quản lý Nhà nước và nhiều đối tượng
khác. Nó phản ánh đầy đủ hơn các sự kiện kinh tế tài chính phát sinh trong quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên tạo được niềm tin từ phía người sử dụng
và thực sự phát huy vai trò quan trọng trong công tác quản lý tài chính, kế toán.
4
Nền kinh tế còn nhiều biến đổi, trong tương lai, hệ thống Báo cáo tài chính
cũng như hệ thống kế toán sẽ còn phải thay đổi để phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu của
các đối tượng quan tâm trong và ngoài doanh nghiệp.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của Báo cáo tài chính
1.1.3.1. Ý nghĩa của Báo cáo tài chính
Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm đến hoạt động sản xuất
càng tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cường quản lý sản xuất. Hạch toán kế toán
ra đời và phát triển nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan đó của bản thân quá trình sản
xuất cũng như của xã hội.
Hạch toán kế toán, thực chất là nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn
hình thành và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức, các đơn vị bằng hệ
thống các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm: phương pháp chứng từ,
phương pháp đối ứng tài khoản, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp – cân
đối kế toán.
Tổng hợp – cân đối kế toán là phương pháp khái quát tình hình tài sản, nguồn
vốn, kết quả kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế khác thuộc đối tượng hạch toán
trên những mặt bản chất và trong các mối quan hệ cân đối vốn có của đối tượng hạch
toán kế toán mà bằng các phương pháp khác (chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản)
không thể thực hiện được. Hình thức biểu hiện cụ thể của phương pháp này là hệ
thống các bảng tổng hợp cân đối thường gọi là các Báo cáo kế toán. Tùy theo mục
đích, đối tượng cung cấp thông tin, Báo cáo kế toán được chia thành Báo cáo tài chính
và Báo cáo quản trị.
Trong đó, Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài
sản, vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong
kỳ của doanh nghiệp. Nó là phương tiện trình bày khả năng sinh lợi và thực trạng tài
chính cho những người quan tâm, chủ yếu là các thành viên bên ngoài doanh nghiệp,
qua một hệ thống các chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do Nhà nước quy định
và mang tính pháp lệnh.
Như vậy, Báo cáo tài chính được hình thành từ nhu cầu cung cấp thông tin tổng
quát, hữu ích về thực trạng của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là phương tiện nối
doanh nghiệp với các đối tượng quan tâm. Với ý nghĩa hết sức to lớn như vậy, việc lập
5
và trình bày Báo cáo tài chính là công việc không thể thiếu trong mỗi chu kỳ hoạt
động của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Vai trò của Báo cáo tài chính
Trước năm 1986, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế tập trung
bao cấp, các đơn vị chỉ duy nhất thực hiện điều hành tổ chức sản xuất kinh doanh theo
đúng kế hoạch nhận được mà không xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị mình.
Do vậy, thông tin trên các Báo cáo tài chính chỉ dùng để nhà nước kiểm tra công tác
thực hiện kế hoạch và Chế độ Kế toán thống kê của xí nghiệp. Báo cáo tài chính phục
vụ cho một đối tượng duy nhất, đó là Nhà nước. Chính vì vậy, đối tựong sử dụng Báo
cáo tài chính và nhu cầu thông tin kinh tế từ Báo cáo tài chính không đa dạng, phong
phú, chưa thực sự hữu ích cho quá trình kinh doanh của bản thân doanh nghiệp cũng
như toàn bộ nền kinh tế.
Sau đại hội VI năm 1986, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sang cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, các
doanh nghiệp trong nền kinh tế trở thành những thực thể kinh doanh hàng hóa độc lập,
tự tìm kiếm các đối tác kinh doanh, tự chủ về mặt tài chính, tự quyết định phương
hướng, xây dựng kế hoạch và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo nhu cầu
thị trường trong khuôn khổ luật pháp Nhà nước quy định. Do đó, trong mối ràng buộc
giữa lợi ích kinh tế và quan hệ pháp lý giữa các đối tượng tham gia kinh doanh trên thị
trường, hoạt động của một doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới rất nhiều đối tượng
khác có quan hệ với họ, nên nhu cầu cung cấp thông tin kinh tế dễ hiểu, đáng tin cậy,
hợp pháp từ hệ thống Báo cáo tài chính là một yêu cầu tất yếu đối với những đối
tượng quan tâm.
Vai trò cung cấp thông tin của các Báo cáo tài chính là tương đương nhau. Các
Báo cáo tài chính được lập có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Các bộ phận cấu thành
của các báo cáo phản ánh theo các khía cạnh khác nhau của cùng một số các chỉ tiêu,
sự kiện kinh tế. Mỗi Báo cáo tài chính riêng biệt cung cấp cho người đọc một khía
cạnh hữu ích khác nhau nhưng không có loại báo cáo nào chỉ phục vụ cho một mục
đích riêng biệt hoặc cung cấp mọi thông tin cần thiết có thể đáp ứng mọi yêu cầu sử
dụng. Khi xem xét, tìm kiếm thông tin đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các Báo cáo tài
chính. Đó chính là mối liên hệ hệ thống của các Báo cáo tài chính.
6
Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống Báo cáo tài chính được lập nhằm giúp
những người ra quyết định đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của
doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu trên cơ sở đánh giá khả năng tạo
ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, mức lợi nhuận,… Bởi
vậy, thông tin từ hệ thống Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính có vai trò
quan trọng đối với nhiều phía cả trong và ngoài doanh nghiệp.
Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, họ quan tâm
đến nhiều mục tiêu khác nhau: tạo công ăn, việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm bớt chi phí, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường,… Tuy nhiên, doanh
nghiệp chỉ có thể tồn tại nếu đảm bảo được 2 thử thách sống còn và cũng là 2 mục tiêu
cơ bản: kinh doanh có lãi và thanh toán công nợ. Như vậy, vì mục đích tồn tại và phát
triển, hơn ai hết, các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp phải có đủ
thông tin, hiểu rõ doanh nghiệp và liên kết các thông tin với nhau về mọi mặt: tình
hình tài chính, khả năng sinh lợi, đánh giá rủi ro,… Từ đó, các nhà quản lý có thể đưa
ra những quyết định đúng đắn nhất, hiệu quả nhất cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm chủ yếu
của họ chủ yếu là hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt
chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khá có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để dự
đoán khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngoài ra, họ cũng rất quan tâm đến khả
năng tự chủ về tài chính, khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp, vì đây là khoản
bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro và là cơ sở cho việc doanh nghiệp
hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hóa, dịch vụ, họ cần căn cứ để
đưa ra quyết định có thể cho khách hàng nào đó được mua chịu hàng, thanh toán chậm
hay không. Tương tự các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người này
cũng cần phải biết khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi
ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán,… cũng như hiệu quả của
việc điều hành hoạt động và công tác quản lý doanh nghiệp. Những điều trên cung cấp
thông tin nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các đầu tư.
7
Các cơ quan Tài chính, cơ quan Thuế, cơ quan Thống kê, đơn vị chủ quản,…
dựa vào hệ thống Báo cáo tài chính và tài liệu phân tích, họ đánh giá, kiểm tra, kiểm
soát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tính đúng đắn trong công tác kế toán cũng
như tính tuân thủ luật pháp của doanh nghiệp.
Người lao động trong doanh nghiệp cũng quan tâm đến quy mô, khả năng hoạt
động của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại và trong tương lai để có cơ sở đảm bảo
mức sống của họ.
Nói tóm lại, tất cả các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp, những người có
quyền lợi và trách nhiệm liên quan đến doanh nghiệp, mặt này hay mặt khác đều cần
thông tin liên quan đến những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh
nghiệp đó. Thông tin từ Báo cáo tài chính qua phân tích Báo cáo tài chính đáp ứng
được một cách tốt nhất những yêu cầu trên. Qua đánh giá thường xuyên tình hình tài
chính dựa trên các Báo cáo tài chính, các nhà quản trị doanh nghiệp và những đối
tượng khác có thể nắm rõ thực trạng của doanh nghiệp, thấy được các nhân tố ảnh
hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình của doanh nghiệp. Từ đó,
họ có thể có những quyết định tối ưu và đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm ổn định
và tăng cường, phát huy khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Với ý nghĩa quan
trọng như vậy, lập và phân tích Báo cáo tài chính là công việc nên được thực hiện một
cách cẩn thận sau mỗi chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp.
1.2. Nguyên tắc và nội dung lập Báo cáo tài chính
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thủ tục và nguyên tắc lập Báo cáo tài chính
Các Báo cáo tài chính được lập nhằm mục tiêu cung cấp thông tin tài chính hữu
ích cho các đối tượng quan tâm đến tình hình kinh tế, tài chính của một doanh nghiệp
đề ra các quyết định kinh tế. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều am hiểu quy
trình ghi nhận dữ liệu và xử lý thông tin kế toán. Vì vậy, để đảm bảo tính hữu ích và
dễ hiểu của thông tin kế toán trên Báo cáo tài chính, Nhà nước đã đưa ra những thủ tục
và nguyên tắc nhất định cần phải tuân thủ trong việc lập và trình bày Báo cáo tài
chính.
Các yêu cầu lập và trình bày Báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, việc
lập và trình bày Báo cáo tài chính phải tuân thủ yêu cầu trình bày một cách trung thực
và hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của
8
doanh nghiệp. Cụ thể, khi lập và trình bày các Báo cáo tài chính doanh nghiệp cần đáp
ứng các yêu cầu:
- Trung thực, hợp lý.
- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định của từng
Chuẩn mực kế toán. Trường hợp chưa có quy định ở chuẩn mực cũng như Chế độ kế
toán hiện hành thì doanh nghiệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng các
phương pháp kế toán hợp lý nhằm đảm bảo Báo cáo tài chính cung cấp thông tin thích
hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các
thông tin đáng tin cậy, khi:
• Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
• Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ
đơn thuần là phản ánh hình thức hợp pháp của chúng.
• Trình bày khách quan không thiên vị.
• Tuân thủ nguyên tắc thận trọng.
• Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Ngoài ra, các Báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin bổ sung khi
những quy định trong Chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu
được tác động của những giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính,
tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, khi lập và trình bày Báo
cáo tài chính phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc hoạt động liên tục
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt
động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ
khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp
đáng kể quy mô hoạt động của mình. Khi lập và trình bày Báo cáo tài chính, Giám đốc
(hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục
của doanh nghiệp bằng cách xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu
trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
9
Khi đánh giá, nếu biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các
sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên
tục của doanh nghiệp thì những điều đó phải được nêu rõ.
Nếu Báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục thì sự kiện
này cần được nêu rõ cùng với cơ sở dùng để lập Báo cáo tài chính và lý do khiến cho
doanh nghiệp không được coi là hoạt động liên tục.
Nguyên tắc cơ sở dồn tích
Doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ
các thông tin liên quan đến các luồng tiền.
Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời
điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận
vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí
được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp
giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho
phép ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán những khoản mục không thoả mãn định
nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.
Nguyên tắc nhất quán
Nguyên tắc này yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo
cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi
đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình
bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp
lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự
thay đổi trong việc trình bày. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các
thông tin đảm bảo tính so sánh của thông tin qua các thời kỳ và phải giải trình lý do và
ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần VIII của Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp
Theo nguyên tắc này, từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày
riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng
trong Báo cáo tài chính hoặc trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu
chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh
hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính.
10
Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được
trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải
trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các
quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các
thông tin đó không có tính trọng yếu.
Nguyên tắc bù trừ
Nguyên tắc này đòi hỏi khi ghi nhận các giao dich kinh tế và các sự kiện để lập
và trình bày Báo cáo tài chính không được phép bù trừ tài sản và công nợ phải trả, do
vậy, doanh nghiệp phải trình bày riêng biệt tất cả các khoản mục tài sản và công nợ
trên Báo cáo tài chính. Đối với các khoản doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ
được bù trừ khi được quy định tại một Chuẩn mực kế toán khác hoặc các khoản lãi, lỗ
và chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương
tự và không có tính trọng yếu. Các khoản này cần được tập hợp lại với nhau phù hợp
với quy định của nguyên tắc trọng yếu và tập hợp. Các tài sản và nợ phải trả, các
khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải được báo cáo riêng biệt.
Nguyên tắc có thể so sánh
Các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các kỳ
kế toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài
chính của kỳ kế toán trước kể cả thông tin diễn giải bằng lời nếu cần thiết cho người
sử dụng hiểu rõ được Báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong Báo cáo
tài chính thì phải phân loại lại các số liệu so sánh nhằm đảm bảo khả năng so sánh với
kỳ hiện tại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng
mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của những thay
đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.
Những quy định chung về Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều phải lập
và trình bày Báo cáo tài chính theo quy định của Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và
Chế độ kế toán hiện hành cùng các thông tư hướng dẫn đi kèm.
11
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành được quy định bao gồm 4 biểu mẫu.
Ngoài ra, tùy thuộc yêu cầu của mỗi doanh nghiệp mà lượng Báo cáo kế toán có thể
tăng lên.
Báo cáo tài chính của tất cả các loại hình doanh nghiệp phải được lập cho từng
kỳ kế toán năm. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước thì phải lập thêm Báo cáo tài
chính giữa niên độ vào cuối mỗi quý của năm tài chính (không bao gồm quý IV). Các
doanh nghiệp có thể lập theo kỳ kế toán khác theo yêu cầu của pháp luật, của công ty
mẹ hoặc của chủ sở hữu. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng và đại
diện pháp luật của đơn vị ký, đóng dấu của đơn vị. Người ký Báo cáo tài chính phải
chịu trách nhiệm về nội dung của báo cáo. Giám đốc hoặc người đứng đầu doanh
nghiệp chịu trách nhiệm về lập, trình bày Báo cáo tài chính.
Kỳ kế toán năm là năm dương lịch hoặc kỳ kế toán năm là 12 tháng tròn sau
khi thông báo cho cơ quan Thuế. Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp được phép thay
đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm dẫn đến việc lập Báo cáo tài chính cho một niên độ
kế toán có thể dài hơn hoặc ngắn hơn một năm dương lịch nhưng không được vượt
quá 15 tháng. Khi đó, doanh nghiệp phải nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài
chính, phần VIII. Những thông tin khác về:
- Lý do phải thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
- Các thông tin so sánh kỳ này, kỳ trước và phải được điều chỉnh cho phù hợp
với kỳ báo cáo của niên độ báo cáo kỳ này.
Thời hạn nộp Báo cáo tài chính được quy định tại điều 31 Luật kế toán và điều
20 Nghị định kế toán đối với các loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Đơn vị kế toán phải nộp Báo cáo tài chính chậm nhất 30 ngày kể từ ngày kết
thúc kỳ báo cáo (đối với Báo cáo tài chính năm), 20 ngày (đối với Báo cáo tài chính
quý). Tổng công ty Nhà nước chậm nhất là 90 ngày (Báo cáo tài chính năm), 45 ngày
(Báo cáo tài chính quý).
Đơn vị kế toán trực thuộc tổng công ty Nhà nước phải nộp báo cáo năm, quý
cho tổng công ty theo thời hạn do tổng công ty quy định.
Đối với các loại hình doanh nghiệp khác
Đơn vị kế toán là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh phải nộp Báo cáo
tài chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
12
Đối với các đơn vị kế toán khác, thời hạn nộp Báo cáo tài chính năm chậm nhất
là 90 ngày.
Đơn vị kế toán trực thuộc nộp Báo cáo tài chính năm cho đơn vị kế toán cấp
trên theo thời hạn do đơn vị kế toán cấp trên quy định.
Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phải nộp cho cơ quan Thuế, cơ quan
Thống kê, cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan khác theo quy định. Đối với doanh
nghiệp Nhà nước còn phải nộp Báo cáo tài chính cho cơ quan Tài chính cùng cấp, đơn
vị kế toán trực thuộc còn phải nộp Báo cáo tài chính cho đơn vị kế toán cấp trên.
Để đảm bảo chất lượng thông tin cung cấp ra ngoài, các Báo cáo tài chính phải
được xác định bởi một bộ phận kiểm toán độc lập. Điều này được quy định rõ trong
điều 34 Luật kế toán như sau:
- Báo cáo tài chính năm của đơn vị kế toán mà pháp luật quy định phải kiểm
toán thì phải được kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và
trước khi công khai.
- Đơn vị kế toán khi được kiểm toán thì phải tuân thủ đầy đủ các quy định của
pháp luật về kiểm toán.
- Báo cáo tài chính đã được kiểm toán khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thì phải có báo cáo kiểm toán đính kèm.
Báo cáo tài chính phải được lập và gửi kịp thời. Đây là yêu cầu có tính nguên
tắc, có như vậy, các thông tin hữu ích mới được sử dụng tổng hợp, phân tích, đánh giá
kịp thời; quyết định kinh tế được đưa ra đảm bảo tính thời sự, góp phần định hướng
đúng đắn cho doanh nghiệp trong kinh doanh, phát huy và khai thác kịp thời những
tiềm năng, những cơ hội trong kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung cơ bản của các Báo cáo tài chính hiện hành
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành thực hiện theo Chế độ Kế toán doanh
nghiệp ban hành tại Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng
Bộ tài chính áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần
kinh tế trong cả nước từ năm tài chính 2006, bao gồm Báo cáo tài chính năm và Báo
cáo tài chính giữa niên độ. Hệ thống Báo cáo năm gồm có 4 biểu mẫu Báo cáo:
• Bảng cân đối kế toán, mẫu số B01 – DN.
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, mẫu số B02 – DN.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mẫu số B03 – DN.
13
• Bản thuyết minh Báo cáo tài chính, mẫu số B09 – DN.
Trong quá trình kinh doanh nếu thấy cần thiết, các doanh nghiệp có thể bổ
sung, sửa đổi hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhưng phải được Bộ tài chính chấp thuận bằng văn bản.
Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính, yêu cầu chỉ đạo, điều
hành, các doanh nghiệp có thể quy định thêm các báo cáo chi tiết khác. Đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn tuân thủ các quy định chung còn những quy định, hướng
dẫn cụ thể được trình bày tại Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bảng cân đối kế toán: (Phụ lục 01: Bảng cân đối kế toán theo mẫu
B01- DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài
chính)
Bảng cân đối kế toán là một Báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài
sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm
nhất định. Theo quy định, thời điểm này là ngày cuối cùng của kỳ báo cáo. Số liệu trên
Bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu tài
sản và nguồn hình thành tài sản đó.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản
và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia
làm 2 phần: Tài sản và Nguồn vốn, có thể kết cấu theo kiểu 2 bên (Tài sản bên trái,
Nguồn vốn bên phải) hoặc kết cấu một bên (Tài sản phía trên, Nguồn vốn bên dưới).
Xét theo thời gian luân chuyển của tài sản, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
được chia thành 2 loại: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn, được trình bày thành 2
phần trong phần tài sản trên Bảng cân đối kế toán.
Phần nguồn vốn: phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
đến cuối kỳ báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp về số tài sản đang quản lý và sử dụng đối với nhà nước, cấp trên, các nhà đầu
tư, các cổ đông, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khách hàng, các đơn vị kinh tế khác,
công nhân viên,…
Nguồn vốn được chia thành 2 loại: nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Ngoài các chỉ tiêu trong phần chính, Bảng cân đối kế toán còn phản ánh các chỉ
tiêu ngoài bảng như: Tài sản thuê ngoài, ngoại tệ các loại, … Đây là những chỉ tiêu
phản ánh những tài sản tạm thời để ở doanh nghiệp nhưng không thuộc quyền sở hữu
14
của doanh nghiệp hoặc một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các tài khoản trong
Bảng cân đối kế toán nhưng cần theo dõi để phục vụ yêu cầu quản lý.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Phụ lục 02: Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh theo mẫu B02 - DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày
20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính)
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh
doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh
(hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ và hoạt động tài chính) và hoạt động khác.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Phụ lục 03: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
theo mẫu B03 - DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ
trưởng Bộ tài chính)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là Báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nó cung
cấp các thông tin về luồng tiền vào chủ yếu (từ hoạt động kinh doanh, bán tài sản, vay,
nợ phải trả, đầu tư của chủ sở hữu,…) và luồng tiền ra chủ yếu (quá trình hoạt động
kinh doanh, mở rộng hoạt động, thanh toán công nợ hay phân chia cho các chủ sở hữu,
…) trong một kỳ nhất định. Các thông tin này phục vụ cho việc giải thích, đánh giá
các việc đầu tư và huy động vốn quan trọng của một doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là trình bày các khoản thu và chi của
một doanh nghiệp trong kỳ báo cáo trên cả 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài
chính theo cách thức phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân
loại như vậy giúp cho người đọc báo cáo có thể đánh giá được sự ảnh hưởng của mỗi
hoạt động tới tình hình tài chính, tới lượng tiền và khoản tương đương tiền tạo ra trong
kỳ kinh doanh và cũng có thể dùng để đánh giá các mối quan hệ giữa các hoạt động
nêu trên.
Bản thuyết minh báo cáo tài chính (Phụ lục 04: Bản thuyết minh báo
cáo tài chính theo mẫu B09 - DN của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày
20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính)
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống Báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, nhằm mục đích giải thích, bổ sung, thuyết minh những
thông tin, số liệu đã được trình bày trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các thông tin cần thiết khác theo yêu
15
cầu của các Chuẩn mực kế toán cụ thể. Doanh nghiệp cũng có thể trình bày các thông
tin khác nếu cần thiết cho việc trình bày trung thực, hợp lý Báo cáo tài chính.
1.2.3. Quy trình lập Báo cáo tài chính theo kỳ kế toán năm
• Những thông tin chung về doanh nghiệp
Trong Báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải trình bày các thông tin chung
sau:
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp báo cáo.
- Nêu rõ Báo cáo tài chính này là của riêng doanh nghiệp hay báo cáo tổng hợp,
hợp nhất của công ty mẹ, tập đoàn.
- Ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kỳ báo cáo.
- Ngày lập Báo cáo tài chính.
- Đơn vị tiền tệ dùng để lập Báo cáo tài chính
• Bảng cân đối kế toán
Để lập Bảng cân đối kế toán, cần thiết phải sử dụng khá nhiều nguồn tài liệu,
trong đó chủ yếu là các nguồn sau đây:
- Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước (năm trước).
- Sổ cái và sổ chi tiết tài khoản từ loại 1 đến 4 và tài khoản ngoài bảng tương
ứng với các chỉ tiêu được quy định trong Bảng cân đối kế toán của kỳ lập bảng cân đối
kế toán.
- Bảng cân đối tài khoản.
- Các tài liệu liên quan khác (Bảng tổng hợp chi tiết, Bảng kê, …).
Để đảm bảo tính kịp thời, chính xác của các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán
và giúp cho việc lập báo cáo nhanh chóng, dễ dàng cần thiết phải làm tốt những công
việc sau:
- Kiểm kê tài sản trong trường hợp cần thiết và đối chiếu số liệu với các chứng
từ, sổ sách có liên quan. Nếu có chênh lệch phải điều chỉnh cho đúng với kết quả kiểm
kê trước khi lập Báo cáo tài chính.
- Tiến hành kết chuyển cuối kỳ các khoản liên quan giữa các tài khoản, phù
hơpi với quy định và hoàn tất việc ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết, kiểm
tra, đối chiếu số liệu kế toán giữa các sổ sách có liên quan, đảm bảo khớp, đúng (kiểm
tra trong nội bộ và kiểm tra đối chiếu với các đơn vị có quan hệ kinh tế khác). Nếu có
chênh lệch thì tiến hành điều chỉnh trước khi lập báo cáo.
16
- Khóa sổ kế toán, tính ra số dư cuối kỳ của các tài khoản tổng hợp, chi tiết tại
thời điểm lập Bảng cân đối kế toán.
- Phân loại và trình bày toàn bộ tài sản và nợ phải trả của doanh nghiệp thành
ngắn hạn và dài hạn, tùy theo thời hạn của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh
nghiệp hoặc phải được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần nếu không thể dựa
vào chu kỳ kinh doanh để phân chia ngắn hạn và dài hạn.
Trường hợp không phân biệt được thì tài sản và nợ phải trả phải được sắp xếp
theo tính thanh khoản giảm dần.
- Tuyệt đối không được bù trừ các khoản mục tài sản với nợ phải trả cũng như
không được bù trừ số dư giữa 2 bên Nợ và Có của tài khoản thanh toán như tài khoản
131, 331 mà phải căn cứ vào sổ kế toán chi tiết để ghi vào các chỉ tiêu liên quan lên
báo cáo.
- Kiểm tra lại số liệu ghi trên cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán ngày
cuối kỳ trước.
Khi lập, cột số liệu “Số đầu năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ này sẽ
được chuyển từ cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước.
Cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán kỳ này được căn cứ vào số dư của
các tài khoản (cấp 1, 2) trên các sổ kế toán có liên quan tại thời điểm lập báo cáo.
Những chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán có nội dung phù hợp với số dư của các tài
khoản thì căn cứ vào số dư đó để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng theo nguyên tắc: số
dư Nợ của các tài khoản ghi vào các chỉ tiêu tương ứng thuộc phần Tài sản, số dư Có
được ghi tương ứng ở phần Nguồn vốn.
Trừ các trường hợp ngoại lệ sau:
- Các tài khoản liên quan đến Dự phòng (Tài khoản 129, 139, 159, 229) và Hao
mòn (Tài khoản 214) có số dư có nhưng vẫn phản ánh bên Tài sản. được ghi âm nhằm
phản ánh chính xác quy mô Tài sản hiện có ở doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó, các tài khoản 412 – Chênh lệch đánh giá lại tài sản, tài khoản
413 – Chênh lệch tỷ giá hối đoái, tài khoản 421 – Lợi nhuận chưa phân phối, nếu có số
dư Có thì ghi bình thường bên Nguồn vốn, nếu có số dư Nợ thì ghi âm bên phần
Nguồn vốn.
17
Đối với một số chỉ tiêu mang tính tổng hợp như “Hàng tồn kho”, “Các khoản
phải thu”,… do có liên quan đến nhiều tài khoản nên phải tiến hành tổng hợp số liệu
từ các tài khoản có liên quan để lấy số liệu phản ánh lên Bảng cân đối kế toán.
Các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán được ghi nhận trên cơ sở số dư của các
tài khoản liên quan. Đặc điểm của các tài khoản ngoài bảng là ghi đơn, có số dư Nợ
nên kế toán căn cứ trực tiếp vào số dư Nợ cuối kỳ trên sổ cái của từng tài khoản để ghi
vào các chỉ tiêu tương ứng.
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Nguồn số liệu chủ yếu dùng để lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm:
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
- Sổ kế toán chi tiết, tổng hợp trong kỳ của các tài khoản loại 5, 6, 7, 8, 9.
- Các số liệu khác (Thông báo nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, Sổ chi tiết tài
khoản 3334 – Thuế thu nhập doanh nghiệp).
Đối với cột số liệu “Năm trước” trong báo cáo kỳ này, tương tự như việc lập
Bảng cân đối kế toán, được lấy từ cột số liệu “Năm nay” tương ứng của Báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
Cột số liệu “Năm nay” phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo. Việc
lập các chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ở cột “Năm nay” cụ thể
như sau:
- Đối với số liệu về Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, Các khoản giảm
trừ, Giá vốn hàng bán, Doanh thu hoạt động tài chính, Chi phí tài chính, Chi phí bán
hàng, Chi phí quản lý doanh nghiệp, Thu nhập khác, Chi phí khác được lấy từ sổ kế
toán phản ánh những nội dung trên: các tài khoản doanh thu căn cứ vào số phát sinh
Có, các tài khoản chi phí căn cứ vào số phát sinh Nợ.
- Các chỉ tiêu Chi phí thuế thu nhâph doanh nghiệp hiện hành, Chi phí thuế thu
nhập doanh nghiệp hoãn lại: căn cứ vào chênh lệch phát sinh Nợ, Có của các tài khoản
chi tiết có liên quan để lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Các chỉ tiêu khác như doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi
nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh, Lợi nhuận khác, Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, Lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp được tính toán theo hướng dẫn cụ thể trên Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh. Trường hợp lỗ, các chỉ tiêu được ghi âm trên báo cáo.
18
- Riêng chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu được hướng dẫn cách tính toán theo
Thông tư hướng dẫn Chuẩn mực kế toán số 30 – Lãi trên cổ phiếu.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Cơ sở số liệu để lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Bản thuyết
minh báo cáo tài chính, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước.
- Các tài liệu kế toán khác như: sổ kế toán tổng hợp, chi tiết các tài khoản 111 –
Tiền mặt, tài khoản 112 – Tiền gửi ngân hàng, tài khoản 113 – Tiền đang chuyển và
các tài khoản liên quan khác, Bảng phân bổ khấu hao tài sản cố định, các tài liệu kế
toán chi tiết khác.
Để phục vụ cho việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chính xác, nhanh chóng,
kịp thời đòi hỏi việc mở và ghi sổ kế toán phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phân loại sổ sách chi tiết theo từng hoạt động: các sổ kế toán chi tiết các tài
khoản Phải thu, Phải trả, Tiền mặt, Tiền gửi, Tiền đang chuyển phải mở chi tiết cho
từng hoạt động mà doanh nghiệp đang tiến hành (hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài
chính).
- Phân loại các khoản đầu tư ngắn hạn theo thời gian thu hồi: trước khi lập Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, kế toán cần phải xác định các khoản đầu tư ngắn hạn có thời
hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá 3 tháng kể từ ngày mua (thỏa mãn định nghĩa
được coi là các khoản tương đương tiền) để loại trừ ra khỏi các khoản mục liên quan
đến hoạt động đầu tư ngắn hạn. Đối với các khoản đầu tư chứng khoán và công cụ nợ
không được coi là tương đương tiền, kế toán phải căn cứ vào mục đích đầu tư để lập
bảng chi tiết xác định các khoản này phục vụ cho mục đích thương mại hay phục vụ
cho mục đích nắm giữ đầu tư để thu lãi.
Khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần quán triệt các nguyên tắc sau:
- Trình bày luồng tiền theo từng hoạt động phù hợp với đặc điểm kinh doanh
của doanh nghiệp bao gồm: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài
chính.
- Phân biệt các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động trên cơ sở thuần, bao gồm
một số luồng tiền phát sinh trong những trường hợp sau:
+ Thu và chi trả tiền hộ khách hàng.
19
+ Thu và chi tiền đối với các khoản có vòng quay nhanh, thời gian đáo
hạn ngắn (mua bán ngoại tệ hay các khoản đầu tư; các khoản đi vay, cho vay có thời
hạn thanh toán không quá 3 tháng).
- Đối với các giao dịch về đầu tư tài chính không trực tiếp sử dụng tiền hay các
khoản tương đương tiền không được trình bày trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Phải quy đổi các giao dịch ngoại tệ ra thành đồng tiền chính thức sử dụng để
ghi sổ kế toán và lập báo cáo theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm phát sinh giao dịch.
- Doanh nghiệp phải trình bày giá trị và lý do của các khoản tiền và tương
đương tiền có số dư cuối kỳ lớn do doanh nghiệp nắm giữ nhưng không được sử dụng
do có sự hạn chế của pháp luật hoặc các ràng buộc khác mà doanh nghiệp phải thực
hiện.
Khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể sử dụng hai phương pháp: phương
pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
Theo phương pháp trực tiếp, các chỉ tiêu trên báo cáo được lập bằng cách xác
định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền trên các sổ kế toán
theo từng hoạt động và theo nội dung thu – chi được chi tiết.
Đối với phương pháp gián tiếp, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng cách
điều chỉnh lợi nhuận trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh hưởng
của các nghiệp vụ không trực tiếp thu tiền hoặc chi tiền đã làm tăng, giảm lợi nhuận;
loại trừ các khoản lãi, lỗ của hoạt động đầu tư và tài chính đã tính vào lợi nhuận trước
thuế, điều chỉnh các khoản mục thuộc vốn lưu động. Lợi nhuận trước thuế được lấy từ
chỉ tiêu Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế (Mã số 50) trên Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh hoặc được xác định từ chênh lệch giữa phát sinh Nợ, Có của tài khoản 911
trước khi điều chỉnh với tài khoản 821 – Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với cột số liệu “Năm trước”, kế toán tiến hành chuyển từ cột số liệu “Năm
nay” của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước sang.
Cột số liệu “Năm nay” được tính toán theo 2 cách khác nhau tùy theo
phương pháp sử dụng riêng đối với phần lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, hai phần còn lại, việc tính toán là hoàn toàn như nhau cho dù sử dụng
phương pháp nào. Khi lập, căn cứ vào nội dung của các chỉ tiêu được liệt kê trên
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, các số liệu tương ứng được tổng hợp, lấy từ các sổ kế
20
toán chi tiết, tổng hợp và các bảng biểu kế toán có liên quan. Trong đó, các khoản
chi tiền được ghi trong ngoặc đơn.
• Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Để lập Bản thuyết minh báo cáo tài chính, kế toán cần căn cứ vào:
- Sổ kế toán kỳ báo cáo (đặc biệt là các sổ chi tiết).
- Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước.
Khi lập Bản thuyết minh báo cáo tài chính, việc trình bày bằng lời văn phải
ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. Các chỉ tiêu thuộc phần chuẩn mực, chế độ, chính sách
kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống nhất trong cả niên độ kế toán, nếu có sự
thay đổi phải trình bày rõ ràng lý do thay đổi. Việc lựa chọn số liệu và thông tin cần
phải trình bày trong báo cáo này được thực hiện theo nguyên tắc trọng yếu được quy
định tại Chuẩn mực số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính. Đối với việc đánh số các
thuyết minh dẫn từ Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể được thay đổi lại cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp nhưng phải thực hiện đúng yêu cầu và nội dung thông tin cần trình
bày theo quy định. Ngoài ra, tùy thuộc vào yêu cầu quản lý doanh nghiệp có thể trình
bày bổ sung thêm một số thông tin khác nhằm mục đích giúp cho người sử dụng hiểu
được Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Việc lập Bản thuyết minh báo cáo tài chính tùy theo từng nội dung trong báo
cáo được cụ thể như sau:
- Phần I, II: doanh nghiệp căn cứ vào tình hình, đặc điểm thực tế của doanh
nghiệp mình để cung cấp thông tin về phần này.
- Phần III, IV: doanh nghiệp căn cứ vào thực tế áp dụng hệ thống Chuẩn mực
kế toán Việt Nam đã ban hành và hệ thống Chế độ kế toán doanh nghiệp áp dụng tại
doanh nghiệp để trình bày các thông tin được yêu cầu tại phần này trong Bản thuyết
minh báo cáo tài chính.
- Phần V, VI, VII: là phần thông tin bổ sung cho các khoản mục đã được trình
bày trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu thuộc phần này ở cột “Năm trước”,
“Đầu năm” được căn cứ vào cột số liệu “Năm Nay”, “Cuối năm” của báo cáo này kỳ
trước. Đối với cột “Năm nay”, “Cuối năm” của Bản thuyết minh báo cáo tài chính kỳ
21