Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chính sách tiền tệ và công cụ thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.49 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng
của mỗi quốc gia trong nền kinh tế thị trường, có ảnh hưởng lớn đến các biến
số kinh tế vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt
được mục tiêu của chính sách tiền tệ thì và sử dụng công cụ của chính sách
tiền tệ có vai trò cơ bản và quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đang từng
bước được hoàn thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế.
Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn công cụ nào,
sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề
thường xuyên được quan tâm theo dõi và giải quyết đối với nhà hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên
cứu chính sách tiền tệ mà cụ thể là công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học, do yêu cầu của môn môn học
em quyết định chọn đề tài : “ Chính sách tiền tệ và công cụ thực thi chính
sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”.
Trong quá trình tìm hiều và làm bài, em đã phân ra thành nhiều phần
khác nhau để phân tích, do chính sách tiền tệ là rất rộng lớn, nên em phân tích
chính sách tiền tệ trong giai đoạn từ năm 2007-2009. Sau đây là một số vấn
đề em tìm hiểu được, trong quá trình làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong sự đóng góp ý kiến của cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1.1.Khái niệm và vị trí của chính sách tiền tệ:
1.1.1.Khái niệm chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung
ương soạn thảo và thực thi thông qua các công cụ và biện pháp của mình
nhằm đạt được các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm,


tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ có thể hiểu là tổng hòa các phương thức mà NHNN
Việt Nam thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ
trong lưu thông, nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước
trong một thời kỳ nhất định. Mặt khác, chính sách tiền tệ là một phận quan
trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Tùy điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – “chính sách tiền
tệ chống thất nghiệp”) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng
lãi suất làm giảm đầu tư, sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng
thất nghiệp tăng - “chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền”).
1.1.2. Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô cảu Nhà nước thì chính sách
tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp
vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song cũng có quan hệ với các chính sách vĩ mô
khác như chính sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của NHTW đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả hơn.
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
1.2.1. Ổn định giá trị đồng tiền:
Ngân hàng trung ương thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động
đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn
định được xem xét trên hai mặt: sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá
cả hàng hóa và dịch vụ trong nước ) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng
tiền của nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, chính sách tiền tệ hướng tới
ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không vì
như vậy nền kinh tế sẽ không phát triển được, để có thể có thể có tỷ lệ lạm
phát thấp hơn phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, đó là quy luật

của nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Tăng công ăn việc làm :
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc
sử dụng các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh
hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm
thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi mà tăng trưởng
kinh tế đạt được là do kết quả của cuộc cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể
không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực
tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.
Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu
này: Tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, chống suy thoái kinh tế
theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không
vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
1.2.3. Tăng trưởng kinh tế
Luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định chính sách
kinh tế vĩ mô của mình, giữ cho nhịp điệu tăng trưởng kinh tế ổn định, đặc
biệt là ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của
dân chúng đối với chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên(ổn định giá trị
đồng tiền và tạo công ăn việc làm) đạt được một cách hài hòa. Mối quan hệ
giữa các mục tiêu : có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng
xét trong ngắn hạn các mục tiêu này có thể mâu thuẫn nhau thậm chí triệt tiêu
nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hòa thì NHTW trong
khi thực hiện chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác. Mặ khác để biết được các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện
được không, thì NHTW phải chờ trong một thời gian dài( thường là một năm-
khi kết thúc năm tài chính).
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở:
1.3.1.1. Khái niệm:

Nghiệp vụ thị trường mở là những hoạt động mua bán chứng khoán do
NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó
điều tiết lượng tiền cung ứng.
1.3.1.2. Cơ chế tác động:
Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng
lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ
gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự
trữ của các NHTM, nếu bao gồm cả dân chúng thì sẽ làm thay đổi ngay lượng
tiền mặt trong lưu thông.
1.3.1.3. Đặc điểm:
Do vận dụng tính linh hoạt của trường nên đây được coi là một công cụ
rất năng động, hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ vì khối lượng chứng
khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn
kém về chi phí, dễ thay đổi tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua
quan hệ trao đổi nên còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị
trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của
thị trường vốn, thị trường tiền tệ.
1.3.2. Dự trữ bắt buộc:
1.3.2.1. Khái niệm:
Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM phải giữ lại, do
NHTW quy định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu
tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số
tiền gửi của khách hàng để đảm bỏa khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ
thống ngân hàng.
1.3.2.2. Cơ chế tác động:
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền
tệ trong cơ chế tạo tiền của NHTM. Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thì khả năng cho vay của NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay
tăng (giảm ), từ đó làm cho lượng tiền cung ứng giảm (tăng).
1.3.2.3. Đặc điểm:

Đây là công cụ mang nặng tính quản lý của Nhà nước nên giúp NHTW
chủ động điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của công cụ này cũng
rất mạnh ( chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng
rất lớn tới lượng cung tiền). Song tính linh hoạt không cao vì việc tổ chức
thực hiện rất chậm, phức tạp tốn kém và có thể ảnh hưởng không tốt đến hoạt
động kinh doanh của NHTM.
1.3.3. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM.
1.3.3.1 Khái niệm:
Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM là việc NHTW quy định tổng
mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một
thời gian nhất định( một năm) để thực hiên vai trò kiểm soát mức cung tiền
của mình. Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế dựa trên cơ
sở các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, lạm phát…) sau đó NHTW
sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không được cho vay vượt quá hạn mức.
1.3.3.2. Cơ chế tác động:
Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp tới lượng tiền cung ứng,
việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ
thuận chiều với quy mô của lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
1.3.3.3. Đặc điểm:
Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát,được lượng tiền cung ứng khi các
công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của việc quy
định hạn mức tín dụng là rất cao trong nhưng giai đoạn nền kinh tế phát
triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao. Song nhược điểm của công cụ này
cũng rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM làm cho hiệu
quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng
ngoài sự kiểm soát của NHTW và việc này kìm hãm sự phát triển kinh tế
khi nu cầu tín dụng tăng lên.
1.3.4. Quản lý lãi suất của NHTM:
1.3.4.1. Khái niệm:
NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để

hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy
mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được mức cung tiền của mình.
1.3.4.2. Cơ chế tác động:
Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của NHTM làm cho lượng tiền cung
ứng thay đổi theo.
1.3.4.3. Đặc điểm:
Giúp NHTW quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời
kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia chưa có điều kiện phát huy tác dụng
của các công cụ gián tiếp. Song lại dễ mất đi tính khách quan của lãi suất
trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy công cụ này
phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu trong nền kinh tế. Mặt khác
việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động tốn
kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.3.5. Tỷ giá hối đoái:
1.3.5.1. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa
hai đồng tiền, nói cách khác tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này
được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ nước khác.
1.3.5.2. Cơ chế tác động:
Tỷ giá tác động đến hoạt động kinh tế từ hoạt động xuất nhập khẩu đến
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước.
1.3.5.3. Đặc điểm:
NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định hay thả nổi theo quan hệ cung cầu
trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá cố định cũng được thay đổi khi cần thiết, tỷ
giá thả nổi vẫn có sự tác động cua NHTW để cho tỷ giá ở mức hợp lý.
CHƯƠNG 2
VIỆC VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM TỪ 2007-2009.
Trong quá trình tìm hiếu chính sách tiền tệ từ năm 2007-2009, do đặc

điểm của từng thời kỳ là khác nhau, em đã chia thành 3 giai đoạn, giai đoạn 1
từ năm 2007 đến đầu năm 2008, giai đoạn 2 trong năm 2008, giai đoạn 3
trong năm 2009.
2.1. Giai đoạn 1 từ năm 2007 đến đầu năm 2008:
2.1.1. Thách thức trong năm 2007:
Trong giai đoạn này dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều ( theo số
kiệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi tại các NHTM
có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú chuyển cho người cư trú cho
mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi
tiêu tiêu dùng trong nước.) sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng
tiền và kiểm soát lạm phát.
Chính sách tỷ giá với biên độ dao động nhỏ làm cho nền kinh tế chưa
kịp thích ứng với môi trường bên ngoài. Cần thay đổi chính sách biên độ dao
dộng nhỏ bằng chính sách tỷ giá dao động lớn hơn.
2.1.2 Thực trạng:
Từ cuối năm 2006 đến giữa năm 2007, nền kinh tế Việt Nam nổi lên
với nhiều sự kiện và chỉ tiêu hứa hẹn. Khi Việt Nam chính thức là thành viên
của WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào Việt Nam tăng đột
biến (năm 2007 đã lên tới 20 tỷ USD). Tuy nhiên trong năm 2007 nền kinh tế
ảm đạm, đồng USD xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn
nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác bị ảnh hưởng, trong đó
có Việt Nam.
Về nguyên tắc, khi luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng,
Việt Nam đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy vậy NHNN đã
can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND.
2.1.3. Các biện pháp thực hiện:
• Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ
này với mục đích kìm tỷ giá VND so với USD thấp hơn điểm cân bằng
nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND
yếu để trợ giá cho xuất khẩu.

• Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 2 lần so với mức của năm
2006 để hạn chế mức độ dư thừa của vốn khả dụng cảu các tổ chức tín
dụng, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém
hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
• Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát
tín hiệu ổn định lãi suất thị trường.
• Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho
vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
• Tỷ giá linh hoạt với việc nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0.25% lên 0.5% vào
đầu năm và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0.75%.
2.1.4 Kết quả đạt được :
Quy mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không xảy ra các cú sốc
về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của thị trường tài chính
quốc tế :
• Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài
ngày giữa tháng 11/2007, song nhìn chung mặt bằng lãi suất trong năm
ổn định : lãi suất huy động và cho vay của tổ chức tín dụng vẫn giữ
vững ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều
kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính
đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng
31.2%, cả năm 39.6%, cao hơn tốc độ tăng năm 2006 (33.1%); tín
dụng đến cuối tháng 9 tăng 30.9% (cả năm 37.8%), cao hơn nhiều so
với tốc độ tăng 22.8% của năm 2006.
• Tỷ giá danh nghĩa dao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá
nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn
định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác tỷ giá thực thấp
hơn tỷ giá dah nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Diễn biến tổng phương tiện thanh toán mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay
đổi theo chiều hướng tích cực:

• Tỷ lệ tiền mặt trên tổn phương tiện thanh toán giảm từ 19.3% năm 2006
xuống 17.8% năm 2007. Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25.9%
năm 2006 giảm xuống còn 22.6% năm 2007 đã làm cho mức độ đô la
hóa của nền kinh tế giảm.
Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế :
• Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các tổ chức tín dụng có những
diễn biến tích cực, các sản phẩm tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều
lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát
triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn
định xã hội. Bên cạnh đó, cho vay theo chính sách hỗ trợ, cho vay tiêu
dung cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng nhu cầu xã hội.
• Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ giảm
dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần cho thị trường
chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản
cũng được theo dõi giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động
ngân hàng, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bền vững.
Đánh giá: Mặt trái của chính sách thị trường mở là Ngân hàng nhà
nước đã phải cung ra một lượng tiền đồng khổng lồ để mua hết số USD này.
Đồng USD mất giá, VND lên giá, người ta lại dồn dập bán USD mua VND.
Cung tiền đồng lại phải tăng thêm để giữ tỷ giá hối đoái (VND/USD) khỏi
xuống quá thấp, làm cho lượng tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến hết tháng
6/2007 tăng tổng cộng 110%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng
đối với lạm phát. Con số lạm phát lên đến 12.63% so với chỉ số GDP là 8.5%
- nghĩa là về thực chất chúng ta tăng trưởng kinh tế âm. Chính sách tỷ giá
hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Mặc dù ngay từ
đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ dao dộng tỷ giá từ
0.25% lên 0.75% (12/12/2007), nhưng với biên độ dao động không đáng kể,
chưa đủ với thích ứng bên ngoài.
2.2. Giai đoạn 2 trong năm 2008:

2.2.1. Thách thức trong năm 2008:
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra với mức độ tồi tệ nhất
trong vòng 80 năm qua. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuộc khủng hoảng thứ
cấp nhà ở Mỹ đã lan rộng ra toàn cầu. Trong khi nửa đầu năm 2008 lạm phát
trên thế giới tăng mạnh, lên mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Hầu hết
các NHTW các nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất chủ
đạo và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc…,thị trường ngoại tê và thị trường hàng hóa
diễn ra phức tạp. Trong khi Ở trong nước thiên tai diễn ra trên diện rộng, do
diễn biến giá cả thị trường thế giới, do biến động của USD, giá vàng và thị
trường chứng khoán toàn cầu…đã đẩy giá vàng, giá xăng dầu, sắt thép, cà
phê…tăng cao nhất trong vòng 16 năm qua. Trước những diễn biến phức tạp
trên giai đoạn này chính sách tiền tệ được chia thành 2 giai đoạn:
2.2.1.1. Giai đoạn từ đầu năm đến tháng sáu năm 2008:
NHNN Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và
quy định các ngân hàng mua trái phiếu của NHNN. Kèm với đó là hạn chế tăng
trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30%. Ngoài ra còn hàng loạt
các chính sách hỗ trợ thị trường chứng khoán, hạn chế cho vay bất động sản.
Hai quý đầu năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính
thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến rất phức tạp. Giá dầu thô
tăng cao, cùng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị
trường hóa Việt Nam có hiện tượng “bốc hỏa” về giá. So với tháng 12 năm
2007, giá tiêu dùng tăng 17.18% mức cao nhát so với nhiều năm trở lại đây.
Trong đó hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm : lương thực tăng 59.44%,
thực phẩm tăng 21.83%, làm cho chỉ số lạm phát 6 tháng đầu năm tăng lên
mức 2.86% /tháng.
Trước tình hình đó, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt là mục tiêu
chủ yếu của NHNN, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị
trường mở. Đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản…đã tác động mạnh đến thị trường.
Tiền tệ thắt chặt ngay bằng cách NHTW tung ra hơn 20 000 tỷ đồng tín

phiếu buộc các NHTM phải mua vào.
NHNN liên tục tăng lãi suất cơ bản trong 6 tháng đầu năm, đỉnh điểm
vào tháng 6/2008 lên dến 14%. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thêm 1%.
Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện
8.75%/năm 305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 01/02/2008
12%/năm 1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 19/05/2008
14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008
Nguồn: http:// Vneconomy.vn.
Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết và thực
tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của NHNN cho thấy được chính kiến cũng như quyết tâm của
toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Và kết quẩ lạm phát đã bị đẩy lùi từ
đỉnh điểm 3.91%/tháng (tương đương 25.2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn
trong quý và thậm chí còn âm vào các tháng cuối năm. Tuy nhiên NHTM đã phải trải qua
những tháng ngày (đặc biệt là tháng 2 và 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản. Chiến dịch
lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Chỉ trong
vòng vài ngày các ngân hàng đã đẩy lãi suất từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay
được đẩy lên mức tối đa 21%/năm. Lãi suất cho vay rất cao đồng nghĩa với việc các doanh
nghiệp vừa và nhỏ khó có khả năng vay vốn kinh doanh.
2.2.1.2. Giai đoạn từ tháng 6 đến cuối năm 2008:
Sau khi thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHTW đã từng bươc nới
lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. Lãi suất cơ bản
đã hạ dần từ mức 14% xuống 13% (21/10/2008), 12% (5/11/2008) và liên tiếp điều chỉnh 3
lầ trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (21/11/2008 là 11%, 5/12/2008 là 10%, 22/12/2008 là
11%). Cùng với lãi suất cơ bàn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được điều
chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn. Các công cụ trên đã tác
động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền trong nền kinh tế. Tăng trưởng tín
dụng năm 2008 đạt khoảng 23%. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm ổn
định kinh tế vĩ mô.
2.2.2. Đánh giá trong năm 2008:

Như vậy trong năm 2008 NHNN đã thực hiên các biện pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm
chế lạm phát những tháng đầu năm, có nới lỏng vào những tháng cuối năm. Tính đến hết
năm 2008 tổng phương tiện thanh toán đối với nền kinh tế tăng 16.31% so với cuối năm
2007; tổng nguồn vốn huy động từ khách hàng tăng 20.46%, tổng dư nợ cho vay tăng 21%,
tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5.4%. Thực hiện ưu tiên kiềm chế lạm phát, nhưng
NHNN vẫn linh hoạt trong việc điều hành đáp ứng nhu cầu vốn cho nông nghiệp lĩnh vực
xuất khẩu và các dự án quan trọng đang triển khai dở dang.
Xử lý lãi suất hài hòa đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, ngân hàng thương mại
và người vay vốn.
Xem xét việc thành lập các NHTM cổ phần và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân
hàng.
Ngân hàng nhà nước cũng tăng cường thanh tra kiểm soát hoạt động ngân hàng.
Trong 3 tháng giữa năm 2008 NHNN tập trung thanh tra chất lượng tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh.
Về tỷ giá NHNN điều hành theo hướng bám sát quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại tệ. Chính sách điều hành tỷ giá lấy việc khuyến khích xuất khảu làm động lực. Trong
năm 2008 có một số thời điểm xảy ra tình trạng thiếu USD đó là do nhập siêu tăng nhanh
và NHNN điều hành tỷ giá theo chỉ đạo của chính phủ. Theo số liệu của tổng cục thống kê,
tỷ giá bình quân năm 2008 so với 2007 tăng 2.35%.
Mặc dù vậy chính sách tiền tệ cũng đã gây khó khăn trong việc vay vốn cho một số
doanh nghiệp vừa và nhỏ => phải thận trong việc đồng thời sử dụng nhiều công cụ chính
sách tiền tệ ( về mức độ cần thiết về liều lượng cũng như cách thức vận hành).
2.3 Giai đoạn 3 trong năm 2009:
2.3.1. Thách thức trong năm 2009:
• Lạm phát cao trong năm 2008.
• Sư đảo chiều của nguồn vốn đầu tư nước ngoài (theo hướng giảm).
• Thâm hụt cán cân thương mại (12.783 tỷ USD).
• Hỗ trợ lãi suất để chống suy giảm kinh tế gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền
kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND.
• Đối mặt với nhiều thách thức khó lường của cuộc khủng haong kinh tế thế giới.

2.3.2. Các biện pháp đã thực hiện:
Trước những tác động bất lợi như trên, NHNN đã thực thi chính sách tiền tệ một
cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều gải pháp khác để giữ ổn định thị trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong
xã hội tiếp cận được với nguồn vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần các gói giải
pháp kích cầu của chính phủ cũng như tạo diều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và
hiệu quả, NHNN đã hạ lãi suất cơ bản tử 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ
11% xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên thị trường ngoại hối 6 tháng
đầu năm 2009 có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại
tệ.
Mặt khác do tác dụng phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc
điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà
chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ tăng mạnh, tình hình
cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để đáp ứng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết
liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán của các NHTM từ +/- 3%
lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Phối hợp các biện pháp điều tiết cung
cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết
yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống của người dân; điều hoà lượng ngoại tệ trên thị
trường liên ngân hàng.
Đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ tài chính bán nguồn ngoại tệ thu
được từ phát hành trái phiếu chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập
khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay ngoại tệ.
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối được tăng cường như phối hợp với
các bộ ngành kiểm tra, xử lý vi phạm các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng
ngoại tệ, mua bán ngoại tệ trái phép.
Phối hợp với Hiệp hội ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ kể từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác

động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường giữ cho thị trường ổn định.
Tuy nhiên diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho
thực thi chính sách tiền tệ như thâm hụt cán cân thương mị không được cải thiện mà vẫn
tiếp tục gia tăng ( theo số liệu Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
cả nước đạt 113.6 tỷ, giảm 14.7% so với cùng kỳ năm 2008).
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10.95 tỷ USD bằng 21.3% giá trị
xuất khẩu, nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài giảm mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm;
nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu…do vậy dẫn đến thâm hụt cán
cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 thâm hụt ngân sách ở mức
6.5% GDP, buộc phải vay nợ nhiều qua đó gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập mâu thuẫn nhau: Tốc độ
tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND
vẫn khan hiếm biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về lý thuyết làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều
tiết kinh tế vĩ mô thì lãi suất lại thấp gây áp lực giảm giá VND, kích thích nhu cầu sử dụng
đồng, tăng nhu cầu tín dụng gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, làm áp lực cho NHNN
phái cung ứng tiền đồng. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có tác động bất
lợi đến tỷ giá.
Trước tình hình này, 26/11/2009, NHNN đã kịp điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công
bố lên 17 980 VND/USD, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, yêu cầu các tổ
chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. Các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ
từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân
hàng cam kết đủ ngoại tệ cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây
là giải pháp mang tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy
trì tăng trưởng kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn
định thị trường ngoại hối.
2.3.3. Kết quả đạt được trong năm 2009:

Giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản
xuất, làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và thị trường tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ một cách linh hoạt phối hợp
đồng bộ nhiều giải pháp khác để giữ ổn định thị trường.
Thực tế các biện pháp điều hành của NHNN đã tạo tăng trưởng kinh tế và thực hiện
dự toán thu chi ngân sách, trong đó số thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán.

CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1.Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN:
3.1.1.Một số lưu ý khi sử dụng chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ cũng có những tác động trái chiều của nó và để giảm bớt những
tác động ấy cần lưu ý một số điểm sau:
• Thận trọng khi đồng thời sử dung đồng thời nhiều công cụ điều hành chính sách
tiền tệ: Việc sử dụng đồng thời nhiều công cụ chính sách tiền tệ là việc làm bình
thường, trên lý thuyết và cả thực tiễn, không có nguyên tắc nào quy định vấn đề
này. Tuy nhiên thị trường là nơi rất nhạy cảm, chính là nơi phản ánh sức sống của
nền kinh tế. Vì thế, phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự
vận động của tiền tệ, trước khi vận hành cần quan sát diễn biến, dự kiến những
phản ứng có thể có của thị trường để cân nhắc về laoij công cụ sử dụng, về mức độ
cần thiết, liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những
giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào thế nguy hiểm.
• Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc và sử dụng nhất. Mặc dù mỗi
công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác
nhau, nhưng dù thế nào thì tín hiệu cuối cùng của sau khi phát ra cũng dẫn đến sự
thay đổi về giá- lãi suất. Vì vậy, sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết.
• Ngoại tệ mua vào cần được sử dụng một cách có hiệu quả: ngoại tệ tập trung vào

tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và
hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Khi phát hành tiền VND để mua
USD phải luôn đi kèm giải pháp hút tiền Đồng về như sử dụng công cụ nghiệp vụ
thị trường mở, công cụ lãi suất…Ngoài ra vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của
Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN, không
vì lợi ích riêng mà để phân tán gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
• Nhận định đúng vai trò của chính sách tiền tệ để có hướng tác động thích hợp đến
các thị trường. Mỗi thị trường đều có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và có
đặc điểm riêng có của nó, tuy nhiên thị trường nào có tỷ suất lợi nhuận cao thì hút
tiền mạnh hơn và do vậy giá cả hàng hóa trên thị trường này sẽ tăng lên và ngược
lại. Nền kinh tế muốn phát triển các thị trường phải vận hành đồng bộ, có sư liên
thông chặt chẽ với nhau. Muốn như vậy các giải pháp đưa ra đúng lúc, đúng thời
điểm, mọi sự can thiệp không kịp thời hay vội vàng đều làm ngưng trệ hoạt động
trên các thị trường và muốn thị trường hồi phục lại thì không dễ dàng.
Tóm lại, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân
hàng thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế thường xuyên. Để vận hành công cụ một
cách hiệu quả luôn phải tuân theo những nguyên tắc nhất định song không thể rập khuôn,
máy móc mà cận sự sang suốt linh hoạt và nhạy bén.
3.1.2. Đánh giá chung về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ theo quy định của Luật Ngân hàng: ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đã quy định,
trong những năm qua việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN luôn hướng vào các
mục tiêu đó. Hàng năm, thông qua các công cụ chính sách tiền tệ NHNN điều tiết khối
lượng tiền cung ứng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra. Nếu trước đây
NHNN sử dụng công cụ điều tiết trực tiếp (hạn mức tín dụng), đến nay đã chuyển dần sang
sử dụng công cụ điều tiết gián tiếp (tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, thị trường mở). Cùng với
công cụ trên tỷ giá và lãi suất cũng trở thành công cụ hỗ trợ có hiệu quả trong việc thực
hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Qua số lieu bảng 1 cho thấy, tổng phương tiện thanh
toán cung ứng cho nền kinh tế phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá cả qua

các năm. Trong điều kiện lạm phát thấp, cung ứng tổng phương tiện thanh toán cho nền
kinh tế tăng lên (từ năm 2002 đến 2005 lần lượt là 25.6%-24.94%-30.9%-37.6%), ngược
lại chỉ số giá cả tăng lên (năm 2007 tăng 12.63% so với năm 2006) thì NHNN thực hiện
thắt chặt tiền tệ ( năm 2008 tổng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế giảm chỉ còn 17%
so với năm 2007).Năm 2009 tỷ lệ làm phát ở mức 6.88% nằm trong tầm kiểm soát của
chính phủ.
Bảng 1 Diễn biến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 2002 - 2009
Đơn vị : tỷ USD,%
Chỉ số 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Xuất khẩu 16.7 20.2 26 32.23 39.6 48.4 62.9 56.6
Nhập khẩu 17.75 22.78 31.52 36.88 44.41 60.8 80.4 68.83
Nhập siêu 1.05 2.58 5.52 4.65 4.81 12.4 17.5 12.23
GDP (%) 7 7.3 7.8 8.4 8.2 8.3 6.23 5.32
CPI (%) 4 3 9.5 8.4 6.6 12.63 22.97 6.88
Tổng phương tiện thanh(%) 25.6 24.94 30.9 37.6 30.5 43.7 17 37
Kiều hối 2.15 2.7 3.2 4.0 5.2 6.5 8.0 6
ODA giải ngân 1.53 1.42 1.65 2.1 1.78 2 2 3
FDI thực hiện 2.02 1.89 1.6 2.2 4 4.6 11.5 10
FII 1.3 5.7 8.0 5
Nguồn: Tổng cục Thống kê, báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF & tính toán.
Nhìn chung, NHNN đã kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng phù hợp với mức
tăng trưởng của nền kinh tế và chỉ số giá cả; đã đổi mới trong việc điều hành các công cụ
chính sách tiền tệ: chuyển dần sang công cụ gián tiếp một cách linh hoạt và có sự phối hợp
đồng bộ giữa các công cụ chính sách tiền tệ với nhau. Hiệu quả điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN ngày càng được nâng lên đã góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh xã hội.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Trong điều kiện nước ta đang hội nhâp kinh tế quốc tế và trong bối cảnh nền kinh
tế thế giới đang sụt giảm, thì việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ cần chủ
động linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và kiểm soát được thị trường là

một trong những giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả. Sau đây, em xin đưa ra
một số những giải pháp như sau:
3.2.1. Điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ:
3.2.1.1. Duy trì việc tự do hóa công cụ lãi suất:
Để NHNN thực sự là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng, cần
tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng: sử dụng lãi suất mà ngân hàng Nhà
nước công bố từng thời kỳ như lãi suất cơ sở để các NHTM dựa vào đó mà đưa ra mức lãi
suất phù hợp; lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị
trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc huy động vốn và cho vay của NHTM trên
thị trường.
3.2.1.2. Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc:
Theo hướng chủ động và linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát
tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và
hiệu quả. Trong điều kiện lạm phát năm 2007 và 2008 NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các tổ chức tín dụng từ 5% lên 10% và 11% là cần thiết để chống lạm phát; ngược
lại trong bối cảnh ngăn chặn suy giảm kinh tế trong nước do ảnh hưởng khủng hoảng tài
chính toàn cầu, do đó cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tạo điều kiện nâng cao việc sử dụng
vốn khả dụng.
3.2.1.3. Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo-
lãi suất liên ngân hàng định hướng. Mở rộng kết nạp thành viên tham gia thị trường mở; đa
dạng hàng hóa giao dịch trên thị trường mở. Tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ liên
ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua lại giấy tờ có giá.
3.2.1.4. Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt:
Điều hành chính sách tỷ giá theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, trong
mối quan hệ hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soat của Nhà nước đảm bảo các cân đối vĩ
mô: kiểm soát lạm phát; kích thích xuất khẩu;hạn chế nhập khẩu; khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Tao điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống
ngân hàng, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
3.2.2. Nâng cao tính độc lập và trách nhiệm của NHNN:

Đây là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập trách nhiệm của NHNN phải
thích ứng với mức độ hội nhập tài chính quốc tế, phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta.
Do vậy, cần bổ sung sửa đổi Luật NHNN theo hướng thêm chức năng nhiệm vụ quyền hạn
cho NHNN trong việc xây dựng dự án chính sách tiền tệ. Chủ động sắp xếp cơ cấu tổ chức
và nhân sự ; đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn; có chế độ đãi
ngộ thu hút nhân tài.
3.2.3. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ :
Tiếp tục tạo hàng hóa và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ, mở rộng các
thành viên tham gia thị trường, nâng cao vai trò điều tiết và hướng dẫn của NHNN trên thị
trường tiền tệ. Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển,
khi ấy thị trường tiền tệ là kênh dẫn vốn hiệu quả trong cơ chế tác động của chính sách tiền
tệ.
3.2.4. Sự phối hợp của chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách
kinh tế vĩ mô khác:
Để góp phần nâng cao hiệu quả diều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp
giữa các chính sách với nhau. Vừa tạo điều kiện phát huy nội lực trong nước vừa tác dung
thu hút nguồn lực nước ngoài nâng cao chất lượng của thị trường tài chính. Đặc biệt trong
bối cảnh diễn biến phức tạp của kinh tế trong nước và thế giới hiện nay sự liên kết giữa các
chính sách là rất cần thiết,để chống suy giảm kinh tế và kiểm soát lạm phát.
KẾT LUẬN:
Như vậy chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ của chính sách tiền tệ có
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế
Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng công dụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất
lớn tới sự phát triển của nền kinh tế thế giới ở từng thời kỳ cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường thì việc áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ đòi hỏi phải ngày
càng phù hợp và hiệu quả hơn nữa. Với xu hướng thị trường tài chính ngày
càng hiện đại thì việc sử dụng các công cụ điều hành gián tiếp là rất cần thiết.
Trong khi ớ nước ta các công cụ này mới được đưa vào sử dụng nên chưa

phát huy hết được vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của
nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc
hoàn thành các công cụ điều hành. Do đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu về các
công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn to lớn, phải
được coi là một quá trình cần có sự đầu tư và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bản dịch “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính”
(Frederich s.Mishkin)-NXB Khoa học và kỹ thuật-2001.
2. Giáo trình “ Nghiệp vụ ngân hàng trung ương ”
TS. Hoàng Xuân Quế chủ biên. NXB Thống kê- 2005.
3. Giáo trình “Nguyên lý kinh tế vĩ mô”
Trường Đại học kinh tế Quốc dân- NXB Lao động-2007.
4. Giáo trình “Tài chính quốc tế”
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến-NXB Thống kê.
5. Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi-2004).
6. Thời báo Ngân hàng, Thời báo kinh tế Việt Nam.
7. Trang web: .
www.gso.gov.vn.
www.mof.gov.vn.
www.sbv.gov.vn.




MỤC LỤC

×