Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

luận văn quản trị khách sạn du lịch Phát triển bền vững du lịch Cát Bà giai đoạn 2009 – 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.78 KB, 84 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UNWTO: Tổ chức du lịch thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
IUCN: Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
WCED: Ủy ban thế giới về phát triển và môi trường
WWF: Quỹ bảo tồn động vật hoang dã
SNV: Tổ chức phát triển Hà Lan
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
KDTSQTG: Khu Dự trữ sinh quyển thế giới
PTBV: Phát triển bền vững
BCHTW: Ban chấp hành trung ương
BVMT: Bảo vệ môi trường
KTXH: Kinh tế xã hội
TNTN: Tài nguyên thiên nhiên
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội/Giá trị gia tăng
SWOT: Ma trận điểm mạnh – điểm yếu – cơ hội – thách thức
S: Điểm mạnh
W: Điểm yếu
O: Cơ hội
T: Thách thức
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, du lịch đã và đang ngày càng đóng góp rất nhiều trong việc phát triển kinh
tế xã hội (KTXH) của một quốc gia. Ngành công nghiệp "không khói" này tuy còn mới mẻ
xong đã tạo được những động lực đáng kể cho tăng trưởng kinh tế của một địa phương hay
một quốc gia.
Trong chúng ta không ai là chưa từng nghe đến danh thắng Cát Bà, một hòn đảo
ngọc đẹp nức tiếng nằm ở vùng biển phía đông Hải Phòng. Nơi đây đó được UNESCO
chính thức công nhận là Khu Dự trữ Sinh quyển thế giới (KDTSQTG) vào năm 2003. Tại
đây có rất nhiều loài động, thực vật quý hiếm không chỉ của Việt Nam mà thậm chí của cả


thế giới. Chính vì thế, Cát Bà đang ngày càng thu hút được thêm nhiều du khách cả trong và
ngoài nước đến tham quan, du lịch.
Tuy nhiên, sự “bùng nổ” về du lịch ở đây nếu không được kiểm soát sẽ là hiểm họa
của tương lai. Nhiều yếu tố cho thấy sự bền vững của phát triển du lịch ở Cát Bà đang bị đe
dọa, điển hình là một số tồn tại trong quá trình phát triển như: (1) Chưa nhận thức hết được
vị trí, tính chất đặc thù và tác động nhiều mặt tích cực tới cả xã hội và môi trường từ hoạt
động du lịch nên quản lý còn nhiều bất cập. (2) Nội dung còn chưa phong phú, ít sản phẩm
du lịch. (3) Các ngành dịch vụ phục vụ du lịch còn yếu kém. (4) Trình độ nguồn nhân lực
phục vụ du lịch còn chưa cao. Chính những điều đó đã làm hạn chế rất nhiều sự phát triển
của du lịch Cát Bà, đặc biệt là mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Trong bối cảnh đó, đề
tài “Phát triển bền vững du lịch Cát Bà giai đoạn 2009 – 2015” ra đời.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài của tôi mong muốn được đi sâu tìm hiểu những điều còn bất cập trong quản lý
phát triển du lịch của Cát Bà và cùng với việc nghiên cứu các tồn tại trong thực trạng đó, tôi
muốn đề xuất một số giải pháp để góp phần phát triển du lịch Cát Bà theo hướng bền vững
với hy vọng góp được một phần nhỏ bộ vào việc gìn giữ một viên ngọc quý của Biển Đông.
3. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay tình trạng phát triển du lịch ở Cát Bà vẫn còn chưa được các cơ quan trung
ương quy hoạch một cách cụ thể nên vẫn còn phát triển tràn lan, thiếu bền vững. Đề tài này
sẽ tập trung nghiên cứu các thực trạng phát triển du lịch ở Cát Bà trong giai đoạn 2006 –
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
2009, đánh giá dưới góc độ các chỉ tiêu du lịch bền vững (DLBV), từ đó tập trung đưa ra
các giải pháp phát triển DLBV ở giai đoạn 2009 – 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp thống kê , thu thập và phân tích các số liệu thứ cấp
• Phương pháp so sánh chuỗi
• Phương pháp chuyên gia: trên cơ sở nhận định của các chuyên gia về các mặt, các lĩnh
vực của phát triển du lịch, đặc biệt là theo hướng bền vững.
• Phương pháp tổng hợp và phân tích, cách tiếp cận, giải quyết vấn đề dựa trên thực trạng

phát triển du lịch, các quy luật cũng như chu kỳ phát triển du lịch… để suy luận.
5. Kết quả dự kiến và những đóng góp của đề tài
Dựa trên khung lý thuyết đã được tìm hiểu và trình bày về phát triển DLBV và tác
động của DLBV tới phát triển KTXH, qua những đánh giá về thực trạng phát triển của du
lịch Cát Bà trong thời gian gần đây, tác giả tổng kết lại những nhân tố ảnh hưởng tới tính
bền vững trong phát triển du lịch. Sau khi tổng hợp lại các nhân tố đó, tác giả sẽ đưa ra
những giải pháp của cá nhân, nhằm phát huy những nhân tố ảnh hưởng tích cực và giảm
thiểu những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực, đồng thời là những giải pháp nhằm phát triển bền
vững (PTBV) du lịch Cát Bà.
6. Kết cấu dự kiến của đề tài
Đề tài gồm 3 phần chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
Chương II: Thực trạng phát triển du lịch Cát Bà giai đoạn 2006 – 2009
Chương II: Giải pháp phát triển bền vững du lịch Cát Bà giai đoạn 2009 – 2015
Phân tích về vấn đề phát triển du lịch, đặc biệt là PTBV du lịch Cát Bà đã được
không ít các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về du lịch nghiên cứu bởi công việc này muốn
thành công đòi hỏi nỗ lực và sự phối hợp của rất nhiều các cơ quan, các bộ, các ngành chứ
không phải của riêng ai. Tôi hy vọng những nghiên cứu này của mình sẽ đóng góp được
những kết quả nhất định trong công cuộc PTBV du lịch ở thành phố Cảng quê hương tôi.
Tuy nhiên, do năng lực và kiến thức xã hội còn nhiều hạn chế nên chắc chắn đề tài của tôi
còn rất nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các bạn, các thày cơ và
các nhà chuyên môn.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thày giáo – ThS Vũ Cương – người
đã hướng dẫn và chỉ bảo tôi rất tận tình trong suốt quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài.
Đồng thời, tôi xin được cảm ơn các cơ, các chú, các anh, các chị ở Sở Kế hoạch và Đầu tư
Hải Phòng, Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Hải Phòng, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch
(Tổng Cục du lịch) đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A

Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
I – Khái niệm về phát triển du lịch bền vững
1. Khái niệm về phát triển bền vững
Lý thuyết về PTBV xuất hiện giữa những năm 1980 và chính thức được đưa ra tại
Hội Nghị của Ủy Ban Thế Giới về phát triển và môi trường (WCED) nổi tiếng với tên gọi
Ủy Ban Brundlant năm 1987. Tại đây, định nghĩa về PTBV đã được đưa ra như sau “PTBV
được hiểu là hoạt động phát triển kinh tế nhằm đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ mai sau”.
Một thời gian sau, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm bổ sung “PTBV là các hoạt
động phát triển của con người nhằm phát triển và duy trì trách nhiệm của cộng đồng đối với
lịch sử hình thành và hoàn thiện các sự sống trên Trái đất” hay định nghĩa của tổ chức
IUCN “PTBV phải cân nhắc đến hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không
tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch ngắn
hạn và dài hạn đan xen nhau” – điều này khẳng định rằng mục tiêu phát triển KTXH của
hầu hết các nước trên thế giới phải được xác định trong mối quan hệ bền vững, tuy nhiên
khái niệm này mới chỉ chú trọng đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên chứ chưa đưa ra
được bức tranh toàn diện về PTBV.
Mặc dù còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm về PTBV ở những góc độ khác
nhau, tuy nhiên, trong suốt thời gian qua khái niệm của WCED được sử dụng rộng rãi hơn
cả, nó được dùng làm chuẩn mực để so sánh các hoạt động phát triển có trách nhiệm đối với
môi trường sống của con người.
Nội hàm khái niệm PTBV được tái khẳng định ở Hội Nghị Rio – 92, theo đó, PTBV
được hình thành trong sự hòa nhập, đan xen và thỏa mãn của ba hệ thống tương tác là hệ tự
nhiên, hệ kinh tế và văn hóa – xã hội, khái niệm này được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội Nghị
Johannesburg – 2002 đó là: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường (BVMT)”.
Việt Nam là một quốc gia có đường bờ biển trải dài hơn 3200km, với hệ động thực

vật phong phú, cảnh quan tự nhiên đẹp và hùng vĩ, tuy nhiên trải qua lịch sử hơn nghìn năm
với bao cuộc chiến tranh, Việt Nam đã bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng cả
tới những tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và những tài nguyên nhân văn của chúng ta, trước
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
tình hình đó, BVMT để đảm bảo PTBV đã và đang được đưa ra một cách cấp thiết trong
quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Chỉ thị số 36/CT của BCHTW Đảng ngày
25/06/1998 đã xác định “ mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho PTBV dựa chủ yếu vào
hoạt động BVMT”. Đồng thời, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng VIII (1996) cũng đã
đề cập đến khía cạnh “BVMT sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một cấu thành không
thể tách rời của PTBV ”.
2. Phát triển du lịch bền vững và những yếu tố nội hàm
2.1. Các quan niệm về du lịch
Đã từ rất lâu trong lịch sử loài người, du lịch đã được ghi nhận như một hoạt động
thiết thực gắn liền với hoạt động vui chơi giải trí của con người, và có lẽ chính từ nhu cầu
được di chuyển, được khám phá những vùng đất mới như thế mà các nhà thám hiểm mới có
cơ hội tìm ra được những vùng đất mới, những châu lục mới Ngày nay, hoạt động du lịch
đã trở thành một trong những hiện tượng KTXH không thể thiếu trong đời sống con người,
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả những nước đang phát triển, điều này đã trở
thành một xu thế.
Khái niệm ngắn nhất về du lịch được 2 tác giả Ausher và Nguyễn Khắc Vận nêu ra,
theo đó: “Du lịch là nghệ thuật đi chơi của cá nhân” – Ausher hay “Du lịch là sự mở rộng
không gian văn hóa của con người” – Nguyễn Khắc Vận. Trong Từ điển Tiếng Việt của
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1995) có nêu “Du lịch là đi chơi cho biết xứ người”.
Theo nhà khoa học Guer Freuler (Đức) “Du lịch là một hiện tượng của thời đại
chúng ta, dựa trên thị trường về nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự đổi thay của môi trường
xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển những tính chất đối với vẻ đẹp của thiên
nhiên”.
Hai học giả Thụy Sỹ là Hunziker và Kraff coi “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ
và hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại

những nơi không phải là nơi cư trú và nơi làm việc thường xuyên của họ”.
Nhà kinh tế học Kalfiotis cho rằng “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của các cá nhân
hoặc tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức và do đó
tạo nên các hoạt động kinh tế”.
Để chỉ ra được cụ thể khía cạnh kinh tế của hoạt động du lịch, nhà kinh tế học Picara
Edmond đã định nghĩa như sau “Du lịch là tổng hòa việc tổ chức và chức năng của nó
không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
và của những khách vãng lai đến với một túi đầy tiền, tiêu dùng trực tiếp (trước hết trong
khách sạn) và giao tiếp cho các chi phí của họ nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí”.
Trong giáo trình thống kê du lịch, tác giả Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải cho
rằng “Du lịch là một ngành KTXH, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan giải
trí, nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu
khoa học và các nhu cầu khác”.
Năm 1963, tại Hội Nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp ở Roma (Italy) các nhà khoa
học tham gia đã thống nhất đưa ra một định nghĩa có tính quốc tế về du lịch và về sau được
UNWTO chính thức thông qua là “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các
hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân và tập thể ở bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến
không phải là nơi làm việc của họ”.
Đến năm 1991, tại Hội thảo quốc tế về lữ hành và thống kê du lịch, UNWTO đã đưa
ra thêm một định nghĩa về du lịch, theo đó “Du lịch được hiểu là hoạt động của con người đi
tới một điểm ở bên ngoài môi trường sống thường xuyên của mình trong một thời gian nhất
định và chuyến đi đó của họ không nhằm mục đích kiếm tiền tại nơi họ đến tham quan”.
Ở nước ta, theo quan điểm được các học giả biên soạn Bách Khoa toàn thư Việt Nam
thì khái niệm du lịch được hiểu theo hai nghĩa riêng biệt:
- “Du lịch được coi là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người
ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem di tích lịch sử, công trình văn hóa
nghệ thuật ”.

- “Du lịch được coi là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt:
nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần
làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc
mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là
hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ”.
Cho đến nay, không ít người, trong đó có cả những cán bộ nhân viên hiện đang công
tác trong ngành du lịch coi du lịch đơn thuần là một ngành kinh tế và mục tiêu quan trọng
hàng đầu của du lịch là phải đem lại hiệu quả kinh tế cao và như vậy đồng nghĩa với việc
tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh du lịch, đem lại doanh thu
trước mắt. Người ta dường như đã quân rằng “Du lịch là một hiện tượng xã hội sâu sắc, nó
góp phần nâng cao dân trí và phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tình
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
đoàn kết ” do vậy toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát
triển; đây là một hoạt động kinh tế tổng hợp và có tính xã hội hóa rất cao
2.2. Quan niệm về phát triển du lịch bền vững
Phát triển bền vững đã và đang được coi là một mục tiêu phát triển của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Thực hiện một hoạt động bền vững không mang lại kết quả nếu hoạt
động đó đặt trong khuôn khổ không bền vững. PTBV được đặt ra trong tất cả các hoạt động
của nền kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực du lịch. Hội nghị Bộ trưởng du lịch các nước Đông Á
– Thái Bình Dương tổ chức tại Việt Nam tháng 6 năm 2004 đưa ra tuyên bố Huế về bảo tồn
và phát huy các giá trị về văn hóa. Cùng với đó, khái niệm hoạt động bền vững trong hoạt
động du lịch được hiểu là “các hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng
nhu cầu du lịch của thế hệ mai sau”; “du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá hủy môi
trường mà tương lai của du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết cấu
xã hội của cộng đồng địa phương” (Atonio Machiado: Tourism and sustainable
development). Trước đó, tại Hội nghị về môi trường và phát triển của LHQ tại Rio De
Janero năm 1992, UNWTO đã đưa ra định nghĩa “DLBV là việc phát triển các hoạt động du
lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn

quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du
lịch trong tương lai. DLBV sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các
nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn
vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và hệ thống hỗ trợ cho
cuộc sống con người”. Định nghĩa này dài nhưng hàm chứa đầy đủ nội dung, các hoạt động,
các yếu tố liên quan đến DLBV. Trong khuôn khổ chuyên đề, tôi xin được sử dụng khái
niệm này của UNWTO.
Ở Việt Nam, “phát triển bền vững” được xem là mục tiêu chiến lược phát triển
KTXH của đất nước. Nghị Quyết Đại hội lần thứ IX ở Đảng CSVN đã xác định chiến lược
phát triển đất nước trong 20 năm sắp tới là “Phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi liền với BVMT”; “ sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải
thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình và dự án phát triển KTXH”.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có định hướng tài nguyên rõ rệt và phát triển của
du lịch luôn gắn liền với môi trường trong mối quan hệ tác động qua lại rất mật thiết với
nhau. Bản thân sự phát triển của du lịch đòi hỏi phải có sự PTBV và ngược lại. Quan điểm
về phát triền DLBV là sự cụ thể hóa quan điểm về PTBV trong lĩnh vực phát triển du lịch,
theo đó muốn phát triển DLBV thì mọi hoạt động sử dụng, khai thác và quản lý các giá trị
tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu du lịch, cần quan tâm đến các lợi ích kinh
tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn, tôn tạo các nguồn tài nguyên du
lịch và BVMT, duy trì sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển du lịch trong tương lai, góp phần
nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư địa phương, giúp cho họ thấy được lợi ích của
phát triển du lịch và họ cùng bắt tay vào tham gia đóng góp cho phát triển du lịch địa
phương mình.
Trong bối cảnh phát triển hội nhập của đất nước với khu vực và quốc tế, sự suy giảm
về tài nguyên, môi trường; mức sống của người dân còn thấp và nhiều khó khăn, quan điểm
về PTBV càng có ý nghĩa đặc biệt đối với hoạt động du lịch trong điều kiện Việt Nam có
nhiều tiềm năng thuận lợi để phát triển nhanh du lịch với đặc tính xã hội hóa cao. Chính vì

vậy, xuyên suốt trong văn kiện các Đại hội Đảng gần đây, một trong những quan điểm phát
triển chiến lược của du lịch Việt Nam là “phát triển DLBV, theo định hướng du lịch sinh
thái và du lịch văn hóa – lịch sử, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, góp phần tích cực trong
việc giữ gìn, BVMT tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng các sản phẩm du
lịch đặc thù, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới” (Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010).
2.3. Sự khác nhau giữa phát triển du lịch và phát triển du lịch bền vững
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Hộp: sự khác nhau giữa du lịch và du lịch bền vững
Du lịch Du lịch bền vững
1. Động cơ: tăng doanh thu, chủ yếu để
ý đến vấn đề lợi nhuận cho các nhà đầu
tư, các doanh nghiệp…
2. Trong lúc phát triển, ít quan tâm đến
các tác động tiêu cực tới các tài nguyên
môi trường.
3. Ít quan tâm đến việc bảo tồn và quản
lý các nguồn tài nguyên du lịch mà chỉ
quan tâm đến việc làm sao khai thác
chúng cho có hiệu quả nhất.
4. Thường ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ (KHCN) để khai thác các
nguồn tài nguyên một cách tối đa.
5. Mối quan hệ giữa con người – tài
nguyên và môi trường còn nhiều hạn
chế.
1. Động cơ: mang lại lợi ích không chỉ
cho riêng ngành du lịch mà còn đem lại
lợi ích dài lâu cho toàn thể xã hội.

2. Trong lúc phát triển, việc quan tâm
đến các tác động của hoạt động du lịch
tới các tài nguyên môi trường được đặt
lên hàng đầu.
3. Luôn kết hợp việc khai thác các tài
nguyên du lịch với việc bảo tồn và quản
lý chúng một cách có hiệu quả nhất, để
lại cho thế hệ mai sau.
4. KHCN luôn được ứng dụng và cập
nhật nhanh nhất để bảo vệ và khai thác
các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả
nhất, sao cho đảm bảo bền vững cho
tương lai.
5. Mối quan hệ này trong phát triển
DLBV là hết sức chặt chẽ. Nó luôn gắn
liền với nhau.
Nguồn: Du lịch bền vững
2.4. Các yếu tố cơ bản của phát triển du lịch bền vững
Dựa theo một số nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tôi đã tổng hợp lại
được những đặc điểm của DLBV như sau:
• Số lượng các khu, điểm du lịch được bảo vệ. Theo UNWTO thì nếu số lượng này >50% thì
được đánh giá là bền vững.
• Áp lực của môi trường lên các điểm du lịch.
• Sức chứa của khu du lịch, nhất là vào thời gian cao điểm. Nếu khu du lịch không bị quá tải
vào thời gian cao điểm, vào “mùa du lịch” thì cũng là một nhân tố để đánh giá du lịch đó là
bền vững.
• Lượng khách đến tham quan: thể hiện tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch (cân đối lượng
khách đến tham quan và sức chứa của khu du lịch để đánh giá tính bền vững của ngành).
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương

• Số lượng khách đến lần thứ hai. Số lượng khách chính là động cơ nảy sinh nhu cầu du lịch.
Nếu tỷ lệ này tăng, chứng tỏ hoạt động du lịch tại điểm đó đạt hiệu quả, có tính thu hút
mạnh và có khả năng bền vững.
• Tác động của du lịch đối với xã hội, thể hiện trên cả hai mặt tiêu cực và tích cực. Chúng ta
phải xem xét các tác động này trên cả 3 mặt văn hóa – xã hội – môi trường.
• Sự tham gia của cộng đồng địa phương. Nếu hoạt động du lịch ở một địa phương mà thu hút
được sự tham gia của đông đảo cộng đồng dân cư địa phương thì tức là hoạt động đó đã có
hiệu quả, bởi chắc chắn hoạt động đó đã mang lại lợi ích cho nhân dân nơi đó. Điều này
cũng ảnh hưởng đến việc đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch nơi đó.
• Quy trình quy hoạch và phát triển. Tất nhiên mọi hoạt động phát triển du lịch đều cần có
bàn tay của chính quyền, đều phải dựa trên quy hoạch thì mới có thể phát triển một cách
hiệu quả và bền vững được.
• Hiệu quả về kinh tế, dựa trên hiệu quả về kinh tế để người ta xem hoạt động du lịch ở một
địa phương có thể kéo dài hay không, bởi nếu nó thực sự mang lại hiệu quả về kinh tế thì nó
sẽ thu hút được các nhà đầu tư đến và khai thác.
• Khả năng bảo tồn và tái tạo các nguồn tài nguyên du lịch: đây là một yếu tố hết sức quan
trọng trong du lịch bền vững, bởi nếu thiếu đi yếu tố này thì không thể coi du lịch là bền
vững được nữa.
• Khả năng ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động phát triển du lịch. KHCN luôn được cập
nhật và ứng dụng để khai thác tài nguyên một cách hiệu quả, sao cho đảm bảo phát triển du
lịch nhưng cũng bảo tồn được nguồn TNTN.
II – Chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của du lịch
1. Các chỉ tiêu môi trường du lịch của UNWTO
1.1. Nước thải:
- % cơ sở kinh doanh du lịch được thanh tra hàng năm về xử lý nước đúng quy cách trong
toàn bộ doanh nghiệp du lịch.
- % hộ gia đình có nhà vệ sinh
1.2. Chất thải rắn
- Lượng rác thải tính trên mỗi khách du lịch/ lượng rác thải địa phương
- Lượng rác thải phát sinh hàng năm, tính theo đầu du khách và theo loại rác

- Số khách sạn phân loại/ tái chế 25% hoặc hơn lượng rác thải
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
1.3. Quan điểm của người dân về du lịch
- Sự hài lòng của nguời dân địa phương về du lịch
- % người dân địa phương tin rằng du lịch đã giúp cải thiện dịch vụ và cơ sở hạ tầng
- Tỷ lệ du khách/ cơ sở lưu trú, trung bình/ ngày cao điểm
1.4. Tạo doanh thu
- Chi phí hàng ngày tính theo loại du khách
- Chi phí trung bình tính theo số khách nghỉ đêm và theo loại du khách
- Tỷ lệ phòng được thuê ở các cơ sở lưu trú có giấy phép mỗi tháng
1.5. Năng lực hoạt động kinh doanh
- Chi phí tiếp thị trên mỗi du khách
- % tăng tổng doanh thu hàng năm
- % thay đổi số lượng làm việc cả ngày
2. Chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của du lịch
Các chỉ tiêu của phát triển DLBV của du lịch theo phương pháp PRA (phương pháp
đánh giá có sự tham gia của cộng đồng).
2.1. Chỉ tiêu về đáp ứng nhu cầu của du khách
- Tỷ lệ số khách quay lại trên tổng du khách
- Số ngày lưu trú bình quân trên đầu du khách
- Tỷ lệ phần trăm các rủi ro về sức khỏe (bệnh, tai nạn…) do du lịch trên tổng số lượng du
khách
2.2. Chỉ tiêu đánh giá tác động của du lịch lên môi trường sinh thái tự nhiên
- % chất thải chưa được thu gom và xử lý
- Lượng điện tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
- Lượng nước tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
- % diện tích cảnh quan bị xuống cấp do xây dựng/ tổng diện tích sử dựng do du lịch
- Mức độ tiêu thụ các sản phẩm động, thực vật quý hiếm (phổ biến – hiếm – không có)
- % khả năng vận tải sạch/ khả năng vận tải cơ giới/ tính theo trọng tải

2.3. Chỉ tiêu đánh giá tác động lên đời sống kinh tế xã hội địa phương
- % vốn đầu tư từ du lịch cho các phúc lợi xã hội của địa phương so với tổng giá trị đầu tư
từ các nguồn khác
- % số chỗ làm việc trong ngành du lịch dành cho người địa phương so với tổng số lao
động địa phương
- % GDP của kinh tế địa phương bị thiệt hại do du lịch gây ra hoặc du lịch mang lại
- % giá trị hàng hóa địa phương/ tổng giá trị hàng hóa tiêu dùng cho du lịch
2.4. Chỉ tiêu đánh giá tác động của du lịch đến môi trường xã hội – nhân văn
- Sự xuất hiện các bệnh/dịch liên quan với du lịch
- Tệ nạn xã hội (TNXH) liên quan đến du lịch
- Hiện trạng các di tích lịch sử - văn hóa của địa phương (so với dạng nguyên thủy)
- Số nguời ăn xin/số dân địa phương
- Tỷ lệ % mất giá đồng tiền vào mùa cao điểm du lịch
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
- Mức độ thương mại hóa của các sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội, ma chay, cưới
xin, phong tục tập quán…) xác định thông qua trao đổi với các chuyên gia
III – Vai trò của phát triển du lịch bền vững đối với sự phát triển KTXH
1. Đóng góp của ngành du lịch vào sự phát triển KTXH
Hiện nay, du lịch – ngành công nghiệp không khói đã và đang là một ngành trọng
điểm với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều địa phương, nhiều quốc gia trên thế giới;
đem lại những nguồn ngoại tệ vô cùng lớn cho đất nước, đây là một xu hướng phát triển
chung trên toàn thế giới. Những nước được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những thắng
cảnh đẹp thì hầu hết đều đã biết khai thác và tận dụng du lịch như là thế mạnh để phát triển
KTXH của đất nước, và tất nhiên, trong đó có Việt Nam. Việc phát triển ngành du lịch đi
liền với khai thác các tiềm năng tài nguyên môi trường tự nhiên cũng như các đặc điểm văn
hóa sẽ tạo điều kiện phát triển các lĩnh vực giao thông vận tải, kích thích các ngành bưu
điện, ngân hàng, xây dựng phát triển theo; tạo công ăn việc làm cho chính những người dân
địa phương, điều này có tác động đến chất lượng cuộc sống dân cư, trước hết là tạo thu nhập
cho họ, sau đó tạo nên khả năng giao lưu văn hóa với người dân trong vùng và các khách du

lịch trong và có khi là ngoài nước, từ đó góp phần nâng cao dân trí, văn minh xã hội… Kinh
phí thu được từ du lịch cũng đóng góp vào việc trùng tu, tôn tạo các di tích cho các địa
phương, hoặc cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, từ đó lại giúp các địa phương thu hút thêm
được nhiều khách du lịch hơn nữa.
Ngoài ra, ngành du lịch phát triển đóng góp quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế theo hướng thương mại - dịch vụ, đây là một xu hướng của xã hội hiện đại.
2. Tầm quan trọng của phát triển du lịch bền vững
Nói đến phát triển DLBV, ta thấy ngay được mối quan hệ giữa phát triển du lịch với
PTBV. Cả hai đều liên quan đến môi trường. Chính từ môi trường tự nhiên mà ta mới có
được những sản phẩm du lịch. Vì vậy, cần phát triển du lịch nhưng không làm ảnh hưởng
đến môi trường, hay nói cách khác là phát triển du lịch và quản lý môi trường là hai mặt bổ
sung nhau. Do đó xu hướng tất yếu là phát triển du lịch theo hướng bền vững. Phát triển du
lịch không phải lúc nào cũng đồng hành với việc bảo tồn, nhưng là ngành hỗ trợ cho bảo tồn
có hiệu quả nhất. Việc đem lại lợi ích cho chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư và
KDTSQTG dựa trên sự phát triển du lịch. Phân chia lợi ích đó cho các đối tượng trên cơ sở
bình đẳng sẽ góp phần bảo tồn, phát triển KDTSQ. Từ đó ta thấy được tầm quan trọng của
phát triển DLBV.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Phát triển DLBV mang tính chất giáo dục ý thức BVMT của cộng đồng dân cư
không chỉ ở địa phương nơi có điểm du lịch mà còn cho tất cả các du khách đến tham quan
điểm du lịch đó. Khách du lịch đến điểm du lịch tăng nhanh sẽ tạo thêm công ăn việc làm,
mở rộng ngành nghề, tăng thu nhập cho cộng đồng dân cư, góp phần phát triển kinh tế giảm
thiểu áp lực khai thác tài nguyên làm giảm môi trường tự nhiên. Mặt khác, nếu không có kế
hoạch và biện pháp quản lý tốt khi lượng khách du lịch đến đảo tăng sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến môi trường sinh thái, gây ra ô nhiễm môi trường làm suy giảm hệ sinh thái của điểm du
lịch, làm áp lực tổn hại trực tiếp đến môi trường xã hội, cuối cùng thì việc bảo tồn cũng khó
thực hiện được và phát triển KTXH cũng chỉ là nhất thời.
Việc phát triển DLBV cũng là nhằm tạo những sản phẩm du lịch có sức hút lớn, thu
hút khách du lịch, góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP của địa phương, xác định vị trí

của ngành du lịch. Cuối cùng, phát triển DLBV chính là chất xúc tác trong việc tăng cường
quan hệ với bạn bố năm châu qua việc trải nghiệm thiên nhiên và các giá trị văn hóa của
nhau, từ đó tình bằng hữu, giao lưu giữa những người bạn năm châu được xích lại gần nhau
hơn.
3. Các nhân tố quyết định tới sự phát triển bền vững của ngành du lịch
Sau khi nghiên cứu các đặc điểm của DLBV, ứng dụng vào thực tế môi trường và
hiện trạng phát triển du lịch, cùng với việc căn cứ trên rất nhiều đánh giá và quan sát của
các nhà nghiên cứu, tôi xin đưa ra các nhân tố quyết định tới sự PTBV của ngành du lịch
như sau
3.1. Yếu tố quản lý
Nói đến con người trong quản lý hoặc trình độ quản lý, kinh doanh của ngành du lịch
và hiệu quả việc quản lý thể hiện ở:
- Lượng khách (tính trung bình và cả trong thời kỳ cao điểm, có vượt quá sức chứa của
khu du lịch hay không?)
- Số lượng khách quay trở lại các điểm du lịch. Khách du lịch là yếu tố quyết định trong
việc hình thành nên “cầu” du lịch, là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
sự phát triển du lịch của một điểm du lịch cụ thể. Các chỉ tiêu về khách có thể cho biết rất
nhiều thông tin, cụ thể là thước đo của sự phát triển du lịch, của sự nổi tiếng của điểm du
lịch, của sức hấp dẫn của điểm du lịch, của khả năng “cung” và đáp ứng các nhu cầu của các
du khách của điểm du lịch… Các đánh giá về khách là bức tranh về hoạt động du lịch của
điểm du lịch, các đánh giá về khách sẽ làm cơ sở cho nhiều đánh giá liên quan khác cũng
như đưa ra những định hướng phát triển du lịch trong tương lai.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
- Hiệu quả kinh tế của các khu du lịch đã nằm trong quy hoạch đưa lại một kết luận chính
xác về tính bền vững trong mục tiêu hoạt động của khu du lịch đó.
- Đào tạo lao động chuyên ngành du lịch: là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự phát triển
du lịch
3.2. Các dịch vụ hỗ trợ ngành du lịch: cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du
lịch và các dịch vụ khác… Cơ sở kỹ thuật và thiết bị hạ tầng là vấn đề không thể thiếu được,

là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và nó có ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút
khách du lịch
3.3. Trình độ công nghệ: mức đầu tư cho phát triển công nghệ và khả năng ứng dụng những
thành tựu của công nghệ mới ở địa phương nơi có khu du lịch ra sao. Trình độ dân trí, đội
ngũ hướng dẫn quản lý du lịch; tính chuyên nghiệp và liên hoàn trong các dịch vụ du lịch…
3.4. Môi trường: gồm tình trạng môi trường của địa phương, tác động của du lịch đối với
môi trường tích cực hay tiêu cực.
3.5. Các nguồn tài nguyên du lịch, bao gồm TNTN và nhân văn. Tài nguyên du lịch là
cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao
động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch.
IV – Kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước trên thế giới
1. Mô hình phát triển không bền vững
1.1. Mô hình phát triển ở Thái Lan – mô hình sex tour
Thái Lan là một trong những nước điển hình trong vùng đã từ lâu được gắn mác du
lịch sex tour. Chính Phủ Thái Lan đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xúc tiến du lịch,
khuyến khích khách du lịch đến Thái Lan. Nhưng những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ
trước, dịch AIDS đã lan tràn trên đất nước Thái Lan đã là nguyên nhân căn bản, khởi nguồn
cho sự phát triển thiếu bền vững. Các cô gái hoạt động trong lĩnh vực này được nhà nước
công nhận là một nghề, được kiểm tra sức khỏe định kỳ và gần như được xã hội thừa nhận.
Trong thời gian qua, “du lịch tình dục” được coi là “con gà đẻ trứng vàng” cho phát triển
kinh tế, và lợi nhuận từ ngành công nghiệp không khói này đã làm giàu cho Thái Lan. Đây
có thể coi là một ngành “siêu lợi nhuận” bởi cách moi tiền từ túi du khách, từ sự gợi mở của
các tour guide, và thế là du khách được đưa đến “khu đèn đỏ”, nơi tổ chức các sex show…
Thực ra, ngược dòng lịch sử ta có thể tìm hiểu nơi đầu tiên cho sự bùng nổ "sex tour" nổi
tiếng ở Thái Lan chính là Pathaya. Vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ trước, Pathaya là nơi
phục vụ "giải trí" cho quân đội Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, về sau được phát triển rộng
rãi, thậm chí theo tôi được biết, do nhu cầu cuộc sống ban đầu khá khó khăn ở các miền quê
Thái Lan vào thời điểm đó mà những người phụ nữ lên thành phố phục vụ lính Mỹ dễ kiếm
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương

tiền hơn nam giới nên bắt đầu có manh nha chuyển đổi giới tính (hầu hết là từ nam thành
nữ) để dễ dàng hơn trong cuộc mưu sinh. Đó chính là một trong những chuỗi lịch sử hình
thành của các Tiffany's show (show diễn của những người chuyển đổi giới tính) nổi tiếng ở
Pathaya ngày nay mà hầu hết du khách với Pathaya đều không thể bỏ qua chương trình
hoành tráng này.
Tuy nhiên, điều kiện chính trị thường xuyên có những xung đột bất ổn, cộng với việc
căn bệnh thế kỷ vẫn là nỗi ám ảnh loài người nên mô hình du lịch sex tour của Thái Lan
chắc chắn sẽ không thể là một mô hình bền vững. Mặc dù giờ đây người Thái đã nhận ra
vấn đề và cố gắng đưa hình ảnh du lịch Thái Lan mang một màu sắc mới (phát triển du lịch
văn hóa, cấm người mang quốc tịch Thái đến "khu đèn đỏ", ), nhưng không thể chối bỏ
được rằng : một phần của xã hội Thái đang phải trả giá cho những hoạt động "sex tour" kéo
dài trong quá khứ như vậy. Đó cũng chính là một bài học cho những quốc gia đang bắt đầu
tiến hành phát triển ngành "công nghiệp không khói" như một trong những mũi nhọn để thu
hút ngoại tệ, trong đó có Việt Nam.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
1.2. Mô hình phát triển thiếu bền vững ở Sao Paolo – Brazil
Sao Paolo – một nơi hào nhoáng ở xứ sở Samba, nơi mà các vũ hội diễn ra hầu hết
các tháng trong năm, nổi tiếng với bãi biển đẹp và các chương trình văn hóa nghệ thuật,
trình diễn, ca nhạc diễn ra ở mọi nơi. Thành phố này là một trong những nơi nổi tiếng về du
lịch tại khu vực các nước Mỹ Latinh và trên toàn thế giới, “vẻ đẹp trong sự đa dạng”. Mục
tiêu phát triển du lịch của thành phố này là quảng bá hình ảnh của mình ra khắp thế giới, đặc
biệt là bằng việc dựng các lễ hội – một điểm mạnh của văn hóa Mỹ Latinh. Tới thành phố
này, khách du lịch có thể tận hưởng được sự sôi động, ồn ã của các lễ hội văn hóa, du lịch
diễn ra suốt cả năm, có thể kể tới Tuần lễ thời trang vào tháng giêng, lễ hội túc vào tháng 4,
lễ hội múa và âm nhạc truyền thống Revelando vào tháng 9 hay Tuần lễ Black
Consciousness với các đặc trưng của văn hóa gốc Phi vào tháng 11. Sự hội tụ của nhiều nền
văn hóa trên thế giới còn được thể hiện ở lối kiến trúc, khách du lịch có thể được nhìn ngắm
những công trình lớn theo kiến trúc Ý hay những cổng chào theo kiến trúc Nhật Bản… Sự
đa dạng của dân cư cũng giải thích cho sự phong phú trong ẩm thực của Sao Paolo, từ các

cửa hàng đồ Âu, đồ Thái hay các món ăn đặc trưng của một số nước Ả Rập. Theo thống kê
của sở Du lịch, có tới 15000 quán bar, 12500 nhà hàng với hàng nghìn các món ăn các loại.
Cơ sở lưu trú ở Sao Paolo cũng có rất nhiều, từ các khách sạn nhiều sao cho đến các cơ sở
bình dân dành cho những khách du lịch ít tiền. Doanh thu thu được từ hoạt động của thành
phố này hàng năm đóng góp tới hơn 1 tỷ USD cho ngân sách nhà nước. Đây là những điểm
mạnh về du lịch ở đây.
Tuy nhiên, bất kỳ du khách nào đến đây cũng thấy ngay được sự đối lập về 2 mảng
cuộc sống ở Sao Paolo. Có nhà nghiên cứu ở Brazil đã ghi nhận sự chênh lệch giàu nghèo ở
Sao Paolo lên tới 32 lần, không những thế, bất kỳ ai có ý định đến đây du lịch có lẽ đều đã
từng nhận được cảnh báo “Sao Paolo là nơi tập trung rất nhiều tội phạm” hay “Hãy cẩn thận
với nạn móc túi ở thành phố này”. Trong quá trình phát triển du lịch, chính quyền địa
phương đã bỏ ngỏ khâu an ninh, khiến cho vấn đề này ngày càng nhức nhối và Sao Paolo là
một điểm đen trên bản đồ du lịch. Vấn đề an ninh trật tự đã thực sự là một vấn đề nhức nhối
đối với chính quyền và nguời dân Sao Paolo, đặc biệt là ở khi thành phố còn tồn tại vô vàn
những khu ổ chuột. Trong khi nguồn doanh thu có được từ du lịch hàng năm để dành cho
việc xây dựng và tu bổ lại hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch thì có lẽ chính quyền
thành phố cũng cần phải có được biện pháp để giảm bớt chênh lệch giàu nghèo từ nguồn thu
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
này, có như thế thì du lịch Sao Paolo mới có thể là một điểm đến an toàn cho khách du lịch
thế giới.
2. Mô hình phát triển bền vững
2.1. Mô hình phát triển ở Thenmala - Ấn Độ
Mục tiêu của phát triển du lịch ở đây là: phát triển Thenmala và vùng lân cận thành
điểm đến du lịch hấp dẫn; xúc tiến du lịch sinh thái trên cơ sở các nguyên tắc bền vững; xây
dựng các điểm đến du lịch theo đúng quy hoạch trong đó nhấn mạnh việc phát triển DLBV,
làm hình mẫu cho các chương trình phát triển du lịch khác.
Để đạt được mục tiêu trên, 3 nhóm sản phẩm du lịch đã được đầu tư phát triển là: du
lịch thân thiện với môi trường, du lịch sinh thái và du lịch hành hương. Du lịch thân thiện
với môi trường được phát triển ở ngoại vi khu bảo tồn hoang dã Shenduruney với mục đích

làm giảm áp lực lên khu bảo tồn. Trong khu bảo tồn chỉ dành cho những khách du lịch sinh
thái thực sự. Những du khách khác có thể trải nghiệm các sản phẩm du lịch thân thiện với
môi trường như: các lối mòn tự nhiên nhỏ, xe đạp địa hình hay lối đi bộ trên cao nhìn
xuống.
Nhằm giảm thiểu những tác động lên hệ sinh thái rừng trong khu bảo tồn, một số
phương tiện được cung cấp ở Thenmala như: du thuyền trên hồ, các lối đi bộ, khán đài
vòng, đài phun nước có nhác, xe đạp địa hình… Du lịch sinh thái được quy hoạch phát triển
trong khu rừng xung quanh. Trung tâm giáo dục môi trường được thành lập. Khu bảo tồn
hoang dã Shenduruney có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch sinh thái và ngoài ra, một
loạt các điểm du lịch vệ tinh trong vòng bán kính 50km cũng đã có trung tâm du lịch sinh
thái. Du lịch hành hương thân thiện với môi trường cũng đã được phát triển. Tuyến du lịch
hành hương nối Thenmala với 3 điểm linh thiêng nằm trong vùng rừng linh thiêng nổi tiếng
Sabarimala (nơi có khoảng 10 triệu lượt du khách viếng thăm trong vòng 2 tháng). Để đạt
được các mục tiêu đề ra, tổ chức xúc tiến du lịch đã phối hợp chặt chẽ với phòng quản lý
rừng, phòng thủy lợi và phòng du lịch triển khai nhiều hoạt động cụ thể. Về cơ sở lưu trú,
vận chuyển khách trong khu vực được khối tư nhân đảm nhận. Quy hoạch về xây dựng
được quản lý chặt chẽ. Không có xây dựng tạm bợ trong các khu rừng. Cơ sở lưu trú được
xây dựng tách biệt, ưu tiên ở những nơi xa rừng.
2.2. Mô hình phát triển ở Jeju – Hàn Quốc
Hòn đảo Jeju rộng 73km, dài 41km vậy mà là nơi tập trung nhiều núi lửa đã ngưng
hoạt động nhất trên thế giới và được UNESCO công nhận là khu vực hoang sơ được bảo tồn
tốt nhất Hàn Quốc. Ngày nay, đảo đã thay đổi rất nhiều, có thêm nhiều công trình kiến trúc
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
hiện đại, nhưng đến với hòn đảo này, du khách vẫn cảm nhận được vẻ đẹp hoang sơ của nó
qua những con suối và những thác nước rất đẹp. Có lẽ đây là thành công rất lớn của công
tác phát triển du lịch Hàn Quốc. Jeju là hòn đảo tự trị (Tỉnh Đảo) với 550.000 cư dân mỗi
năm đón khách du lịch 4.500.000 - 5.000.000 lượt người. Quan điểm của ngành du lịch Hàn
Quốc đưa ra từ đầu thập niên 80 là ngành du lịch sẽ là ngành nuôi sống dân cư địa phương,
từ khi mới đưa vào khai thác hòn đảo du lịch này. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế

hiện nay. Dân đảo sống chủ yếu bằng nghề du lịch dịch vụ ngoài ra còn sản xuất nông
nghiệp, chăn nuôi ngựa, bị, đánh bắt hải sản, vai trò của người dân trong việc phát triển du
lịch ở Jeju là rất lớn. Cơ sở hạ tầng cho du lịch và dịch vụ ở JeJu phát triển, hệ thống giao
thông đường bộ, đường hàng không, đường thủy phát triển đồng bộ đáp ứng việc vận
chuyển hành khách tới đảo ngày càng tăng. Người dân đảo JeJu rất mến khách, sống hiền
hòa với thiên nhiên và rất có ý thức BVMT du lịch. Hoàn toàn không thấy sự phát triển
công nghiệp ảnh hưởng đến môi trường sinh thái của hòn đảo này. Chính sách phát triển du
lịch Hàn Quốc cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì và bảo vệ các nguồn TNTN,
môi trường, bản sắc văn hóa và coi đó là những nguồn hấp dẫn chính của đảo Jeju.
Còn một điều đáng nói nữa khi nhắc đến du lịch Jeju, hầu hết tất cả các doanh nghiệp
hoạt động du lịch ở Hàn Quốc đều có tổ chức các tour đến Jeju. Họ đầu tư một đội ngũ nhân
lực rất giỏi, cố gắng tìm những người có rất nhiều hiểu biết về hòn đảo này. Công tác tổ
chức quản lý du lịch ở đây rất chuyên nghiệp, từ các tour giá rẻ ở các doanh nghiệp nhỏ hay
các tuor đắt tiền ở các doanh nghiệp lớn.
Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức thu hút mạnh mẽ đối với tất cả du khách Hàn
Quốc và quốc tế tới khám phá Jeju. Mục tiêu đặt ra ngay từ ngày đầu khai thác du lịch nơi
đây đó là PTBV dường như đã đạt được rất tốt.
2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển du lịch ở Việt Nam
Qua nghiên cứu các bài học về phát triển du lịch ở các nước trên, đặc biệt là mô hình du
lịch khá thành công ở Ấn Độ và Hàn Quốc, ta có thể thấy được các lĩnh vực mà họ đều quan
tâm trong quá trình phát triển du lịch là:
- Quản lý môi trường của du lịch
- Phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư và du lịch
- Tạo điều kiện đi lại và phối hợp phát triển du lịch trong vùng và tiểu vùng
- Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch
- Xem xét tác động về kinh tế của du lịch
Tóm lại, bài học kinh nghiệm về PTBV du lịch cho Việt Nam rút ra từ các nước trên là
phát triển DLBV phụ thuộc vào 3 mục tiêu sau:
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương

- Đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương trong việc nâng cao mức sống trong tương
lai gần và xa.
- Thỏa mãn các nhu cầu của số lượng du khách đang ngày càng tăng lên và tiếp tục hướng
dẫn họ đạt được sự thỏa mãn đó.
- Bảo vệ và giữ gìn môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội để đạt được 2 mục tiêu trên.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁT BÀ
GIAI ĐOẠN 2006 – 2009
I – Tổng quan tình hình KTXH Cát Bà
1. Tăng trưởng kinh tế
Cát Bà là một quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, cách bờ biển phía đông của thành
phố Hải Phòng 150km. Cát Bà chiếm phần lớn trong tổng diện tích của huyện đảo Cát Hải.
Nhìn chung trong 4 năm gần đây, tăng trưởng kinh tế về mọi mặt của Cát Bà đều đạt khá.
Các chỉ tiêu về tăng trưởng trên giao đều được thực hiện tốt, đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra.
(Phụ lục: Các chỉ tiêu kinh tế của Cát Bà giai đoạn 2005 - 2009). Cơ cấu kinh tế đã được
chuyển dịch theo đúng hướng đã định, ngành du lịch đã, đang và luôn là ngành kinh tế mũi
nhọn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của cả huyện đảo và cả của đảo Cát Bà.
Năm 2005, khi dịch vụ - du lịch mới chỉ chiếm 59%, nhóm ngành nông – lâm – thủy sản
chiếm 27% thì chỉ 3 năm sau, tính đến hết năm 2008, cơ cấu này đã là: dịch vụ - du lịch
chiếm 63%, còn nông – lâm – thủy sản giảm xuống 23,6%. Ta còn có thể thấy được những
đóng góp của ngành dịch vụ - du lịch ở tổng mức hàng hóa bán lẻ thể hiện qua các năm:
năm 2005 mới chỉ đạt 260 tỷ đồng, con số này tăng dần qua các năm và đến năm 2008 đạt
được 500 tỷ đồng. Ước tính năm 2009 sẽ đạt 550 tỷ đồng. Điều này một lần nữa thể hiện sự
đóng góp quan trọng của dịch vụ - đặc biệt là du lịch tới phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Cát Bà.
Tình hình tăng trưởng kinh tế khả quan của Cát Bà có thể được minh chứng rõ nét
hơn khi nhìn vào mức tăng thu nhập của người dân địa phương. Cụ thể là vào năm 2004, khi
GDP đầu người mới chỉ đạt 7,615 triệu đồng/người/năm thì hàng năm, giá trị tuyệt đối của GDP

đều tăng dần, lên 8,71 triệu đồng/người (2005); 10,106 triệu đồng/người (2006); 11,9 triệu
đồng/người (2007) và 14,5 triệu đồng/người (2008). Hàng năm, con số này tăng đều đặn từ 14,4 –
17%, riêng năm 2008, tăng tới 21,8%, mặc dù cuối năm 2008 là thời gian xảy ra khủng hoảng
trên toàn cầu, số lượng khách du lịch cũng như doanh thu từ du lịch có phần giảm sút ít nhiều.
Bảng 1: Các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng của Cát Bà năm 2008
Chỉ tiêu Đơn vị
Kế hoạch
năm 2008
Thực
hiện
Chỉ tiêu
2009
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
% 16 16,4 16 - 17
Nhóm ngành nông - lâm - thủy sản
% 24,2 24,1 23,4
Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng
% 13,3 13,3 13,2
Nhóm ngành dịch vụ % 62,5 62,6 63,4
GDP bình quân đầu người/năm
Tr.Đ 13,8 - 14 14,5 17
Nguồn: Sở Kế hoạch Đầu tư Hải Phòng.
2. Tình hình phát triển xã hội
2.1. Dân cư
Đảo Cát Bà bao gồm 1 thị trấn và 6 xã với số dân hơn 15000 tính đến đầu năm 2009,
tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 0,4%. Mật độ dân số của cả huyện Cát Hải phân bố không
đều, tập trung nhất là ở đảo Cát Bà, đặc biệt là thị trấn Cát Bà. Toàn đảo có diện tích xấp xỉ
300km

2
, với mật độ thưa nhất ở các xã Việt Hải (8 người/km
2
) và Gia Luận (16 người/km2);
trong khi đó ở thị trấn Cát Bà lại tập trung tới 5984 người/km
2
. Từ tình trạng phân bố không
đồng đều dân cư kể trên, ta có thể thấy được rằng tỷ lệ dân cư tập trung ở đô thị lớn và tỷ lệ
dân cư sống ở vùng nông thôn thấp, chứng tỏ mức độ đô thị hóa của thị trấn Cát Bà diễn ra
rất nhanh. Ngoài số dân thường trú ở Cát Bà, hiện có 2000 – 3000 ngư dân tự do sinh sống
trên thuyền và các bố nổi tập trung chủ yếu ở trước cửa Vịnh và khu vực Bến Bèo, hầu hết
họ là những người từ miền Trung ra sinh sống, như từ Hà Tĩnh – Nghệ An – Thanh Hóa…
Họ làm ăn sinh sống chủ yếu bằng nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Dân cư tăng khá
ổn định, hiện tượng di dân tự do trong vài năm gần đây đã giảm.
Phần lớn cộng đồng dân cư sống trên đảo Cát Bà hiện nay, đặc biệt là ở thị trấn Cát
Bà, là từ đất liền ra trong khoảng thời gian từ 30 năm trở lại đây. Cộng đồng gốc trên đảo
hiện còn rất ít và sống chủ yếu ở khu vực Việt Hải. Chính vì vậy tính liên kết cộng đồng có
tính huyết thống nói chung ở Cát Bà là thấp đặc biệt đối với cộng đồng ngư dân với số
lượng tương đối lớn (khoảng 15% dân số trên đảo). Đây là đặc điểm quan trọng ảnh hưởng
đến việc xây dựng các mô hình phát triển cộng đồng.
Thu nhập từ khoán bảo vệ rừng, trồng rừng, các cây hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi
và dịch vụ du lịch giúp phát triển tổng thu nhập của gia đình nhưng chỉ là quy mô nhỏ, mà
lại phụ thuộc vào thời vụ, giá cả trên thị trường, nên chưa thực sự nâng cao được đời sống
của bà con trong vùng. Tỷ lệ hộ nghèo tính đến hết năm 2008 của cả huyện Cát Hải ở mức
trên 7,68% theo chuẩn nghèo mới của quốc gia. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã vùng sâu vùng xa
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
còn rất cao, như Việt Hải (47,2%), Gia Luận (26,1%), Hiền Hào (16,3%). Hơn nữa, xã Việt
Hải còn nằm trong lõi của vườn quốc gia Cát Bà, việc đời sống nhân dân còn nhiều khó
khăn sẽ gây nhiều trở ngại trong việc phối hợp cùng nhân dân bảo vệ tài nguyên rừng nói

riêng và tài nguyên du lịch của Cát Bà nói chung.
2.2. Y tế
Tính đến nay trên tồn đảo có 1 bệnh viện, 1 trung tâm y tế dự phòng và 6 trạm y tế
xã. Điều kiện của những bệnh viện và trạm xá này còn rất nhiều khó khăn và thiếu thốn, tuy
nhiên việc hỗ trợ cơ sở vật chất phục vụ cho y tế đã có những bước biến chuyển tốt. Tuy
vậy trang thiết bị y tế của các trạm xá và bệnh viện này còn nghèo nàn, thiếu cán bộ y tế,
đặc biệt là thiếu những bác sỹ có trình độ cao.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, trạm y tế thị trấn Cát Bà và các xã đã chủ động
triển khai tốt các chương trình phối hợp cùng trung tâm y tế dự phòng của thành phố và đội
vệ sinh dịch tễ huyện kiểm tra công tác an toàn vệ sinh thực phẩm, cấp 235 giấy phép về vệ
sinh an toàn thực phẩm, kiểm tra các khách sạn, nhà hàng… mở lớp tuyên truyền nhằm
nâng cao ý thức cho những người làm trong ngành dịch vụ du lịch, đặc biệt là về nhà hàng
ăn uống, đây cũng là một khâu quan trọng nhằm góp phần nâng cao hình ảnh du lịch Cát Bà
trong mắt du khách đến đây.
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
2.3. Giáo dục
Theo thống kê mới nhất, tại huyện Cát Hải (gồm đảo Cát Bà và Cát Hải) hiện có 10
trường mầm non, 4 trường tiểu học, 11 trường phổ thông cơ sở và 2 trường trung học phổ
thông. Tăng trưởng ngành giáo dục trong thời gian qua có sự phát triển mạnh mẽ, 100% xã,
thị trấn có trường cấp 1,2 và hầu hết có trường mầm non. Đảo đã được công nhận phổ cập
tiểu học và tiếp tục duy trì phổ cập phổ thông cơ sở, trung học và nghề.
Tuy cơ sở vật chất cho việc dạy và học đã được tăng cường song vẫn còn khó khăn.
Một thực tế nữa là con em của ngư dân chưa được quan tâm đầu tư đúng mức cho việc học
hành bởi nhận thức về giáo dục của chính các phụ huynh còn chưa cao, họ chưa nhận thấy
lợi ích từ việc đầu tư cho việc học hành của con em mình sẽ đem lại lợi ích dài lâu. Đây
cũng là một trong những khó khăn bất cập cần được chính quyền thành phố và các ban,
ngành quan tâm giúp đỡ để cải thiện tình hình giáo dục ở đây
2.4. Công tác an ninh trật tự, vệ sinh môi trường
Du khách đến với Cát Bà có thể ngạc nhiên vì nơi đây là một điểm du lịch không hề

có ăn xin. An ninh trật tự được bảo đảm rất tốt đặc biệt tại các điểm tham quan tại Cát Bà,
trước nay chưa từng xảy ra vụ việc gì nghiêm trọng ảnh hưởng tới nhân dân cũng như khách
du lịch. Cát Bà được coi là một trong những điểm du lịch đầu tiên của cả nước sớm xây
dựng được một bộ phận cảnh sát chuyên trách theo dõi các cơ sở du lịch trực thuộc công an
thị trấn và những tổ dân phòng tự quản tại khu vực các bãi tắm. Tại các bãi tắm đã có đội
thu gom rác thải để thường xuyên thu gom rác, giúp cho bãi tắm luôn sạch, đẹp.
Vấn đề vệ sinh môi trường, rác thải và nước thải hiện nay đang là một vấn đề nổi
cộm cần sự ra tay quyết liệt hơn của chính quyền địa phương…
2.5. Cơ sở hạ tầng
Giao thông đường thủy là lợi thế của huyện. Thế mạnh này hiện đã được đầu tư và
cải thiện về thời gian, chất lượng, phương tiện và số chuyến tàu ra đảo. Hiện nay đường
thủy ra đảo cũng chỉ tốn mất 20’ nếu đi bằng tàu ngầm, hiện đã có một số công ty tư nhân
tham gia đầu tư vào lĩnh vực vận tải đường thủy này. Số chuyến tàu ra đảo hàng ngày xuất
phát từ bến Bính đã tăng từ 2 chuyến/ngày lên 10 chuyến/ngày. Đi bằng tàu cánh ngầm,
nhanh nhưng tốn chi phí khá cao, khoảng 180 ngàn/người khứ hồi thì nhanh, chỉ mất 25 –
40’. Nếu đi bằng đường liân vận (đường bộ và chuyển tiếp bằng phà) thì rẻ hơn nhưng tốn
rất nhiều thời gian. Hiện đảo Cát Bà có 5 cảng chính: Cảng Cá, Cảng Bến Bèo, Cảng Cái
Viềng, Cảng Việt Hải, Cảng Gia Luận. Nằm xung quanh đảo và với một lực lượng lớn tàu
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A
Bản thảo Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
chở khách và thuyền nan chèo tay rất thích hợp cho khách du lịch đi tham quan các vũng
vịnh, hang động và bãi biển…
Giao thông đường bộ hiện đang được tu sửa và mở mới. Đường giao thông qua các
xã đều là được rải nhựa hoặc đổ bê tông. Ngoài ra cú con đường nhựa chạy xuyên đảo nối
với thị trấn Cát Hải qua phà Cái Viềng (chạy ven biển từ thị trấn Cát Bà đến phà Cái Viềng
qua các xã Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào, Phù Long); trước đây mấy năm, một con
đường xuyên đảo dài 24km từ thị trấn Cát Bà đi Cảng Gia Luận qua Khe Sâu, Đồng Cỏ,
Trung Trang đã hoàn thành… Đường từ Cảng Việt Hải vào làng Việt Hải dài xấp xỉ 4km đã
hoàn thành và đưa vào hoạt động, tạo động lực cho ngành du lịch phát triển nhanh hơn nữa
trong tương lai.

Về hệ thống điện lưới: điện đã được đưa tới tất cả các hộ của huyện đảo, mới đây
nhất, xã Việt Hải đã có đường điện lưới 110kV quốc gia đi qua. Đây là một tin mừng cho tất
cả bà con ở đây, và cũng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành du lịch, bởi khi đời sống của
bà con phát triển hơn, việc kêu gọi họ tham gia vào việc phát triển du lịch của địa phương
cũng dễ dàng hơn, từ đó khiến họ có ý thức hơn về việc BVMT của địa phương, đó cũng là
bước đầu tiên để PTBV du lịch.
Tháng 2/2007, tại thị trấn Cát Bà đã có wifi, đây là một trong những tín hiệu đáng
mừng cho phát triển công nghệ thông tin của du lịch Cát Bà, bởi khi có wifi sẽ giúp cập nhật
được tin tức nhanh hơn, và việc đảm bảo thông suốt thông tin liên lạc khi đi du lịch trên một
hòn đảo như thế cũng là một điểm nhấn, giảm những rào cản cho du lịch Cát Bà. Không
những thế, việc KHCN tiên tiến về đảo cũng góp phần nâng cao hình ảnh của Cát Bà trong
mắt khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài.
Về vấn đề nước sinh hoạt: hiện nay nước sinh hoạt vẫn là vấn đề khó khăn trên đảo
Cát Bà. Nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt hiện nay. Các dự án đẩy mạnh
khai thác nước đang triển khai và chưa đi vào hoạt động nên các hộ gia đình và các nhà
hàng, khách sạn hoặc là đang sử dụng nước mưa dự trữ, hoặc là mua nước máy do xí nghiệp
điện nước Cát Bà phục vụ. Tại các xã hiện vẫn dùng giếng khoan, các hộ có điều kiện đều
khoan giếng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
3. Đánh giá chung về hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
- Định hướng ưu tiên phát triển cho ngành kinh tế trọng điểm của Cát Bà là chưa rõ ràng,
chưa xác định rõ là nghề thủy sản hay phát triển du lịch là kinh tế trọng điểm, quan điểm
của ngành chuyên môn và địa phương là chưa thống nhất, vì vậy vấn đề quản lý đô thị, vấn
SV: Trần Thị Bích Thủy Lớp Kế hoạch 47A

×