Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

luận văn kế toán hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần may thăng long trên góc độ kế toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.14 KB, 98 trang )

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành thu hút nhiều lao động,
đóng góp đáng kể vào GDP hàng năm. Số liệu do báo chí công bố cho thấy, trong
năm 2011, ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu đạt tới 13 tỷ USD, chiếm khoảng
2,5% thị phần toàn cầu.
Hàng dệt may, thêu đan, may mặc của Việt Nam hiện đứng thứ 5 của thế giới
và phấn đấu tiến lên hàng top 3 trong những năm tới. Trong năm 2011, hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ thu về gần 7 tỷ USD, bán sang EU thu
hơn 2 tỷ USD và xuất qua Nhật Bản chiêm 1,5 tỷ USD, kim ngạch trên 1 tỷ USD
còn lại là tại các thị trường khác khắp các châu lục. Nhận định về thành quả khả
quan này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập phân tích: “Ngành dệt
may Việt Nam có tiến bộ rất đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt doanh thu
xuất khẩu trên 11 tỷ USD, hàng dệt may có kim ngạch xuất khẩu cao nhất, tạo được
nhiều công ăn việc làm, có đóng góp cho xoá đói giảm nghèo, đó là những thành
tựu đáng ghi nhận”.
Công ty Cổ phần May Thăng Long là một trong những doanh nghiệp hàng
đầu về may mặc của Tập đoàn dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, dưới sức ép của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Đồng thời,
doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động kinh doanh và phát triển bền vững, trong đó có kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm. Đây là khâu quan trọng, giúp cho các nhà quản trị nắm
được chính xác nhất tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có cơ sở xây
dựng hướng phát triển hợp lý. Do đó, học viên đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ
phần May Thăng Long trên góc độ kế toán tài chính”.
Luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long
i
Chương này giới thiệu lý do lựa chọn đề tài nghiên cưu, mục tiêu, đối tượng,
phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của luận văn.


Chương 2: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Chương này trình bày về cơ sở lý luận của kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Cụ thể:
Thứ nhất, về chi phí sản xuất
Có nhiều quan điểm về chi phí sản xuất:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chi phí sản xuất là những khoản chi phí phát
sinh tại các bộ phận sản xuất gắn liền với các hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm
của doanh nghiệp. Theo cách hiểu này, các chi phí phát sinh trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm gồm ba khoản mục chi phí cơ bản là chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động
sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra có liên
quan đến việc chế tạo sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định được
biểu hiện bằng tiền. Theo quan điểm này thì chi phí sản xuất ngoài yếu tố về hao
phí lao động sống (tiền lương và các khoản trích theo lương) và lao động vật hoá
(nguyên vật liệu, nhiên liệu, khấu hao tài sản cố định…) thì còn có yếu tố chi phí
khác (chi phí lãi vay, chi phí dịch vụ mua ngoài, các khoản thuế phải nộp nhà nước
- thuế tài nguyên…).
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh
doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản
và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không
phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn
thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào
mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá
ii
trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất
kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho

quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…).
Có thể kết luận rằng, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của
các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều khoản, khác nhau cả về nội dung,
tính chất, công dụng, vai trò, vị trí… trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho
công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí. Xuất phát
từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân
loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi
phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
Phân theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi
phí, chi phí được phân theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có 3 yếu tố chi phí là chi phí
về lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy
nhiên, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc
xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự
toán chi phí, các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ
thể của chúng. Theo quy định, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố chi phí khác
nhau:
- Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu
- Yếu tố chi phí nhien liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất – kinh
doanh trong kỳ
- Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương
- Yếu tố chi phí bảo hiểu xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh
phí công đoàn
iii
- Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài

- Yếu tố chi phí khác bằng tiền
Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Cũng như cách phân loại theo yếu tố, số lượng khoản mục chi phí trong giá thành
sản phẩm tuỷ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi
nước, mỗi thời kỳ khác nhau. Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm ở Việt
Nam gồm: chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp và chi phí
sản xuất chung.
Ngoài cách phân loại trên, chi phí sản xuất còn được phân theo nhiều cách
khác nhau như phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc hoàn thành;
phân theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất…
Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn
tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây
chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế mà doanh nghiệp áp
dụng và quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống
các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong
phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch
toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn
đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm v.v…
Về thực chất, khi vận dụng các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong công
tác kế toán hàng ngày chính là việc kế toán mở các thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán
chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có
liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi
iv
phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên
gọi của phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi

phí
Thứ hai là về giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng
giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn
để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp.Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản
ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các
khoản chỉ tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành
đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được
hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm,
lao vụ đã hoàn thành.
Tất cả các khoản chi phí (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các
chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn
thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Hay giá thành sản phẩm là
biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra ở bất kể
kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong
kỳ.
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, kế toán và kế hoạch hoá giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ,
nhiều phạm vi tính toán khác nhau.
Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được
v
chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế; theo phạm
vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu

thụ.
Đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm,
công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị.
Cũng như đối tượng kế toán chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành được
xác định trên cơ sở của đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất và
yêu cầu, trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống các phương
pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, mang tính thuần tuý kỹ
thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản, phương pháp
tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí,
phương pháp tỷ lệ… Việc tính giá thành sản phẩm từng doanh nghiệp cụ thể, tuỳ
thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành mà co thể áp
dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số phương
pháp với nhau.
Thứ ba là vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng lãi giả, lỗ thật như một số năm
trước đây. Khi nền kinh tế đang trong thời kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp
hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh, vật tư, tiền vốn do cấp trên cấp, giá thành là giá
thành kế hoạch định sẵn. Vì vậy, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm chỉ mang tính hình thức. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng riêng và
phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Để có thể cạnh tranh
được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
còn phải thực hiện đúng theo những quy luật khách quan. Như vậy, kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phần không thể thiếu được đối với các doanh
nghiệp sản xuất khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa là nó có ý nghĩa to lớn và chi
vi
phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp.
Thứ tư là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các

doanh nghiệp sản xuất
Các chứng từ kế toán được sử dụng để hạch toán kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm là: phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, hóa đơn giá trị gia tăng,
bảng chấm công, bảng lương các phân xưởng, bảng tính khấu hao tài sản cố định
Tài khoản được sử dụng để hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm là: TK 621, 622, 627, 154 (631).
Đánh giá trị sản phẩm dở dang và giá thành sản phẩm:
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn
đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp
cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ theo đặc điểm
tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp
có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: Đánh
giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (hoặc nguyên
vật liệu chính); Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo khối lượng sản phẩm hoàn
thành tương đương; Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo chi phí sản xuất định
mức
Mối quan hệ giữa kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với
kiểm soát chi phí, lợi nhuận và thuế thu nhập doanh nghiệp: Kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm phản ánh các hao phí liên quan trực tiếp đến giá
thành sản phẩm sản xuất ra, chiếm tỷ trọng lớn trong khoản mục chi phí của doanh
nghiệp sản xuất. Nếu công tác kế toán này được lập kế hoạch về chi phí và lượng
hóa chi phí để thực hiện sẽ giúp nhà quản lý doanh nghiệp xác định các khoản chi
cần thiết và xây dựng định mức chi phí cho các chi phí cần thiết. Từ đó, sẽ tổ chức
thực hiện và kiểm soát được các yếu tố đầu vào một cách hợp lý nhất có thể. Việc
xây dựng định mức chi phí cũng là một cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Trong khi tăng trưởng doanh thu không mấy khả quan thì đẩy mạnh quản lý
chi phí nhằm kiểm soát tốt chi phí được coi là liệu pháp hiệu quả góp phần gia tăng
vii
lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Đây không chỉ là giải pháp trước mắt mà còn là
giải pháp lâu dài cho mỗi doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng quản lý
tốt chi phí sẽ lập được kế hoạch chi tiêu, thực hiện chi tiêu theo đúng quy định,
giảm thiểu được những khoản chi ngoài quy định, tránh được những sai sót trong
báo cáo tài chính khi nộp cho cơ quan thuế. Như vậy, cũng góp phần giảm các chi
phí không cần thiết khi giao dịch với cơ quan thuế như: chi phí đi lại, chi phí mua
vật tư phục vụ quyết toán thuế (giấy, mực,…), chi phí làm ngoài giờ của kế toán
quyết toán thuế…
Chương 3: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty Cổ phần May Thăng Long
Thứ nhất là giới thiệu khái quát về Công ty Cổ phần May Thăng Long:
khái quát về quá trình thành lập, phát triển, bộ máy quản lý, bộ máy kê toán, công
nghệ sản xuất, các sản phẩm chính và kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ
phần May Thăng Long trong những năm gần đây.
Thứ hai là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
Cổ phần May Thăng Long
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất của công ty là theo đơn đặt hàng hoặc
từng loại sản phẩm hoặc theo từng xí nghiệp, phân xưởng. Điều này, phù hợp với
đặc điểm sản xuất sản phẩm may mặc tại các công ty Cổ Phần ngành may mặc ở
Việt Nam hiện nay. Kế toán mở sổ chi tiết chi phí để tập hợp các chi phí sản xuất
thực tế phát sinh cho từng đơn hàng từ khi bắt đầu sản xuất đến khi hoàn thành nhập
kho sản phẩm. Nhân viên kế toán tại các phân xưởng có trách nhiệm tập hợp chứng
từ, xử lý, phân loại chứng từ theo từng khoản mục chi phí và theo từng đơn hàng,
cuối tháng chứng từ này được nộp về phòng kế toán của công ty để tập hợp, hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành.
Đối với chi phí trực tiếp tập hợp chi phí theo đơn đặt hàng hoặc từng mã sản
phẩm riêng biệt: hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến đơn hàng nào,
sản phẩm nào thì tập hợp chi phí trực tiếp cho đơn hàng đó, sản phẩm đó.
viii
Đối với những chi phí liên quan đến nhiều đơn hàng, nhiều loại sản phẩm mà
không thể tập hợp trực tiếp cho từng đơn hàng, từng sản phẩm đó thì trước hết, tiến

hành tập hợp chi phí theo nơi phát sinh chi phí (xí nghiệp nào, phân xưởng nào?) rồi
cuối tháng phân bổ cho từng đơn hàng. Cụ thể với chi phí sản xuất chung là chi phí
gián tiếp.
Công ty Cổ phần May Thăng Long có 2 loại hình sản xuất là may mặc tự
doanh và gia công. Đối với sản xuất gia công, doanh nghiệp nhận vật liệu từ khách
hàng, kế toán chỉ quản lý về mặt số lượng của lượng nguyên vật liệu nhập kho nói
trên theo từng hợp đồng gia công và khi có lệnh sản xuất thì cung cấp cho các phân
xưởng. Kế toán không hạch toán giá vốn thực tế của bản thân nguyên vật liệu dùng
cho sản xuất mà chỉ hạch toán phần chi phí vận chuyển số nguyên vật liệu đó từ
cảng về kho vào khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để tính giá thành sản
phẩm trong kỳ.
Đối với mặt hàng tự sản xuất mua nguyên vật liệu đầu vào thì quá trình hạch
toán bình thường, kế toán theo dõi cả mặt lượng và giá trị thực tế của nguyên vật
liệu xuất.
Trên cơ sở đối tượng tập hợp chi phí như vậy, công ty đã áp dụng phương
pháp tập hợp chi phí theo hai cách: phương pháp trực tiếp (vật liệu chính và vật liệu
phụ…) và phương pháp phân bổ gián tiếp (công cụ dụng cụ dùng chung, điện,
nước, dầu mỡ,…)
Tại Công ty đối tượng tính giá thành là theo từng đơn đặt hàng. Vì vậy, kỳ
tính giá thành là khi kết thúc hoặc hoàn thành đơn đặt hàng đó. Còn đối với các sản
phẩm sản xuất không theo đơn hàng, công ty tiến hành tính giá sản phẩm hoàn
thành trong kỳ. Ngoài ra, để phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính, báo cáo quản trị
của công ty thì kế toán còn tính giá thành lũy kế theo quý hoặc theo năm.
Doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành giản đơn (phương pháp
trực tiếp) để tính giá thành sản phẩm.
Chương 4: Kết luận và các giải pháp để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long
ix
Trên cơ sở phân tích thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm của Công ty Cổ phần May Thăng Long, học viên rút ra các kết luận

đánh giá chung về ưu điểm cũng như hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế.
Từ đó đưa ra các giải pháp đề hoàn thiện công tác kế toán này của doanh
nghiệp.
- Hoàn thiện kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Về công tác quản lý chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Công ty nên tăng cường
giám sát định mức tiêu hao vật liệu phụ trong sản xuất. Bởi vì vật liệu phụ tuy
chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng chi phí nhưng đối với đặc trưng ngành may
mặc các vật liệu phụ (hay còn gọi là phụ kiện ngành may) hầu như không sản xuất
được ở trong nước mà phải nhập khẩu là chủ yếu. Đặc biệt với tình hình hiện nay
các sản phẩm cần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Vì vậy việc
quản lý vật liệu phụ có ý nghĩa quan trọng. Ta có thể quản lý vật liệu phụ bằng cách
lập định mức về vật liệu phụ, yêu cầu chặt chẽ trong khâu quản lý và sử dụng.
- Giải pháp về đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ
Căn cứ vào thực tế phát sinh tại công ty, đề xuất áp dụng phương pháp đánh
giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Phương
pháp này thể hiện những ưu điểm nổi bật là chi phí sản xuất tính cho sản phẩm dở
dang cuối kỳ bao gồm đầy đủ các khoản mục chi phí trong cấu thành của chi phí sản
xuất. Như vậy, việc tính giá thành sẽ chính xác và hợp lý nhất.
Ngoài ra, để quản lý, kiểm soát chi phí sản xuất một cách hiệu quả, trong
tương lai doanh nghiệp có thể xây dựng và tổ chức phân loại, hạch toán theo kế toán
quản trị.
Doanh nghiệp hiện tại chỉ có định mức về chi phí nguyên vật liệu chính là vải
còn đối với các vật liệu phụ thì chưa lên được định mức cụ thể
Các bảng chấm công, tính lương do kế toán tiền lương tính và chuyển số liệu
cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành, do đó cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa
giữa các phần hành kế toán để tránh tính sót, tính sai ảnh hưởng đến giá thành sản
phẩm.
x
Cuối cùng là hạn chế và kết luận chung về nghiên cứu của học viên.
xi

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
1.1 Tính cấp thiết của đề tài cứu
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các công ty cổ phần tại Việt Nam đang
có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng có không ít thách thức đang chờ đón. Để
vượt qua các thách thức và phát triển bền vững các nhà quản trị doanh nghiệp cần
có các quyết sách sáng suốt để định hướng phát triển cho công ty. Bộ phận kế toán
của mỗi doanh nghiệp chính là nơi cung cấp thông tin một cách chính xác nhất cho
nhà quản trị. Trong đó, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được coi
là một trong các khâu trọng yếu của mỗi doanh nghiệp sản xuất. Thông qua kế toán
chi phí giá thành, nhà quản trị sẽ có những quyết định đúng đắn trong việc sản xuất
kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Hiện nay tại Việt Nam, kế toán đang được quy định theo hệ thống từ luật, chế
độ kế toán, các chuẩn mực kế toán. Kế toán chi phí giá thành cũng không nằm ngoài
hệ thống đó, đang được xem xét trên các góc độ kế toán tài chính và các năm gần
đây là góc độ kế toán quản trị. Qua các góc độ này nhà quản trị sẽ đầy đủ thông tin
để điều hành, kiểm soát, định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Qua
đó góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, và đạt được mục đích cuối
cùng là nâng cao lợi nhuận, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Công ty Cổ phần May Thăng Long là một trong những doanh nghiệp hàng
đầu về may mặc của Tập đoàn dệt may Việt Nam. Mỗi năm, công ty đều đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng của ngành dệt may. Hiện nay mặc dù đang trên đà phát
triển, chiếm tỷ trọng khá lớn trong xuất khẩu nhưng Công ty vẫn chủ yếu là đang
làm gia công cho nước ngoài trên các đơn hàng đặt trước chứ chưa thực sự chủ
động đưa các sản phẩm may mặc của bản thân đi xuất khẩu. Ngoài ra thị trường
trong nước còn đang để bỏ ngỏ, hàng hóa may mặc của Trung Quốc đang tràn lan.
Đây cũng là một trong những thị trường tiềm năng mà Công ty cần chú ý đến.
1
Tìm hiểu thực tế tại doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề cụ thể sau:

- Tại doanh nghiệp chỉ những chi phí đã phát sinh cụ thể có chứng từ mới
được hạch toán còn những chi phí chưa có chứng từ thì chưa hạch toán mà phải đợi
có đầy đủ chứng từ mới hạch toán vào chi phí. Những chi phí này được hạch toán
theo ngày ghi trên chứng từ. Như vậy chi phí cuối kỳ tập hợp sẽ thiếu tính thực tế vì
những chi phí này thực chất đã phát sinh từ trước nhưng đến kỳ sau chứng từ mới
được chuyển về. Điều này dẫn đến chi phí tập hợp không đầy đủ và giá thành sẽ
không chính xác.
- Công ty mới chỉ chú trọng lập dự toán về nguyên vật liệu trực tiếp chứ chưa
lập dự toán về vật liệu phụ trong khi vật liệu phụ ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn
trong tổng chi phí nguyên vật liệu
- Công ty đã lên được định mức cho từng loại sản phẩm cụ thể nhưng chưa
xây dựng được định mức chung cho toàn bộ sản phẩm trong kỳ sản xuất.
Xuất phát từ sự cấp thiết mang tính lý luận và thực tiễn trên, học viên đã tiến
hành nghiên cứu luận văn với đề tài: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long trên góc độ kế toán
tài chính”.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến kế toán chi phí và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Do tầm quan trọng của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp sản xuất mà có rất nhiều bài báo, đề tài nghiên cứu khoa học hay
các luận văn nghiên cứu về đề tài này. Một số bài viết có liên quan tới kế toán chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm
- Bài viết Một số giải pháp kiểm soát chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động trong doanh nghiệp của tác giả PGS.TS. Phạm Văn Dược và NCS Trần Văn
Tùng đăng trên Tạp chí kế toán ngày 01/12/2008 đã đưa ra lý luận về chi phí nói
chung, sự cần thiết về vấn đề kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp và từ đó đưa ra
một số giải pháp để kiểm soát chi phí.
2
- Bài viết Vận dụng phương pháp phân loại chi phí nhằm góp phần kiểm
soát hoạt động của doanh nghiệp của tác giả TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan đăng trên

tạp chí kế toán ngày 13/10/2008. Trong bài đề cập đến các tiêu thức phân loại chi
phí mà các doanh nghiệp hiện đang áp dụng, chỉ ra những hạn chế từ đó đề xuất các
cách phân loại chi phí nhằm góp phần kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Điểm
nổt bật của bài viết là đưa ra cách vận dụng tiêu thức phân loại chi phí thành biến
phí và định phí nhằm phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận
- Bài viết Kế toán chi phí theo phương pháp “Chi phí mục tiêu” của tác giả
Trương Bá Thanh trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng đã đề cập đến tính giá
theo chi phí mục tiêu là một trong các phương pháp hiện đại trong kế toán quản trị.
- Một số luận văn nghiên cứu cùng đề tài
+ Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm phục vụ quản trị chi phí của các doanh nghiệp may tỉnh Hưng Yên”
của Lê Thị Nam – Đại học Kinh tế Quốc dân; luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các công ty may thuộc
Tổng cục Hậu cần Bộ Quốc phòng” của Vũ Thái Hậu – Đại học Kinh tế Quốc dân
đã tiếp cận kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trên cả 2 góc độ là kế toán tài
chính và kế toán quản trị. Hai Luận văn này đều đã trình bảy cơ sở lý luận về kế
toán sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách hệ thống, cụ thể; mô tả thực
trạng của các doanh nghiệp may tương đối chi tiết. Tuy nhiên, do nghiên cứu vấn đề
trên quy mô rộng (các doanh nghiệp may tỉnh Hưng Yên và các công ty may thuộc
Tổng cục Hậu cần Bộ Quốc phòng) nên chưa đưa ra được giải pháp sát với yêu cầu
của một doanh nghiệp cụ thể.
+ Tác giả Nguyễn Quốc Thắng (2011) trong đề tài luận án tiến sĩ ” Tổ chức
kế toán quản trị chi phí, giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp thuộc ngành
giống cây trFng Việt Nam” đã nghiên cứu khả năng áp dụng triết lý quản trị chi phí
dựa trên hoạt động (Activity based costing – ABC) và kế toán mục tiêu của những
nước phát triển như Pháp, Mỹ. Đây là hướng đi tương lai của kế toán mà các doanh
nghiệp sản xuất nên áp dụng.
3
1.3 Mục tiêu
- Tìm hiểu các vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá

thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất.
- Tìm hiểu các vấn đề thực tế về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
- Tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
1.4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm về
lý luận và thực tiễn, cụ thể là kế toán các chi phí: chi phí nguyên vât liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, sản phẩm dở dang cuối kỳ tại
Công ty Cổ phần May Thăng Long.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu:
- Tìm hiểu, làm rõ những vấn đề lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất nhằm hệ thống hóa và làm sáng tỏ
lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất.
- Nghiên cứu các vấn đề thực tế về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm may mặc tại Công ty Cổ phần May Thăng Long trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với hệ thống lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản để
đánh giá thực trạng công tác phần hành này tại Công ty.
- Tìm ra các ưu điểm và hạn chế trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
- Đưa ra các kết luận và đề xuất có tính khả thi để hoàn thiện kế toán chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm may mặc tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
Không gian nghiên cứu: Tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
Thời gian nghiên cứu: năm 2010, 2011, 2012.
4
Góc độ nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên góc độ kế toán tài
chính.

1.5. Câu hỏi nghiên cứu
- Kế toán chi phí và cơ cấu chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp sản xuất ?
- Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
Cổ phần May Thăng Long ?
- Những tồn tại, hạn chế cần khắc phục và định hướng giải quyết những hạn
chế này trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm may
mặc tại Công ty Cổ phần May Thăng Long là gì ?
1.6. Phương pháp nghiên cứu
1.6.1. Cách thức thực hiện
Luận văn sử dụng Khung lý thuyết Sơ đồ 11 để phân tích thực trạng của kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hiện tại, trên cơ sở kết hợp với tiến
hành điều tra thực tế tại công ty. Thông qua kết quả thu được từ hình thành nên cái
nhìn tổng quan về định tính cũng như định lượng phục vụ cho quá trình tập hợp số
liệu để nghiên cứu.
5
Sơ đồ 1.1: Khung lý thuyết
1.6.2. Các phương pháp thu thập tài liệu cụ thể
1.6.2.1. Thu thập dữ liệu thứ cấp lấy từ nguồn dữ liệu:
- Nội dung lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các cuốn giáo trình, tài liệu học tập chuyên ngành.
- Các quy định về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các văn bản do Chính phủ ban hành.
- Tài liệu giới thiệu về doanh nghiệp:
+ Thông tin về lịch sử hình thành phát triển của Công ty Cổ phần May Thăng
CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
CỦA CÔNG TY
Nguyên tắc tập
hợp chi phí sản

xuất và tính giá
thành sản phẩm
Cách thức tập
hợp chi phí sản
xuất và tính giá
thành sản phẩm
Chế độ
khen
thưởng,
xử phạt
QUAN ĐIỂM
CHIẾN LƯỢC VÀ
MỤC TIÊU HOẠT
ĐỘNG
Vấn đề bất ổn nảy sinh
Chiến lược phát
triển giai đoạn
2010-2015
Đề xuất giải pháp hoàn thiện
công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản
phẩm
6
Long.
+ Thông tin về chiến lược phát triển của công ty, dự báo các chỉ tiêu kinh
doanh trong giai đoạn phát triển tới đây.
+ Thông tin về các chỉ tiêu kinh doanh: doanh thu, lợi nhuận, giá vốn hàng
bán
- Tài liệu liên quan đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm:

+ Quy định của công ty về tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm.
+ Quy định của công ty về tiền lương, tiền công chi trả cho nhân viên.
+ Các tài liệu liên quan đến tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm: hoá đơn tiền điện, nước, mua hàng hoá bên ngoài phục vụ sản xuất.
1.6.2.2. Thu thập dữ liệu sơ cấp:
Luận văn sử dụng nghiên cứu định tính để thu thập dữ liệu sơ cấp. Các
phỏng vấn được thực hiện với những đối tượng liên quan tới kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm để họ có thể trình bày những khó khăn, những yêu
cầu về thông tin chưa được thỏa mãn…
Cách thực hiện: Trực tiếp tới Công ty Cổ phần May Thăng Long và phỏng
vấn các đối tượng liên quan. Đối tượng được chọn cụ thể là nhà quản trị doanh
nghiệp như giám đốc sản xuất, giám đốc kinh doanh, trưởng phòng kế hoạch,
trưởng phòng hành chính vật tư, kế toán trưởng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các kỹ thuật khác để thu thập dữ liệu như:
* Tra cứu tài liệu: Tìm hiểu các tài liệu, số liệu liên quan đến công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty điều tra khảo sát
Mục đích của việc tra cứu tài liệu: Tìm hiểu thông tin, số liệu thực tế cần
thiết cho quá trình nghiên cứu đề tài. Số liệu dùng để chứng minh các phương pháp
tính và tính áp dụng vào thực tiễn
Cách thức thực hiện: Trực tiếp đến Công ty Cổ phần May Thăng Long để
tìm hiểu về hệ thống sổ sách, phương pháp hạch toán, phần mềm áp dụng Ngoài ra
7
còn tập hợp một số tài liệu thông qua các tạp chí, sách báo chuyên ngành, mạng
internet
* Quan sát: Qua quan sát thực tiễn sản xuất như quy trình sản xuất, quy trình
luân chuyển chứng từ, sự phối hợp giữa các bộ phận, thái độ cách làm việc của nhân
viên liên quan ta cũng thu được cái nhìn sơ bộ về công tác kế toán của doanh
nghiệp.
Qua việc nghiên cứu tài liệu, học viên hiểu rõ hơn về công tác kế toán nói

chung cũng như thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói
riêng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có điểm mạnh và hạn chế riêng nhưng đã
thực hiện nguyên túc việc tuân thủ theo đúng các chế độ kế toán đặt ra.
1.6.3. Phương pháp xử lý dữ liệu
Dựa trên các dữ liệu đã thu thập được, học viên tiến hành sử dụng phối hợp
các phương pháp sau để phân tích dữ liệu
- Phương pháp so sánh: qua tìm hiểu về cách thức hạch toán kế toán ta so
sánh dựa trên các chế độ chuẩn mực kế toán Việt Nam để xem doanh nghiệp đã
hạch toán đúng chưa trong phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm may mặc.
- Phương pháp thống kê: Thông qua quá trình thu thập tài liệu, số liệu trên sổ
sách để xác định hiệu quả của doanh nghiệp như tình hình kinh doanh, năng lực
sản xuất như thế nào. Kết hợp với các bài viết, đề tài nghiên cứu trước đó về chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm may mặc để khái quát về kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành cho Công ty Cổ phần May Thăng Long.
Ngoài ra học viên sử dụng thêm phương pháp loại trừ, phương pháp chọn
lọc…nhằm phân tích các thông tin định tính, định lượng để đưa ra các thông tin cần
thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài.
1.7. Dự kiến đóng góp của Luận văn
Trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, mọi doanh nghiệp tham gia vào thị
trường đều phải tìm mọi cách nâng cao năng lực của bản thân. Vì thế, hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm may mặc tại Công ty Cổ Phần may
8
Thăng Long góp phần giúp các nhà quản trị có thêm thông tin để diều hành sản xuất
kinh doanh, kiểm soát chi phí, hạ giá thành sản phẩm tối ưu hóa lợi nhuận qua đó
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thông qua đề tài của mình, hy vọng Công ty là đối tượng nghiên cứu có thể
hoàn thiện công tác kế toán của mình đồng thời qua việc nghiên cứu bản thân em sẽ
hoàn thiện thêm về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ kế toán.
1.8. Kết cấu của luận văn

Nội dung của luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
Chương 2: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các công ty sản xuất.
Chương 3: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty Cổ phần May Thăng Long.
Chương 4: Kết luận và các giải pháp để hoàn thiện kế toán chi phí và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần May Thăng Long.
9
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
2.1. Lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Để tiếp cận đề tài nghiên cứu ta đi sau tìm hiểu một số khái niêm cơ bản về
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được đề cập trong chuẩn mực, chế độ kế
toán Việt Nam hiện nay.
2.1.1. Chi phí
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 “Chuẩn mực chung”: Chi phí là
tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các
khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến
làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ
sở hữu.
Theo định nghĩa này, chi phí được xem xét theo từng kỳ kế toán và là các
khoản mục trong báo cáo tài chính. Chi phí được ghi nhận, phản ánh theo những
nguyên tắc nhất định. Định nghĩa này hoàn toàn phù hợp khi đứng trên góc độ của
đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính, chủ yếu là các đối tượng bên ngoài
doanh nghiệp.
Theo Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp xuất bản 2012 của GS.TS.
Đặng Thị Loan, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân: Chi phí được hiểu là biểu hiện

bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hóa mà doanh
nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ
nhất định (tháng, quý, năm).
Quan điểm này đã thể hiện rõ cho người đọc nói chung và người làm kế toán
nói riêng biết được cấu thành nên chi phí trong doanh nghiệp mình là gì từ đó có
những cách hạch toán chính xác và phù hợp nhất. Cụ thể nội dung của chi phí theo
quan điểm này có thể biểu hiện bằng công thức : C + V + m. Trong đó, C là hao phí
lao động vật hóa – giá trị của tư liệu sản xuất tiêu hao như khấu hao TSCĐ, chi phí
10
vật liệu, công cụ, dụng cụ…. V là hao phí lao động sống như chi phí về tiền lương,
tiền công phải trả cho người lao động tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh;
m là một phần giá trị mới sáng tạo ra như các khoản trích theo lương như BHXH,
BHYT, BHTN, KPCĐ, các khoản thuế có tính chất chi phí như thuế tài nguyên,
thuế môn bài, thuế đất, chi phí lãi vay.
Tóm lại, các quan điểm về chi phí trong doanh nghiệp tuy có khác nhau về
cách diễn đạt, về mức độ khái quát nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là
những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về, có thể thu về dưới dạng vật chất, định
lượng được như số lượng sản phẩm hoặc thu về dưới dạng tinh thần hay dịch vụ
được.
2.1.2. Chi phí sản xuất
2.1.2.1. Khái niệm
Trong doanh nghiệp sản xuất thì chi phí sản xuất là một vấn đề quan trọng do
nó quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản
xuất là những khoản chi phí phát sinh tại các bộ phận sản xuất gắn liền với các hoạt
động sản xuất chế tạo sản phẩm của doanh nghiệp
Theo cách hiểu này, các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất ra sản
phẩm bao gồm ba khoản mục chi phí cơ bản đó là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Trong đó:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ các chi phí về nguyên liệu, vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu được sử dụng trực tiếp để sản xuất sản phẩm.

Chi phí nhân công trực tiếp là các khoản chi phí phải trả cho công nhân trực
tiếp thực hiện quá trình sản xuất, bao gồm các khoản tiền lương, tiền công và các
khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN) được tính vào chi phí sản
xuất trong kỳ của công nhân trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất.
Chi phí sản xuất chung là tất cả các khoản chi phí sản xuất phát sinh tại phân
xưởng sản xuất ngoài hai khoản mục chi phí trên để phục vụ và quản lý sản xuất.
Ngoài các chi phí có để dễ dàng phần định vào các chi phí trên doanh nghiệp
còn phải bỏ ra rất nhiều các chi phí khác mà khó có thể phân định rõ ràng. Vì vậy,
11
chi phí sản xuất còn được hiểu là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật
hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến việc chế
tạo sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định được biểu hiện bằng tiền.
Theo quan điểm này thì chi phí sản xuất ngoài yếu tố về hao phí lao động
sống (tiền lương và các khoản trích theo lương) và lao động vật hóa (nguyên vật
liệu, nhiên liệu, khấu hao tài sản cố định,…) thì còn có yếu tố chi phí khác (chi phí
lãi vay, chi phí dịch vụ mua ngoài, các khoản thuế phải nộp nhà nước – thuế tài
nguyên,…)
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh
doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản
và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không
phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn
thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào
mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá
trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất
kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho
quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…).
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có

chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản
hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi
phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có
những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên,
vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ
này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi
tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và
12
phương thức chuyển dịch giá trị của từng lại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu
cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
Có thể kết luận rằng, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của
các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ)
2.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều khoản, khác nhau cả về nội dung,
tính chất, công dụng, vai trò, vị trí… trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho
công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí. Xuất phát
từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân
loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi
phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
Phân theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi
phí, chi phí được phân theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có 3 yếu tố chi phí là chi phí
về lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy
nhiên, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc
xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự
toán chi phí, các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ
thể của chúng.

Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố
chi phí sau:
- Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật
liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ… sử dụng vào sản xuất
– kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu
hồi).
- Yếu tố chi phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất – kinh
13
doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân, viên chức.
- Yếu tố chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh
phí công đoàn: phản ánh phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp
lương phải trả công nhân viên.
- Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản
cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất – kinh
doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào sản xuất – kinh doanh.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa
phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Cũng như cách phân loại theo yếu tố, số lượng khoản mục chi phí trong giá thành
sản phẩm tuỷ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi
nước, mỗi thời kỳ khác nhau.
Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm ở Việt Nam tại các doanh

nghiệp sản xuất gồm 3 khoản mục chi phí:
- Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên, vật
liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm
hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản
trích theo lương với tỷ lệ theo quy định hiện hành
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân
xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp)
14

×