Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng 24

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.55 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực chuẩn
bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa mang lại. Với
việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia nhập WTO, một
nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của
nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh tranh là đặc trưng vốn có của
kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.
Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động
trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu cho mục
tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp, trong đó có Công
ty Cổ phần đầu tư và xây dựng 24 đã không ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế,
kỹ thuật và tổ chức để nâng cao năng lực cạnh tranh. Song so với yêu cầu của sự phát
triển kinh tế thị trường, kết quả đạt được còn khiêm tốn. Là một trong những Công ty lớn
của Tổng Công Ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, vấn đề nâng cao năng
lực cạnh tranh để phát triển và thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà
Nước giao là mối quan tâm hàng đầu của Công ty.
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần đó em chọn vấn đề
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng 24” làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2. KẾT CẤU CHUYÊN ĐỀ:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên đề
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng
24
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng 24
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phan Thị


Nhiệm cùng sự chỉ bảo nhiệt tình của toàn thể các cô chú, anh chị trong công ty đã
giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Kinh tế thị trường được xem là nền kinh tế năng động nhất, mang lại nhiều thành
tựu đóng góp cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận động dưới
sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải kể đến quy luật
cạnh tranh. Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự thích nghi với những biến
chuyển của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh đã, đang và sẽ là vấn đề được
quan tâm nghiên cứu cả trên lý luận và trong thực tiễn nhằm vận dụng ngày càng hiệu
quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những năm
gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế mở hiện
nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh là phương
thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng “cạnh tranh là gì” thì vẫn đang
là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm cạnh tranh
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng
tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Định nghĩa trên
đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và quốc gia.
Ủy ban Cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm cạnh
tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện trình độ
sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì
và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong những điều kiện thị trường
tự do và công bằng xã hội” . Trong định nghĩa này người ta đề cao vai trò của các điều

kiện cạnh tranh là “tự do và công bằng xã hội”.
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy mục
tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường trong nước và
quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là một
quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên thị
trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng
đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là cạnh tranh
về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái niệm
về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm
thu lợi nhuận siêu ngạch” . Như vậy cạnh tranh là hoạt động của các doanh nghiệp trong
nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật những điều kiện thuận lợi tronh
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
Kế thừa những tính hợp lý và khoa học của các quan niệm về cạnh tranh trước
đây, luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể cạnh
tranh, tính chất, phương thức và mục đích của quá trình cạnh tranh. Theo đó chúng ta có
thể quan niệm “ cạnh tranh là một quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế (quốc gia,
ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách
hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận”.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong việc
giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích lợi nhuận
và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh doanh và uy
tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những người lao động trực
tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối quan hệ với người tiêu
dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu nhiều
chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó có quan hệ hữu cơ với

các quy luật kinh tế khác như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung
cầu…, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh chỉ ra
cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó làm giảm giá cả thị
trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, nó chỉ ra ai là
người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều
người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ trong tổng
cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với giá thị trường.
Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng không gây ảnh hưởng
tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có thể tìm mọi cách để giảm chi
phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều đầy đủ và không có hiện tượng cung
cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh nghiệp giảm xuống bằng với giá thị trường doanh
nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp đều
có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá bán của mình, qua
đó tác động đến giá cả thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có nhiều
người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế cho nhau
ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng,
quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác biệt hóa sản phẩm của
mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường này, bên cạnh các biện pháp
khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính sách đối với khách hàng là các vấn đề
mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo khả năng cạnh tranh.
+ Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng lớn
bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn bộ lượng
cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong tập đoàn có tính
phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều ảnh hưởng trực
tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ thường cấu kết với nhau

để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do quá trình
phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Mặc dù
vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, nó làm lợi
cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn hảo.
Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc nhất và
không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn. Doanh nghiệp độc
quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nguyên
nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô (độc quyền tự nhiên),
hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào… Độc quyền luôn có những tác động
xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán thấp (không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
cho xã hội), giá quá cao và gây mất công bằng xã hội. ở một số nước có luật chống độc
quyền nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế xã hội.
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu thông
hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người mua
luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình thành hai
phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá cân bằng của
thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của quy luật
cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho người mua
phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả tăng vọt. Kết quả
là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất thêm một số tiền. Như vậy
sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người mua bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng bán.
Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh trong khi
lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh tranh khốc liệt để
giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng giảm xuống và người

mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh này mới có thể tồn tại và
phát triển.
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu cầu của
khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ sống của
sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ ngành) là
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu lợi nhuận
siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh nghiệp nào có hao phí lao
động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch. Các
doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Doanh
nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi trong ngành.
Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa, là
động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không có cạnh tranh
nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất ở
các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh tế, do điều
kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý, thị hiếu, kỳ vọng,
mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào ngành này có thể mang
lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở những ngành có tỷ suất lợi
nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều doanh nghiệp tham gia lượng cung tăng
vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi nhuận của ngành giảm. Ngược lại, những ngành
có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có lượng cung nhỏ hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi
nhuận của ngành lại tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất lợi
nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào cũng sẽ thu
được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm trong
mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư vốn
giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải thiện vị
trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu được lợi ích
ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham gia cạnh
tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra vai
trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776).
Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình
một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết quả của sự cố gắng đó là
lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất một cách hợp lý và tăng của
cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương thức hoạt động để tồn tại và
phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh thì không thể có sự tăng trưởng
kinh tế.
Vai trò của cạnh tranh được thể hiện ở hai mặt tích cực và hạn chế sau đây:
*Mặt tích cực:
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên được
phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu lao động được thực
hiện mau chóng và tối ưu.
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, luân
chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập trung sản xuất và tích luỹ tư
bản.
Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận giữa các
ngành và trong nền kinh tế do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân hoá lợi nhuận.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực phá
sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng cường

thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản xuất, thường xuyên sáng tạo
cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, giảm
chi phí sản xuất Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động, nhất
là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và đào thải những chủ thể kinh tế
không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.
- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù hợp
nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh làm cho giá
cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, chất
lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú. Như vậy cạnh tranh làm lợi cho người tiêu
dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất và người tiêu dùng
đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho người khác. Nên nói cách
khác, cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết thị trường.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh tranh
đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất
như thế nào một cách thoả đáng nhất. Vận dụng quy luật cạnh tranh, Nhà Nước và doanh
nghiệp có điều kiện hoạch định các chiến lược phát triển một cách khoa học mà vẫn đảm
bảo tính thực tiễn, chủ động hơn trong đối phó với mọi biến động của thị trường.
*Về hạn chế:
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cạnh tranh cũng có một số hạn chế. Do chạy
theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, vừa là động lực tăng trưởng
kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không khoan nhượng
những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của cạnh tranh mặc dù phù hợp quy
luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả kinh tế xã hội như thất nghiệp gia
tăng, mất ổn định xã hội.
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó có
cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương trường
như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé, lũng đoạn thị
trường. Cuối cùng cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền kinh tế phát
triển theo chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của kinh tế

thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn chế của cạnh tranh
để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng các công
cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng thị
phần Các công cụ thường được các doanh nghiệp sử dụng là chất lượng sản phẩm, giá
cả, hệ thống phân phối.
1.1.3.1. Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm để cạnh tranh có hiệu quả cần làm
rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu về chất lượng sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp
đến quản lý chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm là một phạm trù khá rộng và
phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Về phía khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được định nghĩa là
sự phù hợp và thoả mãn nhu cầu hoặc mục đích sử dụng của họ.
Về phía doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn hảo
và phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn quy cách đã xác
định trước.
Nếu chỉ xét từ mỗi loại sản phẩm thì chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các
thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc số lượng và chất
lượng các thuộc tính được thiết kế đưa vào sản phẩm. Những thuộc tính đó phản ánh
công dụng hoặc giá trị sử dụng của sản phẩm và biểu hiện ở những chỉ tiêu chất lượng cụ
thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo bằng tỷ
số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm với chi phí phải bỏ ra để có được lợi ích
đó.
Dựa trên nghiên cứu các định nghĩa trên, tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO)
đã đưa ra định nghĩa chất lượng sản phẩm trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 như sau: “Chất
lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả
năng thoả mãn yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn ”. Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất
giữa các thuộc tính nội tại của sản phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu

của người sản xuất và người tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và kỳ vọng trong tương lai
của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy định nghĩa này được chấp nhận và sử dụng rộng rãi
trong các hoạt động kinh tế hiện nay.
Chất lượng sản phẩm có vai trò quan trọng trong cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp. Một trong các căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm. Theo M.Porter thì năng lực
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản là phân
biệt hoá sản phẩm (chất lượng) và chi phí thấp. Vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành
một trong những công cụ quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng của doanh
nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sẽ tăng cùng với sự gia tăng mức độ thoả mãn của khách hàng.
Đặc biệt khi trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh, thị hiếu của
người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt chứ không chỉ
đơn giản là tốt - bền - đẹp như trước kia. Như vậy chất lượng và cạnh tranh là hai phạm
trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng làm tăng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh cao lại tạo cơ sở tài chính và vật chất
cần thiết cho nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mặt khác trong nền kinh tế mở hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế (AFTA, WTO ) cùng với các cơ hội kinh doanh là việc mỗi nước phải dỡ bỏ khá
nhiều các hàng rào thuế quan để hàng ngoại tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên sân nhà.
Tuy vậy, không một quốc gia nào lại không tìm cách bảo hộ nền sản xuất trong nước và
một hàng rào mới lại được dựng lên. Đó là những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản
phẩm như giấy chứng nhận về mức độ phóng xạ cho phép đối với hàng thực phẩm, chất
lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá Các doanh nghiệp
nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi trên sân nhà
mà còn nhằm hướng tới khả năng vươn ra thị trường quốc tế.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh, doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất
lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất

lượng. Nói cách khác quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt động từ
việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất lượng, thiết lập các văn bản xác định trình tự
và tương tác các quy trình, đảm bảo nguồn lực và thông tin cần thiết, theo dõi kiểm tra và
phân tích các quá trình nhằm đảm bảo mục tiêu chất lượng đã đề ra. Và hệ thống quản lý
chất lượng là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng [8].
Đây là một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp để phát huy được lợi ích
cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản lý
chất lượng, các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động đẩy
nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất công cụ này
cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.3.2. Giá cả
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển cùng với sự ra đời
và phát triển của sản xuất hàng hoá. Ngày nay, giá cả hiện diện trong tất cả các khâu của
quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành, các khu vực của nền kinh tế, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Giá cả không chỉ là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nó còn biểu
hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung cầu hàng hoá, tích luỹ, tiêu dùng Vì vậy
giá cả hình thành thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá, thông qua sự thoả thuận giữa
người mua và người bán, giá được chấp nhận là giá mà cả hai bên đều có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong những
công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ. Hai hàng hoá có cùng công dụng chất
lượng như nhau, khách hàng sẽ mua hàng hóa nào có giá thấp hơn. Có nhiều chính sách
giá khác nhau được doanh nghiệp sử dụng phù hợp với sản phẩm, mục tiêu, tình hình thị
trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong quá trình hình thành và xác định
giá bán, doanh nghiệp có thể tham khảo một số chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Là chính sách doanh nghiệp đưa ra mức giá thấp hơn
giá thị trường. Có hai cách áp dụng chính sách này:
+ Thứ nhất: Định giá thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn cao hơn giá thành
sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này khi sản phảm mới thâm nhập thị trường,

doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của khách hàng. Trường hợp này doanh nghiệp sẽ thu
được lợi nhuận thấp.
+ Thứ hai: Chính sách định giá thấp hơn giá thị trường và thấp hơn giá thành
sản phẩm. Trường hợp này doanh nghiệp không có lợi nhuận nhưng sẽ đẩy nhanh tốc độ
tiêu thụ tăng nhanh vòng quay của vốn, làm cơ sở cho chính sách định giá cao sau này.
- Chính sách định giá cao: Doanh nghiệp áp dụng mức giá cao hơn giá thị trường
và cao hơn giá thành sản phẩm trong trường hợp sản phẩm mới tung ra thị trường, chưa
có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có cơ hội so
sánh về giá. Giai đoạn này doanh nghiệp sẽ tranh thủ chiếm lĩnh thị trường sau đó sẽ hạ
dần đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn đảm bảo thu lợi nhuận.
- Chính sách ổn định giá: Theo chính sách này doanh nghiệp sẽ chọn một mức giá
vừa phải và áp dụng trong thời gian dài để tạo uy tín và củng cố niềm tin của khách hàng
về sự ổn định của sản phẩm. Nó giúp sản phẩm có những nét độc đáo khác biệt với đối
thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp có điều kiện giữ vững và mở rộng thị phần.
- Chính sách bán phá giá: Là chính sách doanh nghiệp bán hàng với mức giá rất
thấp, không có lợi nhuận, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất làm cho đối thủ
không thể cạnh tranh được về giá và phải tự rút lui khỏi thị trường. Khi đó doanh nghiệp
độc chiếm thị trường và lại chủ động nâng giá lên. Chính sách này rất nguy hiểm, ít được
sử dụng vì nó là con dao hai lưỡi. Hiện nay bán phá giá được coi là phương thức cạnh
tranh không lành mạnh và bị cấm sử dụng.
- Chính sách phân biệt giá: Là chính sách đưa ra những mức giá khác nhau đối với
cùng một loại sản phẩm khi bán cho những đối tượng khác nhau, cho những khu vực thị
trường khác nhau, hoặc khách hàng mua với số lượng khác nhau hoặc trong những thời
điểm khác nhau. Chính sách này giúp doanh nghiệp thoả mãn được nhiều đối tượng
khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán khác nhau, tạo nên sự linh hoạt về giá để
hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo bù đắp được những chi phí phát sinh do sản
xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn hoặc do vận chuyển sản phẩm đến những địa
điểm khác nhau.
Như vậy việc nghiên cứu và vận dụng chính sách định giá là một vấn đề khá phức
tạp đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt và sáng tạo bởi giá cả không chỉ được

quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ thuộc khả năng thanh toán của khách hàng.
Để có thể vận dụng thắng lợi chiến lược giá cả trong cạnh tranh cần chú ý một số vấn đề
sau:
- Việc định giá chỉ là một yếu tố trong chiến lược tổng hợp nhằm đem lại doanh thu
và đảm bảo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nên không nhất thiết phải giảm giá hoặc
tăng giá trong mọi trường hợp có biến động.
- Việc định giá phải gắn liền với chính sách chiếm giữ thị phần. Doanh nghiệp
phải coi chiếm giữ thị phần là mục tiêu chiến lược và việc định giá phải góp phần thực
hiện mục tiêu này.
- Chiến lược định giá phải gắn liền với chiến lược cắt giảm chi phí. Dù việc định
giá phải dựa trên nhiều căn cứ khác nhau song chi phí vẫn là một yếu tố quan trọng để
định giá.
- Chiến lược giá cả phải dựa trên cơ sở cạnh tranh vì vậy doanh nghiệp cần quan
tâm thích đáng đến sự thay đổi giá và chính sách giá của đối thủ cạnh tranh.
- Chiến lược giá cả phải gắn với chiến lược phân khúc thị trường để có thể áp
dụng những chính sách giá khác nhau cho phù hợp.
- Một số nhóm khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao để được sử dụng những sản
phẩm có chất lượng cao và nhãn hiệu nổi tiếng vì vậy doanh nghiệp nên thực hiện chính
sách đặt giá cao đối với những sản phẩm này để củng cố uy tín cho sản phẩm, không bỏ
lỡ cơ hội tăng lợi nhuận nhưng cần đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng đủ những gì
đã hứa hẹn trong sản phẩm.
- Cần xây dựng hệ thống đo lường để đánh giá kết quả công tác định giá. Đây là
hoạt động không thể thiếu để đánh giá hiệu quả công tác định giá, qua đó đưa ra những
điều chỉnh kịp thời, đáp ứng mọi biến động của thị trường.
Tóm lại, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp,
ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy mỗi doanh
nghiệp cần nghiên cứu kỹ các chiến lược giá và hoạch định chiến lược giá cả sao cho phù
hợp với biến động của thị trường và mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
1.1.3.3. Hệ thống phân phối.
Có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân và tổ chức tham gia vào quá

trình làm cho sản phẩm tới được với khách hàng. Nếu doanh nghiệp lựa chọn kênh phân
phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ rất nhiều và gặp thất bại trong
cạnh tranh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay kênh phân phối càng thể hiện vai trò quan
trọng của nó vì :
- Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu. Điều đó
thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tìm ra phương thức vận chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm nhất.
- Mặc dù khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ chóng mặt nhưng lợi thế cạnh
tranh dựa vào công nghệ dễ bị đối thủ bắt chước. Hơn nữa hiệu quả sản xuất không thể
tăng vô hạn, nó gần như đã đạt điểm tối đa nên các doanh nghiệp khó hy vọng vượt trội ở
mặt này do đó phải đặt hy vọng vào kênh phân phối.
- Các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất lượng, kích
thước, vì vậy các công ty dễ gặp khó khăn khi muốn giao hàng cho khách đúng sản phẩm
vào đúng thời điểm mà họ cần. Nhiệm vụ này lại đặt lên vai của bộ phận phân phối.
- Đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý tồn kho. Hiện nay thay vì để
hàng hoá tồn kho với số lượng lớn dẫn tới tăng chi phí bảo quản và lưu kho, các doanh
nghiệp có xu hướng giảm tồn kho xuống mức cần thiết tối thiểu để giảm chi phí. Điển
hình nhất là phương pháp quản lý “vừa kịp lúc” của Nhật Bản đã giúp các doanh nghiệp
Nhật Bản có lợi thế cạnh tranh rất lớn và thắng được các doanh nghiệp của Mỹ. Để thực
hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì hơn là phải lựa chọn được kênh phân
phối hợp lý nhất và tốt nhất.
- Để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất nhiều công sức và
thời gian vì nó còn phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan khác chứ không chỉ phụ thuộc
mong muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trên thực tế để lựa chọn và tiến hành xây dựng
một kênh phân phối vận hành trơn tru có khi phải mất nhiều năm. Vì vậy chọn kênh phân
phối hợp lý sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và duy trì sức cạnh tranh trong doanh nghiệp.
Tuy có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm là những máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình tiêu thụ nói chung đều thông qua
một số kênh chủ yếu như bán trực tiếp, bán thông qua các công ty bán buôn của mình và
các hãng bán buôn độc lập, sử dụng mạng lưới bán lẻ của hãng, bán qua các cửa hàng,
các hãng bán lẻ độc lập hoặc bán hàng qua điện thoại, qua mạng. Việc lựa chọn và xây

dựng kênh phân phối phải dựa trên các kết quả nghiên cứu các đặc điểm thị trường bao
gồm đặc điểm của nhóm khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng
tiềm năng, ), đặc tính sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản
phẩm, ), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, các ràng buộc pháp
lý, điều kiện địa lý, ).
Trong những năm gần đây có nhiều thay đổi trong lựa chọn kênh phân phối, các
doanh nghiệp có xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Hình thức này cho phép phát
triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt. Việc thực hiện lịch giao
hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho khách hàng giảm được lượng dự trữ tồn kho.
Điều đó cũng là tiền đề để phát triển sản xuất kinh doanh có tính đến yêu cầu cụ thể của
khách hàng.
1.1.4. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.4.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ở phần trên ta đã nghiên cứu các định nghĩa về cạnh tranh, để có thể cạnh tranh
thắng lợi mỗi doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh nhất định. Vậy thế nào là năng
lực cạnh tranh? Các học giả và giới chuyên môn vẫn chưa có một sự nhất trí cao về định
nghĩa này.
Khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể
phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị
trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một
năng lực nào đó của chủ thể được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn
chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá nào đó trên thị
trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh tranh của hàng hoá, đó cũng là chỉ
mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách hàng. Có tác giả sau khi phân tích bản
chất năng lực cạnh tranh đã đi đến kết luận “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể
hiện thực lực và lợi thế so sánh của nó so với đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất
các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình.”
Có quan điểm đã cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Các quan niệm xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều liên quan đến hai

khía cạnh là chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp có thể được hiểu là “khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận, thị phần
trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp”.
Ở đây chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có thể hiểu khái quát là tổng thể các yếu tố gắn
trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành khả năng
cạnh tranh được chủ thể dùng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành
khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho chủ thể tham gia cạnh tranh.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho rằng
“khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng
trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm khác
nhau ở chỗ doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể đồng thời sản xuất nhiều mặt
hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện năng
lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc
tính chất lượng sản phẩm hoặc giá cả sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là
một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong khi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung ứng
những sản phẩm hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau và có thể thay thế cho nhau. Nếu
doanh nghiệp nào bán được nhiều sản phẩm hơn và ngày càng chiếm nhiều thị phần hơn
so với đối thủ thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong quốc gia đó. Vì vậy hai vấn đề này luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Và
nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề then chốt mà
mỗi doanh nghiệp nói riêng và mỗi quốc gia nói chung luôn quan tâm trong giai đoạn
hiện nay.
1.1.4.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá trình
chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất lớn mạnh đang được quốc tế hoá.

Công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn tới
không một quốc gia nào, một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển mà có thể tách rời
khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động chung của nền kinh tế
thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu
vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế
song phương và đa phương, chấp nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành
trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của tổ chức. Trong quá trình hội
nhập, các nước tham gia đều phải tuân theo những luật chơi chung khá phức tạp được thể
hiện trong nhiều điều ước quốc tế:
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại các
hàng hoá và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản quyền, tư
vấn, sở hữu trí tuệ Nói cách khác các hàng hoá được buôn bán hiện nay không chỉ bao
gồm phần cứng mà còn cả phần mềm, trong đó phần mềm ngày càng quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm
thiểu, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan. Ví dụ trong khuôn khổ AFTA, các nước thành
viên cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0 đến 5% theo một lộ trình nhất định [18].
Trong khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm thuế xuất nhập khẩu
hàng công nghiệp xuống 3 đến 4%, hàng nông sản chỉ còn 6%. Các nước đang phát triển
được duy trì mức thuế suất cao hơn, khoảng 10 đến 12%.
Ba là: Giảm dần tiến tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Chỉ được áp dụng một số
biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh. Ngày nay, khi
chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ bản quyền sở hữu trí
tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Nhà Nước không được bao cấp cho doanh nghiệp, chỉ đối với nông sản thì
được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ sản xuất.
Năm là: Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh, tạo
sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hệ thống luật pháp về kinh tế
- thương mại phải rõ ràng công khai.
Sáu là: Các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về cam kết và thời gian

thực hiện.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của doanh nghiệp
có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó sẽ
thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh nghiệp hội nhập
kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để doanh
nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu của sự phát
triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả năng về nguồn
lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp phải
luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ hội và đủ
khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và phát triển bền
vững.
1.2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cần có các tiêu chí định lượng và định tính để đo lường và đánh giá năng lực cạnh
tranh. Có nhiều tiêu chí có thể sử dụng, trong đó tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất và
có thể phản ánh tương đối đầy đủ và sát thực về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
thương hiệu và thị phần, chi phí sản xuất, tỷ suất lợi nhuận.
1.2.1. Thương hiệu và thị phần của doanh nghiệp
Trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông, các nhà sản xuất hoặc cung ứng
dịch vụ đã đặc định hàng hóa của mình bằng cách sử dụng những dấu hiệu dưới hình thức
nào đó để thể hiện. Những dấu hiệu đó được gọi là thương hiệu, được nhà sản xuất hoặc
cung ứng dịch vụ sử dụng trong thương mại nhằm ám chỉ sự liên quan giữa hàng hóa và
dịch vụ với người có quyền sử dụng dấu hiệu đó với tư cách là người chủ sở hữu hoặc
đăng ký thương hiệu.

Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketting Hoa Kỳ “thương hiệu là một cái tên,
một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các yếu tố
trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch vụ của một (hoặc một nhóm người) và phân
biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối thủ cạnh tranh”. Có thể nói thương hiệu là hình thức
thể hiện bên ngoài tạo ra ấn tượng, thể hiện cái bên trong cho sản phẩm hoặc doanh
nghiệp. Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm
và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi
nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà sản xuất trong tương lai. Nói cách khác
thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ, khi nói đến cà phê người ta nghĩ
ngay đến Trung Nguyên, khi nói đến xe máy người ta nghĩ ngay đến Honda, khi nói đến
máy vi tính người ta nghĩ ngay đến Microsoft, đó chính là thương hiệu. Tên hàng hóa gắn
với thương hiệu trở thành một cụm từ dễ nhớ và làm cho khách hàng nhớ đến doanh
nghiệp.
Xây dựng thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý chí
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh, thương hiệu đó
luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Một thương hiệu mạnh là một thương
hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm cho họ tiêu dùng và tiếp
tục tiêu dùng nó. Nếu khách hàng đã đam mê thích thú một thương hiệu, họ sẽ trung
thành với thương hiệu đó và như vậy doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu cạnh tranh của
mình.
Qua việc xây dựng thành công một thương hiệu người ta có thể đánh giá về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó vì:
- Thương hiệu làm cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng, yên tâm và tự hào
khi sử dụng thương hiệu.
- Thương hiệu tốt giúp tạo dựng hình ảnh công ty, thu hút khách hàng mới, vốn
đầu tư, thu hút nhân tài.
- Thương hiệu tốt giúp phân phối sản phẩm dễ dàng hơn, tạo thuận lợi khi tìm thị
trường mới.
- Uy tín cao của thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản

phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho việc triển khai khuếch
trương sản phẩm dễ dàng hơn, đòng thời giảm chi phí tiếp thị, giúp doanh nghiệp có điều
kiện phòng thủ, chống lại sự cạnh tranh quyết liệt về giá.
- Thương hiệu của người bán khi đã đăng ký bao hàm sự bảo hộ của pháp luật đối
với những tính chất độc đáo của sản phẩm trước những sản phẩm bị đối thủ cạnh tranh
bắt chước.
Để có một thương hiệu mạnh doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược về
thương hiệu nằm trong chiến lược marketting tổng thể căn cứ các kết quả về nghiên cứu
thị trường, đồng thời phải đăng ký thương hiệu trong và ngoài nước. Như vậy thương
hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị đối với doanh nghiệp.
Cùng với thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng giữa số hàng hóa của doanh
nghiệp so với tổng số hàng hóa được bán trên thị trường. Hoặc là tỷ trọng giữa doanh thu
của doanh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó so với tổng doanh thu sản phẩm đó trên
thị trường. Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa doanh thu của doanh nghiệp với đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiếm được thị phần tương ứng với năng lực cạnh
tranh đó và có nhiều khả năng tăng thị phần. Thị phần là một loại tài sản vô hình của
doanh nghiệp, để giành và giữ vững được thị phần đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực
không ngừng trong việc sản xuất các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, làn tốt
công tác marketting và đảm bảo chất lượng sản phẩm như đã hứa. Năm 1997, kem đánh
răng P/S có thị phần khoảng 80 đến 90% thị trường kem đánh răng Việt Nam, khi tham
gia liên doanh góp 8 triệu đô la trong đó tài sản cố định hữu hình là đất được đánh giá 3,5
triệu đô la, còn tài sản cố định vô hình là thị phần trên thị trường Việt Nam được đánh giá
4,5 triệu đô la. Điều đó cho thấy, P/S có năng lực cạnh tranh cao và năng lực cạnh tranh
đó giúp P/S chiếm được một thị phần đáng kể, nó thực sự trở thành tài sản và là thế mạnh
của P/S.
1.2.2. Chi phí sản xuất.
Cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, nói cách khác là có năng lực cạnh tranh cao
được thể hiện ở kết quả tuyệt đối là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong điều kiện

hiện nay, khi giá cả hàng hóa có xu hướng giảm xuống, để tăng lợi nhuận doanh nghiệp
phải tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất cho đơn vị sản phẩm là toàn bộ
các chi phí về nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị và các chi phí khác doanh
nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một loại sản phẩm có chất lượng
tương đương, doanh nghiệp nào sản xuất với chi phí thấp hơn có thể bán với giá thấp mà
vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Trong trường hợp phải cạnh tranh gay gắt về giá thì
doanh nghiệp nào có chi phí thấp sẽ có lợi thế, nhất là đối với những sản phẩm nhạy cảm
về giá.
Giảm chi phí sản xuất là quá trình doanh nghiệp tìm mọi biện pháp về kỹ thuật,
công nghệ, quản lý, tổ chức để làm cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ hơn hao phí
xã hội. Nhất là hoạt động đầu tư cho máy móc thiết bị và công nghệ, nếu lựa chọn và
thực hiện tốt một dự án sẽ có tác dụng giảm chi phí một cách hiệu quả và lâu dài, ngược
lại, hoạt động đầu tư thiếu tính toán sẽ tăng thêm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp và
sẽ rất khó khắc phục. Quá trình này đòi hỏi phải có những nỗ lực thực sự bởi để thực hiện
giảm chi phí cho mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải xem xét
nghiên cứu kỹ và giảm chi phí đúng lúc, đúng chỗ. Những chi phí nào là chi phí tạo ra giá
trị gia tăng cho doanh nghiệp thì không thể cắt giảm, những chi phí nào bất hợp lý không
tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì phải giảm triệt để. Điều này đòi hỏi phải quản
lý rất tốt tổng chi phí và kết cấu chi phí của doanh nghiệp.
Để đạt được hiệu quả bền vững phải đảm bảo các mối quan hệ tốc độ tăng năng
lực sản xuất luôn luôn lớn hơn tốc độ tăng chi phí đầu tư hoặc đảm bảo được mối tương
quan mức biến động doanh thu phải luôn lớn hơn mức biến động chi phí.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận
Để lượng hóa hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu
tỷ suất lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) /
Vốn kinh doanh cho biết mức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra từ đó đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận cần bù đắp được chi phí cơ hội của việc sử dụng
vốn. Thông thường một đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao
hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hoặc ít nhất phải cao lãi suất tín dụng

ngân hàng.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn lưu động = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) /
Vốn lưu động cho thấy mức sinh lời của vốn lưu động.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn cố định = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) / Vốn
cố định cho thấy mức sinh lời của vốn cố định.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Doanh thu = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) /
Doanh thu giúp doanh nghiệp biết được trong một đồng doanh thu của doanh nghiệp có
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở
hữu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
Tuỳ thuộc yêu cầu phân tích có thể lựa chọn sử dụng các chỉ tiêu thích hợp để
đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đồng thời có thể so sánh tỷ suất lợi nhuận giữa các năm để thấy được sự gia tăng
lợi nhuận một cách tổng quát. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương đương hoặc
cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có năng lực cạnh
tranh cao.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP.
Năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp có được là do sự phấn đấu bền bỉ và lâu dài
của doanh nghiệp. Nó là kết quả của rất nhiều hoạt động thực hiện theo chiến lược cạnh
tranh đã đề ra và phụ thuộc vào nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
1.3.1. Các nhân tố bên trong
1.3.1.1. Tài chính
Nguồn lực tài chính là vấn đề không thể không nhắc đến bởi nó có vai trò quyết
định đến hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước hết, nguồn lực tài chính được thể
hiện ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Quy mô vốn tự có phụ thuộc quá trình tích luỹ
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, lợi nhuận hàng năm cao,
phần lợi nhuận để lại tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ lớn và quy mô vốn tự có sẽ
tăng. Doanh nghiệp có quy mô vốn tự có lớn cho thấy khả năng tự chủ về tài chính và

chiếm được lòng tin của nhà cung cấp, chủ đầu tư và khách hàng… Doanh nghiệp nên

×