Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.76 KB, 71 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang đạt được những
kết quả đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ đó, nền kinh tế Việt
Nam cũng đang hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới. Mở cửa hội
nhập, một mặt tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước rất nhiều cơ hội, nhưng
mặt khác cũng đặt ra cho các đơn vị này rất nhiều thách thức. Một trong
những thách thức đó là sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài.
BVNTHN cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, đang
phải chịu sức ép rất gay gắt từ sự cạnh tranh này. Cạnh tranh không chỉ từ các
doanh nghiệp trong nước mà còn các từ các doanh nghiệp nước ngoài. Sự chia
sẻ thị phần này đã làm suy giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Trong môi trường cạnh tranh đó, BVNTHN không thể không đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của đơn vị. Nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định
không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của BVNTHN.
Trong thời gian thực tập tại BVNTHN, nhận thấy sự cấp bách của nâng
cao năng lực cạnh tranh. Dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng
Marketing và PGS.TS Nguyễn Văn Định em đã chọn đề tài “ Giải Pháp Nâng
Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội” làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề thực tập ngòai phần mở đầu và phần kết luận được kết cấu
thành 3 chương :
Chương 1 : Bảo hiểm nhân thọ và cạnh tranh trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh
của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo
Việt Nhân Thọ Hà Nội.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CẠNH TRANH TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
1.1. Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Bảo Hiểm Nhân Thọ
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm trên thế giới.
Năm 1583 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới đã được
bán cho một công dân Luân đôn.
Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Công ty
này đến nay vẫn còn hoạt động trên thị trường, tuy nhiên khi mới thành lập nó
chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của mình
Tại Châu Âu năm 1762 một công ty bảo hiểm ở Anh ra đời và bán bảo
hiểm cho mọi người dân trong xã hội. Bắt đầu từ năm này trở đi hầu như
người dân nào ở châu âu và bắc mỹ đều biết đến bảo hiểm nhân thọ.
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản.
Tại Việt Nam, năm 1975 công ty bảo hiểm hưng việt ra đời dưới chế độ
ngụy quyền cũ, thực chất đây là công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ nhưng
ra đời chưa được hơn một năm thì miền nam Việt Nam hòan tòan giải phóng
và công ty này bị xóa sổ.
Đến tháng 8-1996, chính phủ cho phép chính thức triển khai loại hình bảo
hiểm nhân thọ tại Việt Nam.
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài cho đến này tại tất cả các châu
lục đều có các công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Mọi người đều coi
BHNT là giải pháp thực tiễn để có thể đáp ứng những nhu cầu tài chính cho
họ: chuẩn bị một tài sản hay một nguồn vốn để bảo vệ sự an tòan tài chính cho
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gia đình cũng như trang bị cho con em sẽ có một trình độ học vấn cao trong

tương lai. BHNT thực chất là bảo hiểm cho tính mạng, tình trạng sức khỏe và
những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của con người.
“Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết của bên tham gia với bên bảo hiểm mà
trong đó bên bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho bên tham gia khi người
được bảo hiểm gặp phải những rủi ro và những sự kiện bảo hiểm, đổi lại họ sẽ
nhận được phí bảo hiểm theo sự cam kết trong hợp đồng”.
So với bảo hiểm phi nhân thọ, BHNT có những đặc điểm chủ yếu sau đây :
• Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ khác hẳn
với bảo hiểm phi nhân thọ. Khi tham gia BHNT khi người bảo hiểm xảy ra sự
kiện bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ có trách nhiệm trả một số tiền ( gọi là số
tiền bảo hiểm) cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thỏa thuận
từ trước. Ngòai ra BHNT thể hiện tính chất tiết kiệm ở chỗ STBH còn được
chi trả như một khoản tiền tiết kiệm trong trường hợp khi đáo hạn người được
bảo hiểm không xảy ra rủi ro nào trong thời gian được bảo hiểm. Nội dung tiết
kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, người đảm
bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn
ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ.
• Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của
người tham gia bảo hiểm.
Nếu như các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng nhằm hạn chế
rủi ro thuần túy thì bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng được nhiều mục đích khác
nhau. Mỗi mục đích được thể hiện rõ trong từng loại hợp đồng, trong từng gói
sản phẩm, phù hợp với mọi mong muốn và nhu cầu của khách hàng. Ví dụ
như sản phẩm an sinh giáo dục không những giúp người tham gia hạn chế tổn
thất khi xảy ra sự kiện bảo hiểm từ đó góp phần nhanh chóng ổn định cuộc
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sống mà còn mang một mục đích vô cùng cao đẹp đó là tiết kiệm để lập quỹ
giáo dục cho con cái mang lại cho con cái một tương lai tốt đẹp hơn. Bên

cạnh đó còn rất nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác đáp ứng nhu cầu như
khởi nghiệp kinh doanh, mua sắm tài sản, giữ gìn tài sản cho thế hệ
sau...Chính vì mục đích đa dạng của bảo hiểm nhân thọ nên loại hình bảo
hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
• Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức
tạp. Thế nên việc quản lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hết sức khó khăn.
Tính đa mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác
nhau, chẳng hạn trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có các hợp đồng
10,15. Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau về số
tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia… Về thành
phần các bên tham gia trong bảo hiểm nhân thọ cũng phức tạp hơn so với bảo
hiểm nhân thọ. Trong mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 bên tham
gia: người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Chính vì tính đa dạng và phong phú này
mà khi quản lý hợp đồng bảo hiểm các công ty bảo hiểm cần hết sức chú
trọng.
• Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì
vậy quá trình định phí khá phức tạp. Do đặc thù của bảo hiểm nhân thọ là liên
quan đến tuổi thọ của con người cho nên thông thường thời hạn của hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ thường là rất dài. Để có thể đưa ra mức phí đối với sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ không giống quy trình định giá của các sản phẩm
tiêu dùng thông thường khác là dựa vào chi phí thực tế phát sinh mà lại dựa
vào các cơ sở khoa học như tuổi thọ bình quân, độ tuổi của người được bảo
hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của
đồng tiền…Chính vì sự chi phối của nhiều yếu tố đến quá trình định giá sản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phẩm bảo hiểm nên việc định phí bảo hiểm là phức tạp. Muốn có thể định giá
đúng đòi hỏi chuyên gia tính phí bảo hiểm phải nắm vững đặc trưng của mỗi
loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát triển

của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung. Phí bảo hiểm chính là một trong
những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm so với
các sản phẩm bảo hiểm tương tự của doanh nghiệp bảo hiểm khác.
• Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh
tế- xã hội nhất định.
Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ khá lâu nhưng đến nay không phải hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều triển khai bảo hiểm nhân thọ, mặc dù người ta
hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải cho điều này, hầu hết các
chuyên gia kinh tế trên thế giới đều cho rằng : cơ sở chủ yếu để Bảo Hiểm
Nhân Thọ ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát triển.
Điều kiện kinh tế xã hội như sau :
_Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
_Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân
_Mức thu nhập của dân cư
_Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền
_Tỷ giá hối đoái
Những điều kiện xã hội bao gồm :
_Điều kiện về dân số
_Tuổi thọ bình quân của người dân
_Trình độ học vấn
_Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngòai điều kiện kinh tế - xã hội thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT.
1.2 Đặc Điểm Hoạt Động Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế,
có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất và kinh doanh trên thị trường vì mục
đích tối đa hóa lợi nhuận và phát triển của xã hội.
Theo đó “ DNBH là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động

theo quy định của luật KDBH và các quy định khác của pháp luật có liên quan
đến kinh doanh bảo hiểm”.
DNBH là một loại doanh nghiệp dịch vụ; hoạt động của nó cũng nhằm
mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa DNBH với các doanh nghiệp
khác là ở chỗ : DNBH là doanh nghiệp chấp nhận rủi ro của người được bảo
hiểm; nó có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua
bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp. Như vậy ta có thể phân biệt
dựa trên đặc điểm họat động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thực tế hiện nay trên thị trường có DBNH phi nhân thọ và DNBH
nhân thọ. DNBHNT cũng mang đầy đủ đặc điểm của một doanh nghiệp bảo
hiểm và kịnh doanh bảo hiểm có những đặc điểm chủ yếu sau:
• Hoạt động kinh doanh BHNT có vốn pháp định lớn. Nguồn vốn của
DNBHNT bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm, lãi đầu tư… Trong đó, vốn
điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do luật quy định. Tại Việt Nam
hiện nay, theo Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định mức vốn pháp định của
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tối thiểu là 600 tỷ. Vốn pháp
định cao hơn so với các ngành khác là do đặc thù kinh doanh bảo hiểm là kinh
doanh rủi ro.
• Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp
vụ. Bởi lẽ kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro, phí bảo hiểm thu được
các DNBH phải trích dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn và dự
phòng toán học. Đối với doanh nghiệp BHNT dự phòng nghiệp vụ bao gồm :
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dự phòng toán học, đây là quỹ dự phòng lớn nhất và quan trọng nhất.
Bởi vì, HĐBH nhân thọ dài hạn sau khi thu phí, DNBH không được sử dụng
hết mà phải trích lập dự phòng để trả cho khách hàng khi đáo hạn hợp đồng
hoặc người được bảo hiểm bị tử vong.
Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng BHNT

ngắn hạn để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của
hợp đồng ở năm tiếp theo;
Dự phòng bồi thường, được sự dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài chính;
Dự phòng chia lãi, được sử dụng để chia lãi theo thỏa thuận với bên mua
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm;
Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
• Họat động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động đầu

Hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng
quy mô của doanh nghiệp; tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập cho người lao
động; vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự
nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ
DPNV bảo hiểm.
• Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy
định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên
quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hiện nay
các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam phải tuân
theo các văn bản pháp luật hiện hành như luật doanh nghiệp, luật kinh doanh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bảo hiểm, nghị định 45, nghị định 46 và các văn bản luật khác có liên quan.
Ngòai ra còn chịu sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như Bộ Tài Chính.
Tuân thủ pháp luật cũng như các điều ước quốc tế nhằm đảm bảo kinh
doanh đúng hướng, đạt hiệu quả cao; đảm bảo lợi ích của người tham gia, lợi
ích của DNBH và Nhà nước.

1.3 Các Loại Hình Bảo Hiểm Nhân Thọ Cơ Bản
Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với
những người tham gia mục đích chính của họ hoặc để bảo vệ con cái và
những người thân trong gia đình tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất
ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương
lai…Do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm BHNT,
thực chất là đa dạng hóa các loại hình HĐBH nhằm đáp ứng và thỏa mãn mọi
nhu cầu của NTGBH. Trong thực tế có 3 loại BHNT cơ bản:
_Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
_Bảo hiểm trong trường hợp sống
_Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Ngòai ra, người bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại
hình BHNT. Thực chất, các điều khỏan bổ sung không phải là BHNT vì
không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống tuổi thọ của con người, mà là bảo
hiểm các rủi ro khác có liên quan đến con người. Tuy nhiên, khi tham gia bảo
hiểm vẫn thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp đồng cơ bản.
 Bảo hiểm trong trường hợp sống
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong
suốt cuộc đời NTGBH. Nếu người được bảo hiểm (NĐBH) chết trước ngày
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Bảo
hiểm sống có những đặc điểm sau :
Là loại hình bảo hiểm hưu trí mang tính tiết kiệm cao và đều được các
doanh nghiệp BHNT triển khai loại hình sản phẩm này .
Bảo hiểm trong trường hợp sống chỉ chi trả STBH khi NĐBH còn sống.
Việc chi trả chi chấm dứt khi NĐBH chết trong thời hạn HĐ hoặc khi hết thời
hạn HĐ.
STBH được chi trả định kỳ theo tháng, theo quý hoặc theo năm tùy theo

thỏa thuận giữa hai bên.
HĐBH có thời hạn xác định hoặc không xác định.
Phí bảo hiểm có thể đóng một lần khi bắt đầu tham gia BH hoặc đóng định kì
nhiều lần trong khoảng thời gian trước khi HĐBH có hiệu lực chi trả.
 Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này là STBH được chi trả khi NĐBH
bị tử vong trong thời hạn hợp đồng, phí bảo hiểm có thể đóng 1 lần khi tham
gia ký kết HĐBH hoặc đóng định kì trong suốt thời gian có hiệu lực của
HĐBH. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong được chia làm 2 loại :
Bảo hiểm tử kỳ
Đặc điểm riêng của bảo hiểm tử kỳ là thời hạn bảo hiểm được xác định.
Trong bảo hiểm tử kỳ được chia thành nhiều loại :
Bảo hiểm tử kỳ cố định là loại hình bảo hiểm tử kỳ có nội dung cố định
không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.
Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục là HĐBH tử kỳ mà khi hết thời hạn có thể tái
tục mà không cần bất kỳ kiểm tra nào về tình trạng sức khỏe của NĐBH.
Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: là HĐBH tử kỳ trong đó có điều kiện
cho phép NTGBH có thể chuyển đổi từ HĐBH tử kỳ sang bất cứ hợp đồng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BHNT hỗn hợp, bất cứ thời điểm nào trong thời gian có hiệu lực của hợp
đồng bảo hiểm nếu như NTGBH có đủ tài chính.
Bảo hiểm từ kỳ có STBH giảm dần : đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ trong
đó cho phép NTGBH có thể tham gia với STBH giảm dần phù hợp với nhu
cầu tài chính nếu có rủi ro xảy ra tính vào thời điểm nào đối với NTGBH, từ
đó có thể giảm được phí bảo hiểm phải đóng
Bảo hiểm tử kỳ có STBH tăng dần : Đây là loại hình bảo hiểm nhằm giúp
cho NTGBH có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa
là STBH thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong 1 khoảng
thời gian. Như vậy, loại hình hợp đồng này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ

tăng dần theo STBH và phải dựa vào tuổi tác của NGTBH khi tái tục hợp
đồng.
Bảo hiểm thu nhập gia đình : loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu
nhập cho gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Nếu
NĐBH còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không được nhận bất kỳ
một khoản thanh toán nào từ công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng
nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cho gia đình không may có NĐBH bị chết,
tướng ứng với STBH khi mới ký hợp đồng.
Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện : Điều kiện ở đây là : Việc thanh toán trợ
cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
Bảo hiểm nhân thọ trọn đời ( bảo hiểm trường sinh)
Đây là loại hình bảo hiểm trong trường hợp chết nhưng thời hạn bảo hiểm
không xác định, STBH được chi trả vào bất cứ thời điểm nào NĐBH bị chết.
phí bảo hiểm nhân thọ trọn đời thông thường đóng một lần khi tham gia bảo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiểm hoặc đóng định kỳ một lần trong thời hạn bảo hiểm và không thay đổi
trong suốt quá trình bảo hiểm,do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người
thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm chi trả STBH. Hiện nay, vì
loại hình này gần giống gửi tiền tiết kiệm nên hầu hết các doanh nghiệp đều
không kinh doanh.
 Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm kết hợp giữa bảo hiểm
tử kỳ và bảo hiểm sinh kỳ. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau. Quyền lợi
bảo hiểm của loại hình này là nhà bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm trong
trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến khi hết hạn hợp đồng hoặc
chết trong thời hạn hiệu lực hợp đồng.

Loại hình bảo hiểm này vừa có yếu tố bảo vệ vừa có yếu tố tiết kiệm.
khi người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng, những khỏan tiền phí
nộp đều đặn trong thời gian dài cộng với lãi thành một khỏan tiền lớn. khoản
tiền này được dùng cho những kế hoạch và dự định lớn trong cuộc đời họ.
Còn khi người được bảo hiểm không may bị chết trong thời hạn bảo hiểm thì
người được bảo hiểm sẽ thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thừa hưởng
mặc dù phí bảo hiểm mới đóng được rất ít. Sản phẩm này có một số đặc điểm
đặc trưng sau:
• STBH được chi trả khi NĐBH chết trong thời hạn hợp đồng hoặc
khi người được bảo hiểm sống hết hạn hợp đồng. Ngòai ra, các sản phẩm
BHNT hỗn hợp cụ thể còn có những điều khoản khác nhau về hoàn phí trong
trường hợp NTGBH hoặc NĐBH bị chết trong thời hạn hợp đồng.
• Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn bảo hiểm xác
định.
• Phí bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể đóng 1 lần khi hợp đồng bắt
đầu có hiệu lực hoặc đóng định kỳ hàng tháng, quý, năm với số phí như nhau.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được
hòan phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
1.5. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng BHNT chính là dự cam kết giữa hai bên, theo đó bên nhận
bảo hiểm ( công ty BHNT) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên được
bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, còn bên được bảo hiểm có trách
nhiệm và nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm như đã thỏa thuận theo quy định của
pháp luật.
bên nhận bảo hiểm chính là các công ty BHNT.Sau khi đã cam kết nhận
bảo hiểm, trách nhiệm và nghĩa vụ chủ yếu của công ty chi trả STBH khi có
các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm
trong BHNT thường bao gồm :

_tử vong
_ hết hạn hợp đồng
_sống đến độ tuổi nhất định
Bên nhận bảo hiểm không được phép hủy hay thay đổi các điều khoản
trong hợp đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm.
Bên được bảo hiểm trong hợp đồng BHNT có thể có 3 người sau đây :
Người được bảo hiểm là người mà sinh mạng tình trạng và cuộc sống
của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng. Người được bảo hiểm
có thể là những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lý để tự ký hợp
đồng chính cho mình và cũng có thể là người chưa đủ tuổi thành niên phải
giao tên của mình cho người đứng ra ký HĐBH.
Người tham gia bảo hiểm là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thỏa thuận
và ký kết hợp đồng. Người được bảo hiểm phải đảm bảo quy định của pháp
luật về năng lực pháp lý. Trong các hợp đồng bảo hiểm cá nhân người tham
gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là 2 người khác nhau chỉ khi người
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên. Bố mẹ, ông bà hay người đỡ đầu
đứng ra viết giấy yêu cầu bảo hiểm, ký kết hợp đồng và nộp phí bảo h iểm.
Hoặc trong trường các HĐBH theo nhóm người được bảo hiểm và người tham
gia cũng là hai người khác nhau. Người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu
hủy bỏ HĐBH.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người được nhận STBH hoặc
các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán như đã nêu rõ trong hợp
đồng. người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ
định. Nếu việc chỉ định không rõ ràng, STBH được giải quyết theo luật thừa
kế. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thường là người được bảo hiểm,
chỉ là người khác khi người được bảo hiểm bị chết. Xác định rõ người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm là vấn đề hết sức quan trọng tranh được những
tranh chấp khiếu nại… Trong nhiều trường hợp cần chỉ định người được

hưởng quyền lợi bảo hiểm thứ nhất và người tiếp theo sau để đề phòng trường
hợp khi người được hưởng quyền lợi đầu tiên bị chết trước người được bảo
hiểm.
Hợp đồng BHNT rất đa dạng đo các công ty bảo hiểm thực hiện đa dạng
hóa sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu phong phú của người tham gia. Các quy
định trong hợp đồng có nhiều điểm khác nhau ở mỗi nước. Tuy vậy, nó đều có
những điểm chung phải tuân thủ như các loại hợp đồng kinh tế và hợp đồng
dân sự khác nhau : Trách nhiệm, quyền lợi… Đồng thời về nguyên tắc và cơ
sở kỹ thuật của bảo hiểm là giống như : sự tự nguyện, tính chất tin tưởng tuyệt
đối, tính thương mại…
Hợp đồng BHNT có thể được thay đổi tùy theo yêu cầu của người tham
gia bảo hiểm. Chẳng hạn : bảo hiểm tử kỳ cố định có chuyển thành một hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ trường sinh; bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục vào ngày
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kết thúc mà không cần có thêm bằng chứng nào về sức khỏe …. Tuy nhiên sự
chuyển đổi này không nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm.
Hợp đồng BHNT có thể dùng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc người
tham gia BHNT vì những lý do nào đó không có khả năng đóng phí tiếp tục
và hủy bỏ hợp đồng thì có được hưởng quyền lợi gì không ? có thể trả lời
rằng, họ sẽ nhận được một số tiền đó gọi là giá trị hoàn lại ( hay là giá trị giải
ước) nhưng với điều kiện :
Trong hợp đồng hoặc đơn bảo hiểm đã có sự chỉ rõ về giá trị giải ước từng
năm một cách đầy đủ;
Trong hợp đồng đã có một phần dự phòng phí đủ lớn do công ty bảo hiểm
tính toán.
Tuy nhiên,trong một số loại hợp đồng BHNT như : hợp đồng tử vong có kỳ
hạn xác định, hợp đồng có số tiền bảo hiểm trả sau… việc hoàn phí không
được thực hiện.
Hợp đồng BHNT là hợp đồng dài hạn vì vậy chủ yếu được ký kết với từng

cá nhân. Việc ký kết theo nhóm rất ít và nếu có chủ yếu là loại bảo hiểm tử
vong có kỳ hạn xác định.
II. CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
2.1. Khái Niệm
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh là hai vấn đề được đề cập nghiên cứu rất nhiều. Cạnh tranh phản ánh
mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi một
mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu
thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Đó là sự ganh đua nhau,
tìm mọi biện pháp cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn nhằm chiếm lĩnh thị trường,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giành lấy khách hàng cũng như đạt được các điều kiện thuận lợi trong sản
xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa, để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình.
Với một nền kinh tế thị trường luôn mở rộng cửa chào đón các doanh
nghiệp như nước ta hiện nay thì vấn đề cạnh tranh càng trở nên phức tạp và
khốc liệt. Đặc biệt khi một doanh nghiệp mới thành lập và chính thức đi vào
hoạt động thì vấn đề làm thế nào để cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng
ngành nhưng ra đời sớm hơn và đã có chỗ đứng trên thị trường đang là mối
quan tâm chung.
Như nhiều ngành kinh tế khác, ngành Bảo hiểm cũng không nằm
ngòai quy luật cạnh tranh này. Ở Việt Nam hiện này, sự lớn mạnh của các
công ty Bảo hiểm trong nước và có sự có mặt của ngày càng nhiều các công ty
Bảo hiểm nước ngoài đã làm cho vấn đề cạnh tranh trên thị trường Bảo hiểm
Việt Nam ngày càng sôi động hơn.
Do đó để khai thác thị trường Bảo hiểm đạt hiệu quả cao nhất, mỗi
doanh nghiệp Bảo hiểm đều phải có biện pháp cạnh tranh riêng, tùy thuộc vào
năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh là một khái

niệm xuất hiện khi tính chất cạnh tranh trên thị trường trở nên phức tạp và
quyết liệt hơn.
“ Năng lực cạnh tranh được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì, gia tăng
lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ hay
các sản phẩm, dịch vụ của một doanh nghiệp”.
Qua đó ta thấy việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa sống còn đối
với mỗi doanh nghiệp. Để có thể tồn tại trên thị trường không còn cách nào
khác là doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp mình. Bởi cạnh tranh luôn là xu hướng tất yếu nó thúc đẩy mọi
thành phần kinh tế tốt lên và hoàn thiện hơn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2 Tính Tất Yếu Khách Quan Phải Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được điều tiết bởi thị trường. Nền kinh tế
thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản
đó là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể đều tuân theo các quy luật của thị
trường. Mà quy luật quan trọng và khốc liệt nhất của thị trường là quy luật
cạnh tranh, cạnh tranh là quy luật tất yếu khách quan của xã hội. Nó luôn đặt
các doanh nghiệp trong áp lực rất lớn, nếu không thích nghi cao sẽ bị đào thải
khỏi thị trường. Chính cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm tòi,
cải tiến phương pháp sản xuất, phải thay đổi không ngừng để đáp ứng tốt hơn
nữa các nhu cầu của khách hàng. Làm sao để ngày càng năng cao năng lực
cạnh tranh của mình? Là câu hỏi mà hàng ngày bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng phải đi tìm cho mình một câu trả lời phù hợp.
Bảo hiểm là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt. Nó có vai trò như một
trung gian tài chính và nó không tạo ra sản phẩm vật chất thông thường. Sản
phẩm của nó là các hợp đồng bảo hiểm. Doanh thu của một doanh nghiệp bảo
hiểm chủ yếu là từ thu phí bảo hiểm. Nhưng không như các trung gian tài
chính khác doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo an toàn về vốn để có thể chi

trả lãi và quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ, liên quan trực tiếp tới tính mạng và sức khoẻ của con người thì
nó lại càng trở nên nhạy cảm. Trước hết các doanh nghiệp bảo hiểm dù có
cạnh tranh nhau bằng các biện pháp gì đi chăng nữa cũng phải đứng trên góc
độ đảm bảo tối đa lợi ích khách hàng. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
luôn luôn chịu sự giám rất chặt chẽ của Bộ Tài chính nói riêng và các cơ quan
quản lý Nhà nước nói chung. Các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải minh
bạch hoá trong cạnh tranh, cạnh tranh để cùng tồn tại chứ không phải cạnh
tranh để tiêu diệt lẫn nhau.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tương đối giống
nhau và có chu kỳ sống không dài. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh
nghiệp bảo hiểm phải luôn thường xuyên nghiên cứu đổi mới và phát triển sản
phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Và doanh nghiệp nào đi trước là
doanh nghiệp đó đã thắng lợi bước đầu.
Bên cạnh đó, chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng thu hút khách hàng của mình. Các hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ có thời gian tương đối dài và giá trị tương đối lớn. Đứng trên
giác độ một người tiêu dùng thì ai cũng muốn trong thời gian hiệu lực của hợp
đồng càng được hưởng nhiều chính sách hậu mãi càng tốt. Hơn nữa phong
cách phục vụ cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến việc khách hàng tham
gia mua sản phẩm bảo hiểm.
Về giá cả của sản phẩm bảo hiểm, việc quyết định giá sản phẩm bảo
hiểm là do doanh nghiệp bảo hiểm xác định. Còn khách hàng chỉ là người
chấp nhận giá. Tương ứng với một mức giá sẽ có một chế độ chi trả thích hợp.
Vì vậy mặc dù có tính chất tương đồng về sản phẩm nhưng các sản phẩm bảo
hiểm lại cũng rất đa dạng.
2.3 Các Đối Thủ Cạnh Tranh Của BVNTHN
Cùng với xu hướng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, cũng

như các lĩnh vực khác của nền kinh tế, lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng đang
phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn từ các doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 9 doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động trong lĩnh vực nhân thọ, đó là: BVNT – trước kia là doanh
nghiệp bảo hiểm Nhà nước và có thâm niên hoạt động khá lâu năm ở thị
trường Việt Nam, Prudential – doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi tiếng của Anh,
AIA - một doanh nghiệp bảo hiểm có công ty mẹ ở Mỹ, Dai-ichi trước kia là
bảo Minh CMG nhưng mới được Dai-ichi một công ty bảo hiểm của Nhật
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mua lại, Manulife công ty bảo hiểm nhân thọ của Canada, ngoài ra còn có hai
công ty bảo hiểm mới nữa là Previor của Pháp và ACE life của Mỹ. Trong
tháng 1/2008 Bộ Tài chính vừa cấp phép cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Great Easter, quốc tịch Singapore được phép hoạt động dưới hình thức 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới. Như vậy hầu hết các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ hoạt động tại Việt Nam đều có công ty mẹ ở nước
ngoài, các nước có hoạt động bảo hiểm rất phát triển. Đây là những công ty
bảo hiểm có kinh nghiệm và hoạt động rất chuyên nghiệp. Do vậy, tuy số
lượng các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường không nhiều nhưng có thể
nói với các tên tuổi lớn của thị trường bảo hiểm như hiện tại thì áp lực cạnh
tranh đối với BVNTHN là không nhỏ.
2.4 Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng lực Cạnh Tranh Của
BVNTHN
2.4.1 Các nhân tố bên trong
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng rất lớn và có vai trò quyết định đến việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNTHN.
 Khả năng tài chính của đơn vị
Năng lực tài chính là yếu tố quyết định sống còn tới mọi yếu tố của
doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi chỉ có năng lực tài chính đủ mạnh thì doanh
nghiệp mới đảm bảo khả năng thanh toán, chất lượng của sản phẩm bảo

hiểm… Như vậy năng lực tài chính của đơn vị chính là một nhân tố nội tại
quyết định tới hoạt động đầu tư của nó.
 Năng lực về thiết bị làm việc
Trang thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng làm việc của người
lao động, chất lượng phục vụ khách hàng, khả năng quản lý của đơn vị...Tất
cả những điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
BVNTHN. Thiết bị càng phù hợp với nhu cầu bao nhiêu càng làm nâng cao
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
năng lực cạnh tranh của đơn vị bấy nhiêu. Với đặc thù là một doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực tài chính bảo hiểm, các trang thiết bị quan trọng nhất
của BVNTHN đó là các loại máy tính phục vụ các hoạt động văn phòng. Với
một số lượng thông tin lưu trữ lớn đòi hỏi BVNTHN phải trang bị cho mình
một loạt các máy tính có dung lượng nhớ lớn, tốc độ nhanh... Trên cơ sở đó có
thể tạo ra năng lực cao trong phục vụ khách hàng. Ngoài ra BVNTHN cũng
rất quan tâm đến đầu tư cho một hệ thống các thiết bị khác phục vụ hoạt động
của mình. Việc đầu tư vào trang thiết bị cũng chính là đầu tư nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của BVNTHN.
 Năng lực về nhân sự của BVNTHN
Nguồn nhân lực là một yếu tố của lực lượng sản xuất. Con người, với
khả năng sáng tạo vô tận là nguồn lực duy nhất có thể suy nghĩ, tham gia vào
mọi quá trình của hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi giai đoạn của quá trình
đầu tư, từ khâu lập dự án, thực hiện dự án đến khâu vận hành và khai thác dự
án đầu tư. Con người luôn được xác định là vị trí trung tâm trong mọi hoạt
động. Với BVNTHN mặc dù mọi việc đã được tin học hoá rất cao nhưng
không thể thiếu được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong việc vận
hành, phát triển sản phẩm, khai thác thị trường, phục vụ khách hàng... Tất cả
những điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín và năng lực cạnh tranh của
BVNTHN. Nhân sự là nhân tố không thể thiếu được trong mọi hoạt động điều
hành, nghiên cứu, kinh doanh nói chung cũng như hoạt động đầu tư nói riêng.

 Cơ cấu tổ chức của BVNTHN
Cơ cấu tổ chức của BVNTHN được hiểu là việc sắp xếp, tổ chức và
phối hợp hoạt động giữa các phòng ban để tiến hành các hoạt động của
BVNTHN nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Một cơ cấu tổ chức hợp lý
vừa gọn nhẹ, vừa tối ưu, vừa đảm bảo sự liên hệ giữa các phòng ban sẽ làm
cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn và giúp doanh nghiệp tiết kiệm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được chi phí. Hiệu quả trong hoạt động sẽ là nhân tố quan trọng làm nâng cao
năng lực cạnh tranh của đơn vị và việc tiết kiệm chi phí sẽ làm cho BVNTHN
giảm phí bảo hiểm, tăng lãi trả cho khách hàng. Điều này làm cho doanh
nghiệp thu hút thêm được khách hàng tiềm năng. Do đó có thể thấy việc sắp
xếp, đổi mới cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của BVNTHN.
 Giá thành và chất lượng sản phẩm
Đối với bất kì một doanh nghiệp nào thì sản phẩm luôn luôn là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách hàng của mình. Trong cơ
chế thị trường thì doanh nghiệp nào có mức giá sản phẩm càng rẻ, chất lượng
càng cao thì càng có khả năng thu hút khách hàng và mở rộng thị trường.
Chính vì vậy BVNTHN xác định đây là một trong những yếu tố cần quan tâm
khi tiến hành đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị.
2.4.2. Các nhân tố bên ngoài
Bên cạnh các nhân tố bên trong đóng vai trò quyết định tới việc đầu tư
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNT thì các nhân tố bên ngoài cũng
đóng một vai trò quan trọng tới hoạt động đầu tư của đơn vị.
 Các chính sách kinh tế của Nhà nước
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước là người
hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. Trên cơ sở
luật pháp về kinh tế, các chính sách và các biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo ra
một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và hướng các hoạt

động của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo và theo kế hoạch vĩ mô. Đặc biệt
trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến tính
mạng và sức khoẻ của con người, Nhà nước lại càng quan tâm chú trọng và
tăng cường việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích cho
người tiêu dùng. Các chính sách kinh tế của Nhà nước nói chung và chính
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sách về đầu tư nói riêng trong mỗi thời kì nó thể hiện định hướng của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp. Nhà nước luôn luôn khuyến khích đầu tư vào
những nghành nghề có lợi cho nền kinh tế thông qua các chính sách đòn bẩy
kinh tế. Bất cứ một hoạt động nào của BVNTHN cũng cần phải đặt trong cơ
sở chính sách, kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước để đảm bảo việc thực hiện
có hiệu quả nhất.
 Khách hàng của BVNTHN (Thị trường của BVNTHN)
Đối với bất kì một doanh nghiệp nào thì khách hàng cũng là một nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của đơn vị. Với BVNTHN
cũng vậy, đơn vị luôn luôn xác định khách hàng là yếu tố sống còn. Chính vì
vậy BVNTHN không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường hoạt động của
mình. Doanh nghiệp càng có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp càng chiếm
được nhiều thị phần trên thị trường, tức là sản phẩm của doanh nghiệp đáp
ứng được nhu cầu của số đông khách hàng. Do đó vấn đề đặt ra cho
BVNTHN là phải làm sao nghiên cứu đưa ra các sản phẩm đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng, hơn nữa phải có các chính sách chăm sóc khách hàng để
giữ được các hợp đồng đã có. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải có hệ
thống đại lý để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. BVNTHN phải thường
xuyên đánh giá nhu cầu thị trường để nghiên cứu, cải tiến và phát triển các sản
phẩm mới. Việc nghiên cứu thị trường quyết định đến khả năng tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp và nó cũng quyết định đến hiệu quả đầu tư của chính
đơn vị.
 Các đối thủ cạnh tranh của BVNTHN

Thị trường có càng nhiều các công ty tham gia thì mức độ cạnh tranh
càng lớn, điều đó cũng có nghĩa các doanh nghiệp phải chấp nhận việc chia sẻ
thị trường. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa nền kinh tế như hiện nay thì các
công ty bảo hiểm nói chung và BVNTHN nói riêng đang đứng trước áp lực
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cạnh tranh rất lớn từ các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoải trường vốn và
có kinh nghiệm lâu năm. Chính vì vậy BVNTHN trước khi quyết định bất kì
một vấn đề gì đều phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương
lai. Điều này đòi hỏi BVNTHN phải quan tâm đến tình hình thực tế và năng
lực cạnh tranh của đơn vị cũng như của các đối thủ, dự đoán tình hình tương
lai để ra quyết định đầu tư phù hợp, tạo ra ưu thế và đặc điểm riêng của mình,
tạo ra một thương hiệu BVNT khác biệt so với các thương hiệu khác. Có như
vậy BVNTHN mới tạo ra được chỗ đứng riêng cho mình trên thị trường.
 Các sản phẩm thay thế.
Bảo hiểm trên thực tế có rất ít các sản phẩm thay thế. Tuy nhiên bên
cạnh việc quan tâm đến sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nhân thọ thì BVNTHN cũng cần phải lưu tâm đến các định chế
tài chính khác như ngân hàng, quỹ tín dụng… Các trung gian tài chính này
cũng chính là các đối thủ cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn với đơn vị.
2.5 Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Một Doanh
Nghiệp Bảo Hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là ngành có sự khác biệt với các ngành kinh tế
khác bởi bảo hiểm là một ngành dịch vụ, sản phẩm vô hình, do vậy chỉ tiêu về
năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp tập trung vào uy tín, tính nhiệm
của khách hàng đối với công ty. Và để có được sự tín nhiệm này của khách
hàng, doanh nghiệp BH phải tập trung hơn vào các nội dung về hiệu quả kinh
doanh, năng lực tài chính và chất lượng dịch vụ.
2.5.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của công ty
Đối với một công ty BH thì năng lực tài chính là tiền đề vô cùng quan

trọng, cho phép các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm
BH của mình. Năng lực tài chính là chỉ tiêu hàng đầu trong hệ thống các chỉ
tiếu dùng để đánh giá xếp hạng các công ty BH. Năng lực tài chính thường
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được thể hiện qua các chỉ tiêu như NVCSH, nguồn vốn vay, tài sản cố định,
tài sản lưu động và các quỹ DPNV…
 Nguồn vốn chủ sở hữu: NVCSH gồm vốn điều lệ được góp
khi thành lập doanh nghiệp, các quỹ và các khoản tích lũy.
 Nguồn vốn vay: gồm các khỏan vay ngắn hạn và dài hạn,các
khoản phải trả về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp BH
như chi bồi thường, chi hoa hồng, chi giám định, đặc biệt
doanh nghiệp BH có vốn vay là các quỹ DPNV.
 Quỹ DPNV của doanh nghiệp BH nhân thọ chủ yếu gồm: Dự
phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng bồi thường, dự
phòng chia lãi, dự phòng đảm bảo cân đối.
_ Dự phòng phí : Dự phòng phí của doanh nghiệp BH được tính theo công
thức:
Dự phòng phí = tỷ lệ phí chưa x phí BH
được hưởng
Dự phòng bồi thường, được sự dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài chính;
Dự phòng chia lãi, được sử dụng để chia lãi theo thỏa thuận với bên
mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm;
Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo
uy tín của doanh nghiệp với khách hàng. Bởi vì khác với các doanh nghiệp
khác, vấn đề tài chính của doanh nghiệpBH là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm BH do chu trình kinh doanh ngược làm cho chi phí phát

sinh trong nhiều trường hợp là không thể dự đoán được. Khách hàng sẽ yên
tâm hơn khi tham gia BH vào những công ty này và đây là điều kiện cơ bản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
để doanh nghiệp BH giữ vững và phát triển thị phần, đảm bảo sự phát triển
vững chắc của doanh nghiệp.
2.5.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ
Hiệu qủa kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng, là thước đo sự phát triển
của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo
ra những hiệu quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu đã đề
ra. Những chỉ tiêu như : tốc độ tăng trưởng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận
chỉ nói lên động thái của kết quả kinh doanh, chứ chưa đề cập đến chi phí
trong kinh doanh. Nếu chi phí tăng nhanh và sử dụng lãng phí thì về lâu dài,
tốc độ tăng đó sẽ không có ý nghĩa và hòan tòan không có hiệu quả.
Các chỉ tiêu là:
1) Hiệu quả theo doanh thu = doanh thu nghiệp vụ/ chi phí nghiệp vụ
2) Hiệu quả theo lợi nhuận = lợi nhuận trước thuế / chi phí của nghiệp vụ
3) Hiệu quả sử dụng tài sản = lợi nhuận trước thuế / tổng giá trị tài sản
4) Hiệu quả sử dụng vốn cố định = lợi nhuận sau thuế / NVCSH
Đối với doanh nghiệp BH thì nghiệp vụ nào có hiệu quả kinh doanh
cao sẽ là cơ sở để nâng cao năng lực cạnh tranh của nghiệp vụ đó trên thị
trường. khi đã có hiệu quả kinh doanh vào thì doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận
cao, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ tốt hơn cho khách hàng.
2.5.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động nghiệp vụ.
Mục tiêu của một doanh nghiệp BH là tối đa hóa giá trị cung cấp cho
khách hàng bởi khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm nào đem lại giá trị tối đa
cho họ. Đồng thời khách hàng cũng sẽ là người đánh giá chất lượng dịch vụ
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào được nhiều khách hàng lựa chọn sẽ là
doanh nghiệp có vị thế thị trường trong nghiệp vụ đó.
Trong lĩnh vực BH, chất lượng hoạt động khai thác, chất lượng hoạt

động chăm sóc khách hàng, giám định, bồi thường…
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×