Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

TỪCHIA TÀI SẢN CHUNG ĐẾN THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢCHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 61 trang )









CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
Năm: 2008







Tên công trình:
TỪ CHIA TÀI SẢN CHUNG ĐẾN
THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN







Thuộc chuyên ngành:
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH







TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM: 2008






Tên công trình:
TỪ CHIA TÀI SẢN CHUNG ĐẾN
THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN


Thuộc nhóm chuyên ngành khoa học: XH2b.
Họ và tên sinh viên: Phạm Thị Linh Nhâm Nam, Nữ: Nữ
Dân tộc: Kinh
Lớp: Dân sự 31B Năm thứ: 2/ Số năm đào tạo: 3.5
Khoa: Luật Dân sự
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Cừ




- 1 -
MỤC LỤC
Nội dung trang
MỤC LỤC 01
LỜI MỞ ĐẦU 03
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, ÝNGHĨA 05
1.1.1. Các khái niệm cơ bản 05
1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kì 06
hôn nhân
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc chia tài sản chung trong 07
thời kì hôn nhân
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ 08
HÔN NHÂN THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KÌ
1.2.1. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trong 08
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986
1.2.2. Chia tài sản chung trong Luật Hôn nhân và Gia đình 10
năm 2000
1.3. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH TƯƠNG TỰ TRONG PHÁP LUẬT 10
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Chế định chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân 11
Theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan
1.3.2. Một loại hậu hôn ước (postnuptial agreement) ở Hoa Kì 12
1.3.3. Qui ước về tài sản trong Luật Hôn nhân của Cộng hòa 13
nhân dân Trung Hoa năm 2001
Chương 2 QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN
2.1. TÀI SẢN CHIA 15

2.1.1. Tài sản chung theo qui định của pháp luật 15
2.1.2. Nguyên tắc của việc qui định tài sản chung 22
2.2. NGƯỜI YÊU CẦU CHIA 24

- 2 -
2.3. ĐIỀU KIỆN CHIA 25
2.3.1. Đầu tư kinh doanh riêng 25
2.3.2. Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng 26
2.3.3 Lí do chính đáng khác 27
2.4. CÁCH THỨC CHIA 27
2.5. HÌNH THỨC CHIA VÀ HIỆU LỰC 28
2.5.1. Thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng 28
2.5.2. Quyết định của tòa án 29
2.6. HẬU QUẢ PHÁP LÍ VỀ TÀI SẢN CỦA VIỆC CHIA 29
2.7. VIỆC KHÔI PHỤC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 31
Chương 3 VẤN ĐỀ THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. THỎA THUẬN NHẬP TÀI SẢN RIÊNG CỦA MỘT BÊN 32
VỢ HOẶC CHỒNG VÀO TÀI SẢN CHUNG
3.2. THỎA THUẬN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 33
TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN
3.2.1. Những ý kiến về sự hợp lí và hợp pháp của các 33
qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
3.2.2. Hạn chế về mặt xã hội của việc chia tài sản chung 37
3.3. THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG 38
THỜI KÌ HÔN NHÂN
3.3.1. Nội dung và hình thức 38
3.3.2. Tính hợp pháp 40
3.3.3. Tính hợp lí 42
3.3.4. Kiến nghị của người viết 44

LỜI KẾT 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
Phụ lục 50

- 3 -
LỜI MỞ ĐẦU

Hai người nam nữ khi chưa bước vào hôn nhân, họ là những người có tài
sản riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào
hôn nhân, điều đó đã khác.
Trong thời kì hôn nhân, hai người phải ràng buộc với nhau bởi rất nhiều
bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi. Lợi ích của họ vì thế đã hòa làm một để trở
thành một thứ có tên là lợi ích gia đình. Thời trước, khi xác lập, thay đổi,
chấm dứt một giao dịch, họ chỉ nhân danh lợi ích gia đình. Tài sản chung là
thứ cần có để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia đình khi tham gia
các giao dịch. Suy cho cùng, tài sản chung hay là tài sản riêng của vợ, chồng
cũng phải được khai thác để nhằm bảo đảm cho sự tồn tại, duy trì và phát
triển của gia đình. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, diện mạo của gia đình đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của
gia đình đã chuyển từ sản xuất sang tiêu dùng. Cùng với điều đó việc mỗi
người có đủ tài sản riêng để đặt cơ sở vật chất cho các hoạt động nghề nghiệp
và các giao dịch do mình thực hiện không phụ thuộc nhiều vào người còn lại
là rất cần thiết. Qui định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân là một giải pháp cho vấn đề đó trong bối cảnh chế độ tài sản của vợ
chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay là chế độ cộng đồng tạo sản.
Theo thời gian gần đây, số lượng án phải giải quyết về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong cả nước đang có chiều hướng gia
tăng: năm 2004 là 159 vụ, năm 2005 là 398 vụ, năm 2006 là 404 vụ, năm
2007 là 452 vụ
*

. Qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân tại
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 1986 song vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần có quan điểm thống
nhất về lí luận cũng như thực tiễn xét xử. Hơn nữa còn có một vấn đề là việc
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thường được coi là đi kèm với
những mâu thuẫn về tình cảm của vợ chồng, vì thế mọi người nghĩ chia tài

*
Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các tòa sơ thẩm
trong cả nước) - tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân tối cao.

- 4 -
sản chung trong thời kì hôn nhân là một việc không tốt. Điều đó cho thấy cần
thiết phải có sự nghiên cứu sâu về vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân của vợ chồng cũng như có giải pháp cho việc chia tài sản chung mà vẫn
có thể giữ được hạnh phúc gia đình. Chính vì lí do đó mà người viết chọn đề
tài “Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân” để nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết muốn đề cập, phân tích
toàn bộ các qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và chứng
minh được tính hợp pháp cũng như sự hợp lí của việc tồn tại một thỏa thuận
về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân với nội dung, hình thức và
phạm vi phù hợp, kiến nghị về việc cụ thể hóa thỏa thuận này để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng nó.
Hiện tại, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân được nhiều tác
giả đề cập đến trong nhiều công trình, bài viết, tuy nhiên chỉ là đề cập tới nó
như một phần của một vấn đề khác hoặc là chỉ đề cập tới một phần của nó.
Việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng cũng được nhiều tác giả đề cập tới
nhưng là đề cập dưới góc độ gắn nó với chế độ tài sản ước định và cho rằng
nó không phù hợp với qui định pháp luật hiện hành. Việc phân tích toàn bộ

các qui định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, tóm tắt về
một số chế định tương tự trong pháp luật của các nước và chứng minh tính
hợp pháp của một loại thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân sẽ là điểm mới của đề tài.
Nội dung chính của đề tài được kết cấu thành 3 chương với 13 mục lớn.
Cụ thể:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân;
- Chương 2: Qui định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân;
- Chương 3: Vấn đề thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong pháp luật
Việt Nam.

- 5 -
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG
THỜI KÌ HÔN NHÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, Ý NGHĨA
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
 Thời kì hôn nhân
Thời kì hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng. Theo
pháp luật Việt Nam thì thời kì hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn
đến ngày chấm dứt hôn nhân
1
. Tuy nhiên từ các qui định của Nghị quyết số
35/2000/NQ-QH10 có thể suy ra hai trường hợp đặc biệt mà thời kì hôn nhân
được tính theo cách khác, đó là trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập
trước ngày 3/1/1987 mà không đăng kí kết hôn, trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trong khoảng thời gian từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà

đăng kí kết hôn trong khoảng từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003 (thời kì
hôn nhân được tính từ ngày quan hệ vợ chồng thực tế được xác lập đến ngày
chấm dứt hôn nhân)
2
.
 Tài sản chung
Tài sản chung là tài sản thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu. Tuy nhiên
khái niệm tài sản chung được đề cập ở đây chỉ là tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng, tức là tài sản thuộc sở hữu của cả vợ và chồng mà với
tài sản đó phần quyền sở hữu của mỗi người không được xác định.
 Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không được định nghĩa
trong các văn bản pháp luật, có lẽ nhà làm luật cho rằng cụm từ chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân đã đủ để phản ánh khái niệm đó. Theo người
viết có thể tạm định nghĩa: chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là việc

1
Khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
2
TS. Nguyễn Văn Cừ, Thời kì hôn nhân - căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, Tạp chí Tòa án nhân
dân tháng 12 - 2006 (số 23), tr. 7 - 13.

- 6 -
chuyển một phần hoặc toàn bộ các tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng thành các tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng, hay
sở hữu chung theo phần của vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Chế định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể tồn tại khi
pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng vì
nếu không ghi nhận quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thì

vợ chồng sẽ không được bình đẳng trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản, mà mục đích của vợ chồng khi chia tài sản chung là để cho vợ hoặc
chồng hoặc cả hai có thể tự do định đoạt với những tài sản được chia.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện được
trong thời kì hôn nhân, việc chia tài sản thuộc sở hữu chung của hai người
chưa kết hôn hay chia tài sản của hai người đã li hôn đều không thể coi là chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện khi
tồn tại khối tài sản chung vì nếu khối tài sản chung không thể tồn tại thì
không có đối tượng để chia. Tuy nhiên một số trường hợp cũng có thể chia
với khối tài sản chung chưa thuộc sở hữu của vợ chồng trong hiện tại nhưng
sẽ phát sinh trong tương lai
3
.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không làm chấm dứt
hoàn toàn sở hữu chung của vợ chồng vì việc chia tài sản chung này không
chỉ đơn thuần như việc chia tài sản chung thuộc các hình thức sở hữu chung
như qui định của Bộ luật Dân sự
4
, khối tài sản chung vẫn có thể còn tồn tại
hoặc vẫn có thể xuất hiện (trong trường hợp không chia hết hoặc sau khi chia
lại được thừa kế chung, tặng cho chung, hay vợ chồng khôi phục chế độ tài
sản chung...)

3
Sẽ làm rõ điều này ở các phần sau.
4
Theo điều 22 6 Bộ luật Dân sự năm 2005 việc chia tài sản chung là một tro n g số các
căn cứ làm ch ấm dứt sở hữ u ch ung.


- 7 -
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân hoàn toàn không làm ảnh
hưởng tới quan hệ nhân thân của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung, quan
hệ vợ chồng vẫn tồn tại trước pháp luật, do đó vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng như chung thủy yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, tôn
trọng giữ gìn danh dự, nhân phẩm uy tín cho nhau, tôn trọng tự do tín ngưỡng
tôn giáo của nhau … điều này khác hẳn với chế định li thân ở một số nước.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải pháp để loại
bỏ các mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản. Tài
sản chung của vợ chồng theo qui định pháp luật phải được quản lí theo sự
nhất trí của hai người, định đoạt theo sự thỏa thuận của hai người mà hai
người thì không phải bao giờ cũng có thể nhất trí về cách quản lí của nhau,
bằng lòng về cách định đoạt tài sản của nhau và như thế thì chắc chắn sẽ có
mâu thuẫn phát sinh, mâu thuẫn đó khiến cho việc dịch chuyển tài sản bị
chậm lại, có khi bị ngừng lại gây bất lợi cho kinh tế gia đình. Còn việc định
đoạt tài sản thuộc sở hữu cá nhân thì không cần có sự nhất trí, sự bằng lòng
của nhau, chính vì vậy mà việc chia tài sản chung sẽ là một giải pháp để loại
bỏ các mâu thuẫn trong quản lí, sử dụng và định đoạt tài sản.
Việc chia tài sản chung là một giải pháp cho các cặp vợ chồng có tuổi vì
lí do nào đó mà có mẫu thuẫn sâu sắc về tình cảm, nhưng lại không dám ra
tòa li hôn do sợ điều tiếng của dư luận, sợ mất hòa khí gia đình, sợ con cái lo
buồn, sợ hàng xóm chê cười. Qui định này tạo điều kiện cho họ được có tài
sản riêng để sống độc lập, tránh đối mặt với các mâu thuẫn.
Qui định về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã đánh dấu
sự chuyển mình theo thời đại của các qui định pháp luật về quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng. Việt Nam trong một thời gian dài tồn tại dựa vào nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu nên tư duy của con người khó lòng thoát khỏi nguyên
tắc của xã hội trồng lúa nước - đó là ổn định để tồn tại, đoàn kết để tồn tại,

chính vì thế mà người ta thường lạ lẫm với việc rạch ròi về tài sản, nhất lại là
tài sản của vợ chồng, nếu như cặp vợ chồng nào có sự độc lập về tài chính với

- 8 -
nhau hay sự phân định “của anh, của tôi” thì thường bị người ta chê cười.
Sang thời đại của công nghệ thông tin, của internet, của thẻ tín dụng, của toàn
cầu hóa sự độc lập của mỗi cá nhân không thể bị bó buộc trong lối tư duy cũ
đó nữa. Và con người thực sự cần sự độc lập hơn về tài chính để có thể tồn tại
trong xã hội hiện đại. Việc chia tài sản trong chung trong thời kì hôn nhân
như một giải pháp để dung hòa giữa truyền thống xưa và tư duy của ngày nay.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN
NHÂN THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ
Như đã nói ở trên người Việt Nam tự ngàn xưa đã luôn coi trọng sự ổn
định, với tư duy “an cư thì mới lạc nghiệp”, gia đình với người Việt Nam luôn
được đặt lên hàng đầu, và sự phân chia tài sản trong thời kì hôn nhân trong cố
luật là không thể có.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong pháp
luật Việt Nam trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực là
không hề có. Tuy một số luật dưới thời Ngụy quyền, thời Pháp thuộc do ảnh
hưởng của pháp luật phương Tây cũng qui định cho vợ chồng được thỏa
thuận về tài sản trong hôn ước (lập trước khi kết hôn), nhưng hôn ước này thì
lại bất di bất dịch nên việc chia tài sản chung không thể được thực hiện trong
thời kì hôn nhân.
Qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân lần đầu tiên xuất
hiện trong pháp luật Việt Nam tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
1.2.1. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 1986
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 chế độ tài sản vợ chồng là
chế độ tài sản pháp định, tài sản chung của vợ chồng “gồm tài sản do vợ hoặc
chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được cho chung”
5
. Luật không qui định rằng những tài sản mà vợ chồng

5
Xem điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.

- 9 -
thỏa thuận là tài sản chung thì cũng thuộc khối tài sản chung nhưng lại qui
định "đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế
riêng hoặc được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có
quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”
6
và việc
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo
qui định của Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động
của công chứng nhà nước
7
.
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể được chia trong thời kì hôn nhân
khi có lí do chính đáng và có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên. Chỉ có
một cách thức chia duy nhất là quyết định của tòa án. Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1986 không dự liệu các lí do chính đáng nên việc đánh giá lí do
chính đáng hoàn toàn phụ thuộc vào tòa án (Nghị quyết hướng dẫn Luật Hôn
nhân và Gia đình có nêu một trường hợp được coi là lí do chính đáng đó là vợ
chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn li hôn mà
chỉ muốn ở riêng
8
). Nguyên tắc chia giống như chia tài sản trong một vụ li

hôn
9
. Luật cũng không hề dự liệu về hậu quả pháp lí về tài sản sau khi chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân và các văn bản dưới luật cũng không hướng
dẫn vấn đề này. Vấn đề nhập lại tài sản riêng có được do chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân cũng không được qui định trong luật, mà luật cũng chỉ
qui định về việc nhập hay không nhập các tài sản có trước khi kết hôn, tài sản
được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
10
.
Xuất phát từ tình hình năm 1986 đất nước ta đang bước vào thời kì đổi
mới, nên mọi qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chưa được
cụ thể. Hơn nữa với tình hình thời đó thì không có một vụ án nào về chia tài

6
Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
7
Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hoặc chồng có
trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản đó
được nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”
8
Xem Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988.
9
Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 qui định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có
lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này” (điều 42
có qui định về nguyên tắc chia tài sản khi li hôn).
10
Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.

- 10 -

sản chung trong thời kì hôn nhân nào được đưa ra xét xử sơ thẩm
11
, trường
hợp chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà được tòa án giải quyết (nếu
có) cũng chỉ được coi là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.
1.2.2. Chia tài sản chung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tài sản chung của vợ chồng
bao gồm: “tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã bổ sung thêm một căn cứ xác lập tài sản
chung của vợ chồng đó là thỏa thuận của vợ chồng.
Theo luật tài sản chung của vợ chồng cũng chỉ được chia khi có lí do chính
đáng, luật dự liệu cụ thể hai trường hợp được coi là có lí do chính đáng đó là vợ
chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Luật cũng cho
phép vợ chồng được thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản bên cạnh việc
chia tài sản chung bằng quyết định của tòa án.
Luật đã dự liệu về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân, và theo qui định về tài sản chung thì vợ chồng cũng có thể nhập lại tài
sản đã được chia vào khối tài sản chung theo căn cứ xác lập tài sản chung là thỏa
thuận của vợ chồng.
Vấn đề qui định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ
được làm rõ hơn ở chương 2.
1.3. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH TƯƠNG TỰ TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Do sự khác nhau về nền văn hóa và các điều kiện kinh tế, chính trị
những hình thức có thể coi là chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân ở một


11
Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các tòa sơ thẩm
trong cả nước) thì trong thời gian từ năm 1987 đến hết quí 3 năm 2004 chưa hề có vụ án chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân nào được thụ lí - tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân tối cao.

- 11 -
số nước có sự khác nhau nhất định với Việt Nam. Sau đây xin được điểm qua
một số hình thức tương tự chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
1.3.1. Chế định chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo Bộ
luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
12

Quyền sở hữu của vợ chồng ở Thái Lan được điều chỉnh bằng hai
phương thức: theo hôn ước mà vợ chồng lập ra trước khi cưới và theo qui
định của pháp luật khi vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước đó không
được công nhận.
Theo qui định của pháp luật Thái Lan kể từ thời điểm kết hôn vợ chồng
sẽ phát sinh quan hệ tài sản chung với những tài sản có nguồn gốc sau:
 Tài sản vợ chồng làm ra trong thời kì hôn nhân.
 Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kì hôn nhân thông qua một
di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong các văn bản
này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung.
 Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng
Ngoài ra trong trường hợp tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng không
chứng minh được nó là của riêng một bên vợ, chồng thì tài sản đó dược coi là
tài sản chung
13
.
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể chia trong thời kì hôn nhân trong
các trường hợp cụ thể sau:

 Một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không
có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản
của mình trong khối tài sản chung
14

 Một bên vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lí tài
sản chung như: gây mất mát tài sản chung mà không có lí do chính đáng; lâm
vào tình trạng nợ nần hoặc chịu những món nợ vượt quá 1/2 giá trị tài sản

12
Nguyễn Hồng Hải , Vài nét về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Thái Lan, Tạp chí Luật học số
6 năm 1997, tr. 42 - 45.
13
Xem điều 1474 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
14
Xem điều 1488 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.

- 12 -
chung; cản trở vợ hoặc chồng mình trong việc quản lí tài sản chung mà không
có lí do chính đáng
15
.
 Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản.
16

 Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên mất năng lực hành vi và người
kia bị coi là không thích hợp để làm người giám hộ và do đó bố hoặc của
người đó hoặc một người ngoài được chỉ định làm người giám hộ thì người
giám hộ đó sẽ trở thành người đồng quản lí tài sản chung với người kia.
Trong trường hợp này, vợ hoặc chồng của người bị mất năng lực hành vi có

quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung nếu có tình huống quan trọng gây
nguy hại cho họ
17

Sau khi chia tài sản chung thì phần tài sản chia cho mỗi bên cợ chồng trở
thành tài sản riêng của họ. Bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc chồng có được sau
khi chia sẽ là tài sản riêng của người đó và không được coi là tài sản chung.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung trở thành tài sản
riêng chia đều cho mỗi bên. Hoa lợi thu được từ tài sản riêng của người nào
thuộc sở hữu của người đó
18
.
Chế độ tài sản chung chỉ được tòa án cho phục hồi khi có yêu cầu của
vợ, chồng và khi các lí do chia tài sản chung đã hết.
1.3.2. Một loại hậu hôn ước (postnuptial agreement) ở Hoa Kì
19

Ở Hoa Kì chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản ước định, luật
pháp chỉ can thiệp vào việc qui định tài sản của vợ chồng khi họ không lập
hôn ước hay còn gọi là khế ước tiền hôn nhân (prenuptial agreement) và việc
qui định về tài sản của vợ chồng ở mỗi bang lại có sự khác nhau. Tuy nhiên
pháp luật Hoa Kì cũng cho phép các cặp vợ chồng được lập hậu hôn ước
(postnuptial agreement) một loại khế ước được lập sau khi kết hôn nhưng
trước khi li hôn để qui định về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.

15
Xem điều 1484 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
16
Xem điều 1491 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
17

Xem điều 1598: 1598/17 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
18
Xem điều 1492 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
19
Dr. Ronald B. Standler, Prenuptial and postnuptial contract law in the USA, page 18.

- 13 -
Có ba kiểu hậu hôn ước:
 Hậu hôn ước qui ước về tài sản của vợ chồng khi xảy ra cái chết của
một người, như vậy thì người còn sống sẽ không phải nhận tài sản từ di chúc
hay từ qui định của pháp luật về thừa kế.
 Hậu hôn ước qui ước về những tranh chấp khi li hôn và tránh việc
phải theo sự phân xử của tòa án bằng việc qui định rõ về việc chia tài sản, về
quyền nuôi con, về việc cấp dưỡng. Hậu hôn ước loại này được bao gồm với
bản án li hôn của tòa án.
 Hậu hôn ước qui định về quyền lợi về tài sản trong thời kì hôn nhân
bao gồm: qui định về việc giới hạn hay từ bỏ việc cấp dưỡng; đặt khối tài sản
có được trong suốt thời kì hôn nhân trong tình trạng riêng biệt.
Như vậy có thể nói kiểu hậu hôn ước thứ ba cũng là một hình thức chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân, hậu hôn ước này phải được lập thành
văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, giá trị của hậu hôn ước chỉ được công
nhận khi tài sản riêng của nhau được các bên biết rõ, không có sự hăm dọa,
gian dối hay cưỡng bức trong việc lập hôn ước. Sau khi lập hậu hôn ước, chế
độ tài sản của vợ chồng là chế độ biệt sản.
1.3.3. Qui ước về tài sản trong luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ( sửa đổi năm 2001)
20

Quyền sở hữu của vợ chồng ở Trung Quốc được điều chỉnh theo phương
thức qui ước của vợ chồng song song với những qui định của pháp luật:

Theo qui định của điều 17 Luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa (sửa đổi năm 2001) thì:
“Trong thời gian còn duy trì quan hệ hôn nhân những tài sản dưới đây
thuộc về sở hữu chung của hai vợ chồng
1. Lương, tiền thưởng
2. Lợi nhuận từ sản xuất và kinh doanh
3. Lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức

20
Xem

- 14 -
4. Tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định tại
điều 18 chương 3 của luật này
5. Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung.
Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung, hai vợ chồng bình đẳng về
quyền xử lí”.
Tuy nhiên Luật Hôn nhân (sửa đổi năm 2001) có qui định cho vợ chồng
qui ước để những tài sản trên không còn là tài sản chung nữa. Theo điều 19:
“Hai vợ chồng có thể qui ước những tài sản có được trong thời gian
quan hệ hôn nhân còn duy trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở
hữu cá nhân, sở hữu chung hoặc sở hữu cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ
phận.
Qui ước được ghi lại bằng văn bản. Nếu không có quy ước hoặc quy ước
không rõ ràng, áp dụng thích hợp theo qui định của điều 17 và 18 luật này.
Qui ước về những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân
đang được duy trì và những tài sản trước hôn nhân, có sức ràng buộc đối với
cả hai phía”.
Theo qui định đó thì vợ chồng hoàn toàn có thể thương lượng với nhau
về vấn đề tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Việc qui ước này phải

được lập thành văn bản, văn bản này có thể được công chứng
21
. Nếu không có
bản thỏa thuận này hoặc bản thỏa thuận này không rõ ràng thì mới áp dụng
thích hợp theo điều 17 và điều 18 (qui định về tài sản chung và tài sản riêng
của vợ chồng)
22
.


21
Điều 11 luật Công chứng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có qui định về cơ cấu công chứng việc phân
chia tài sản.
22
Điều 18: Với một trong những tình hình dưới đây, tài sản thuộc về một bên vợ hoặc chồng:
1, tài sản của một bên trước hôn nhân
2, một bên vì thân thể có thương tích có được phí chữa trị, phí trợ cấp cuộc sống của người tàn tật.
3, những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một bên vợ hoặc
chồng.
4, những nhu yếu phẩm chuyên dùng của một bên
5, những tài sản khác mà cần thuộc về một bên.

- 15 -
Chương 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN

2.1. TÀI SẢN CHIA
Tài sản để chia phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng.

2.1.1. Tài sản chung theo qui định của pháp luật
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 qui định
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài
sản chung”.
Theo qui định này thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm: các tài sản
do vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân; các tài sản có được do thu nhập
hợp pháp trong thời kì hôn nhân; các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho
chung; các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.


- 16 -
 Thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân
 Các thu nhập có tính ổn định
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trước hết phải
kể đến các khoản thu nhập có tính chất ổn định của vợ, chồng như lương, lợi
nhuận do hoạt động kinh doanh mang lại, hoa lợi lợi tức có tính chất ổn định
như tiền do bán cây ăn quả lâu năm, tiền cho thuê nhà…Những thu nhập này

thường là nguồn thu nhập chính, ổn định để đảm bảo cho cuộc sống chung
của gia đình. Theo điều 233 Bộ luật Dân sự thì người lao động, người tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh có quyền sở hữu đối với tài sản tạo ra
đó
23
, nhưng theo Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản đó được qui định là
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo điều 235 Bộ luật Dân sự thì “chủ sở
hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi
tức đó” như vậy có thể thấy nếu tài sản gốc là tài sản chung thì hoa lợi lợi tức
tất nhiên sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng, nhưng nếu tài sản gốc là tài sản
riêng của một người thì hoa lợi lợi tức phát sinh trong trường hợp này cũng
thuộc khối tài sản chung theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
 Các thu nhập có tính chất bất thường
Một số thu nhập có tính chất bất thường, sự phát sinh ra nó là bất thường
hoặc có thể là bất ngờ với chủ sở hữu. Các thu nhập này có thể là do trúng xổ
số, trúng thưởng, được hưởng các loại khuyến mại bất ngờ, hoặc cũng có thể
là lợi tức bất thường: cổ phiếu đột ngột lên giá... Trong các trường hợp này
chỉ cần quyền sở hữu đối với chủ sở hữu (vợ hoặc chồng hoặc cả hai) được
xác lập thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Ví dụ một người mua xổ số
trước ngày kết hôn, sau khi kết hôn thì có kết quả và trúng số độc đắc, số tiền
thưởng sẽ là tài sản chung của vợ chồng.

23
Điều 233. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh
hợp pháp
Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản do
lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.

- 17 -

 Tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân
Tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân có thể thuộc một trong các trường
hợp sau
24
:
 Tài sản tạo ra do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến (các điều 236, 237,
238 Bộ luật Dân sự)
Trong trường hợp này nếu tất cả các tài sản được đem sáp nhập trộn lẫn
chế biến là tài sản chung thì đương nhiên quyền sở hữu được xác lập theo qui
định của pháp luật theo các điều 236, 237, 238 đối với vật mới là sở hữu
chung của vợ chồng.
Trong trường hợp tất cả tài sản được đem trộn lẫn, sáp nhập, chế biến là
tài sản riêng thì tài sản mới tạo ra cũng thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng. Bởi đó là tài sản mới là tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân.
Trong trường hợp tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng được
đem sáp nhập trộn lẫn chế biến với tài sản của người khác để tạo thành tài sản
mới thì phần quyền sở hữu với tài sản mới thuộc sở hữu chung của vợ chồng
theo qui định của các điều 236, 237, 238.
 Tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo các điều từ 239 đến
244 và điều 247, 246 Bộ luật Dân sự
Trường hợp này bao gồm các tài sản có được do nhặt được vật do người
khác đánh rơi, bỏ quên, nhặt được vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở
hữu, đào được vật bị chôn giấu, tìm thấy vật bị chìm đắm, bắt được gia súc,
gia cầm bị thất lạc, các trường hợp được xác lập quyền sở hữu với vật nuôi
dưới nước, tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, tài sản có
được do phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Có lẽ theo tinh thần của điều luật và mục đích của việc qui định tài sản
chung thì chỉ cần tài sản được xác lập quyền sở hữu vào thời kì hôn nhân thì
đã thuộc tài sản chung, các trường hợp đào được, nhặt được… có thể coi như
là một trường hợp của thu nhập bất thường của vợ chồng. Đối với các trường


24
Cách chia giữa tài sản tạo ra và thu nhập hợp pháp trong thời kì hôn nhân chỉ là tương đối, và đây chỉ là
cách chia của người viết, trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 thì các tài sản này được
coi là thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng.

- 18 -
hợp này, chỉ cần quyền sở hữu thuộc về một trong hai người trong thời kì hôn
nhân thì đó đương nhiên là tài sản chung.
Ví dụ 1: Một người bắt được một con bò bị lạc, sau khi đã báo cho ủy
ban nhân dân xã nơi cư trú để thông báo rộng rãi cho chủ sở hữu biết mà nhận
lại. Ba tháng sau người đó kết hôn, ba tháng sau nữa là hết thời hạn sáu tháng
không có ai đến nhận bò, con bò là tài sản chung của vợ chồng.
25

Ví dụ 2: Một người mua một bức tượng bằng vàng chiếm hữu công khai,
liên tục, nhưng không biết đó là đồ ăn trộm, 9 năm sau người đó kết hôn, một
năm sau khi kết hôn, bức tượng bằng vàng sẽ thuộc sở hữu chung của vợ
chồng chứ không phải là tài sản riêng của một người như trong trường hợp nó
không phải là đồ ăn trộm
26
.
 Tài sản có được theo thỏa thuận dưới dạng các hợp đồng, mua bán,
vay mượn… đối với các chủ sở hữu khác
Với các trường hợp này, dù tiền dùng để mua, tài sản dùng để trao đổi,
tài sản dùng để thế chấp cầm cố... là tài sản riêng hay chung thì những tài sản
mua được, đổi được, vay được....có được thông qua sự thỏa thuận này cũng
thuộc khối tài sản chung. Theo qui định pháp luật thì việc định đoạt tài sản
chung của vợ chồng theo nguyên tắc thỏa thuận, dễ nhận thấy một điều như
sau: một căn nhà thuộc sở hữu riêng của anh chồng, trong trường hợp nó

không phải là có giá trị lớn so với tổng số tài sản của hai vợ chồng, anh chồng
có thể tự do định đoạt, có thể cho, tặng bất cứ ai tùy ý, vì đó là tài sản riêng
của anh ta, nhưng khi bán đi thì lại không thể tự do cho ai đó chính số tiền
bán nhà vì số tiền đó lúc này đã là tài sản chung của vợ chồng. Thậm chí do
luật chỉ qui định là tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân nên “trong trường hợp
vợ hoặc chồng giao kết hợp đồng mua tài sản và đã trả tiền trước khi kết hôn,
nhưng quyền sở hữu đối với tài sản chỉ được chuyển cho người mua sau khi
kết hôn thì tài sản mua được cũng là tài sản chung”
27
. Ví dụ một người mua
một căn nhà trước khi cưới, đã trả tiền đầy đủ, chỉ chưa làm giấy chứng nhận

25
Xem điều 242 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc.
26
Điều 247 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
27
Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, tập 2, tr.15

- 19 -
quyền sở hữu nhà, sau khi kết hôn căn nhà mới chính thức thuộc quyền sở
hữu của người đó, khi đó căn nhà là tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy ta nhận thấy bất cứ tài sản nào hợp pháp tạo ra trong thời kì
hôn nhân cũng thuộc khối tài sản chung, bất kể nguồn gốc, cách thức để tạo
ra nó.
 Các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho chung
 Thừa kế chung
Theo căn cứ xác lập quyền sở hữu do được thừa kế và các qui định về
thừa kế thì nếu người có di sản thừa kế chỉ rõ trong di chúc là để lại tài sản
thừa kế cho cả hai vợ chồng thừa kế chung thì đó mới được coi là tài sản

thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Nếu là thừa kế theo di chúc mà người thừa
kế theo di chúc chỉ là một người hoặc thừa kế theo pháp luật mà chỉ có một
người được hưởng thừa kế thì đương nhiên tài sản thừa kế là tài sản riêng của
vợ hoặc chồng. Nếu di chúc chỉ rõ là cho cả hai vợ chồng được thừa kế tài sản
nhưng lại chỉ rõ phần quyền của mỗi người thì tài sản đó thuộc sở hữu chung
theo phần của hai người theo qui định của Bộ luật Dân sự (không phải là sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng). Nếu hai người được thừa kế theo pháp
luật (trường hợp cha mẹ được thừa kế tài sản của con, hoặc trường hợp con đẻ
kết hôn với con nuôi, con nuôi kết hôn với con nuôi được thừa kế tài sản của
cha mẹ...) thì tùy từng trường hợp có thể coi đây tài sản riêng của mỗi người,
hoặc tài sản thuộc sở hữu chung theo phần dân sự của hai người, chứ không
thể coi là thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
 Tặng cho chung
Cũng như trường hợp thừa kế, nếu như người có tài sản tặng cho thể
hiện rõ là tặng cho chung vợ chồng mà không hề phân biệt phần quyền của
mỗi người đối với tài sản tặng cho thì tài sản đó mới được coi là sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng.
 Các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung
Do tôn trọng ý chí của vợ chồng, xuất phát từ thực tế cuộc sống là cần
phải có tài sản chung để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, xuất phát từ sự gắn
bó tình cảm vợ chồng, từ quan niệm không phân biệt “của anh của tôi” vợ

- 20 -
chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung và
Luật Hôn nhân và Gia đình cũng qui định nó là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung do thỏa thuận này có thể là tài sản riêng có được trước khi kết
hôn, cũng có thể là tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng, cũng có thể là
tài sản riêng do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Với những tài sản là
là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn hoặc những tài
sản là tài sản riêng do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì việc thỏa

thuận này phải được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng, một số
trường hợp pháp luật qui định thì văn bản đó phải được công chứng chứng
thực. Việc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhằm trốn tránh các
nghĩa vụ về tài sản thì sẽ bị vô hiệu.
28

 Một số trường hợp đặc biệt
 Quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân
Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002, “Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Thực ra theo luật
thì qui định về quyền sử dụng đất không có gì đặc biệt hơn so với qui định về
các tài sản khác. Cũng có thể nói là việc qui định riêng về quyền sử dụng đất
này không cần thiết nếu như quyền sử dụng đất tự bản thân nó không có
những điểm đặc thù và tầm quan trọng nhất định. Quyền sử dụng đất là một
loại quyền dân sự đặc thù, là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền
độc lập là quyền sở hữu toàn dân của đất đai, vợ chồng chỉ có quyền được
quyền tài sản này khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất.
29
Việc qui
định riêng về quyền sử dụng đất có lẽ chỉ để làm rõ về chế độ pháp lí của loại
tài sản này trong quan hệ vợ chồng.




28
Xem điều 9 và điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ - CP ngày 3/10/2001.
29

Nguyễn Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ luật học, năm 2002, tr. 40.

- 21 -
 Tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của vợ hoặc chồng hoặc cả
hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng không?
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản riêng của vợ
chồng bao gồm những tài sản tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định về chia tài sản chung trong thời
kì hôn nhân; đồ dùng, tư trang cá nhân
30
. Như vậy theo qui định này thì tài
sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là tài
sản riêng. Chính vì thế mà chỉ còn cách xác định nó là tài sản chung của vợ
chồng. Tuy nhiên về mặt thực tế nếu tài sản bị xâm phạm thì khoản tiền bồi
thường có thể được coi là tài sản chung (điều này cũng hợp lí bởi ngay cả khi
bán tài sản để mua tài sản mới thì tài sản mới cũng thuộc tài sản chung); nếu
khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút do bị thiệt hại về sức khỏe thì đó rõ ràng là tài sản chung giống như thu
nhập hợp pháp vậy; nếu như trong trường hợp khoản tiền bồi thường là để lo
cho chi phí thuốc thang… thì đó cũng có thể coi là tài sản chung bởi thực tế
thì khối tài sản chung phải ứng trước để lo chi trả cho thuốc thang và bởi vì
cũng có thể coi đây là nhu cầu thiết yếu của gia đình; tuy nhiên trường hợp
khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm thì
sao? Theo đúng qui định của luật thì nó là tài sản chung, nhưng lí giải nó như
thế nào? Có lẽ chỉ còn cách lí giải duy nhất là khi vợ chồng gắn bó với nhau

thì coi nhau như một, mọi sự tổn hại về tinh thần của người này cũng là tổn
hại về tinh thần, danh dự của người kia, nên tài sản bồi thường là tài sản
chung.
 Tài sản trí tuệ
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tất cả các tài sản, thu
nhập hợp pháp được tạo ra trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung của vợ

30
Xem khoản 1 điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

- 22 -
chồng. Tuy nhiên với tài sản trí tuệ thì lại khác mặc dù nó cũng là một loại tài
sản dưới dạng quyền tài sản. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, người
ta chỉ có thể thể hiện quyền sở hữu với nó thông qua các quyền tài sản. Quyền
sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền sở hữu đối với giống cây trồng
31
trong đó có các quyền tài sản.
Các chủ sở hữu đối với ba loại quyền trên đã được chỉ rõ trong Luật Sở hữu
trí tuệ. Cụ thể: chủ sở hữu quyền tác giả chỉ bao gồm tác giả (người trực tiếp
sáng tạo ra tác phẩm), đồng tác giả, tổ chức cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả
hoặc kí kết hợp đồng với tác giả, người thừa kế; người được tác giả trao
quyền theo hợp đồng, Nhà nước
32
; chủ sở hữu quyền liên quan chỉ có thể là
những cá nhân, tổ chức đã được qui định cụ thể trong điều 44 Luật Sở hữu trí
tuệ; chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được qui định rõ trong điều
121 Luật Sở hữu trí tuệ... Như vậy, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật
chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ thì vợ hoặc chồng của chủ sở hữu đối với
các quyền sở hữu trí tuệ không mặc nhiên là chủ sở hữu của các tài sản trí

tuệ, chính vì thế mà họ hoàn toàn không thể tham gia cùng với vợ (chồng)
mình định đoạt, sử dụng tài sản trí tuệ đó, người sử dụng tài sản trí tuệ cũng
không phải xin phép cả hai vợ chồng khi sử dụng tài sản trí tuệ theo qui định
của luật. Chỉ có nhuận bút, thù lao, và các quyền lợi vật chất khác là thuộc sở
hữu chung của vợ chồng vì đây là thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời
kì hôn nhân.
2.1.2. Nguyên tắc của việc qui định tài sản chung
Theo nguyên tắc của luật dân sự thì quyền sở hữu chung được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc qui định của pháp luật hoặc
theo tập quán.
Theo những phân tích ở phần trên (2.1.1) ta thấy tài sản chung của vợ
chồng được xác định theo các nguyên tắc sau:

31
Xem khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
32
Xem điều 13 và các điều từ 37 đến 42 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

- 23 -
Các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn tuân theo qui
định của pháp luật
33
. Tuy nhiên tài sản chung của vợ chồng cũng được xác
định theo hai phương thức đối với những tài sản có nguồn gốc khác nhau.
Theo phương thức bắt buộc đối với những tài sản là tài sản tạo ra trong thời kì
hôn nhân, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác; theo phương thức tôn trọng ý chí của người có tài sản:
đối với những tài sản mà chủ sở hữu đã chỉ rõ là cho vợ chồng thừa kế chung
hoặc đã chỉ rõ là tặng cho chung hai vợ chồng thì đó là tài sản chung của vợ
chồng, tôn trọng ý chỉ của vợ, chồng nên những tài sản nào vợ chồng thỏa

thuận là tài sản chung nó cũng thuộc khối tài sản chung.
Theo qui định của pháp luật thì có vẻ như những tài sản nào có được
trong thời kì hôn nhân mà phải đền bù thì đều coi là tài sản chung. Có lẽ là
do tính cộng đồng của hôn nhân nên mọi thứ của hai vợ chồng lúc đó đều là
của nhau. Chính vì vậy mọi thứ vợ chồng bỏ ra trong thời kì hôn nhân đều
được coi là của chung, và thứ có được nhờ nó cũng phải được coi là của
chung. Vậy nên lương, tiền thưởng, lợi nhuận do sản xuất kinh doanh và các
thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung.
Những tài sản nào mà không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng
thì là tài sản chung. Nguyên tắc này được ghi nhận trong khoản 3 điều 27
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. Theo các qui định của luật thì ta thấy khối
tài sản chung bao giờ cũng có xu hướng thu hút các khối tài sản khác. Chính
vì thế mà tất cả những tài sản nào không đủ chứng cứ là tài sản riêng thì đều
được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Tất cả những điều trên là “do tính cộng đồng của hôn nhân và mục đích
của quan hệ vợ chồng được xác lập, khi dự liệu chế độ tài sản giữa vợ chồng,
Luật Hôn nhân và Gia đình đã thực hiện cách thức điều chỉnh đặc biệt để qui
định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; những đặc điểm riêng biệt

33
Xem thêm về “Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chòng trong pháp luật” - TS. Nguyễn Văn Cừ , Chế
độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, phần IV chương I, NXB Tư
pháp,2008.

×