Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NHỮNG HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.97 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI:
“NHỮNG HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM
VÀ GIẢI PHÁP”
MỤC LỤC
Hà Nội, tháng 04 năm 2011
Giáo viên hướng dẫn
Lớp
Nhóm

: Ths. Nguyễn Thu Hằng
: TMA320.1
: 1. Hoàng Đức Hiển
2. Nguyễn Thanh Hoa
3. Lê Minh Hoàn
4. Nguyễn Minh Hoàng Linh
5. Nguyễn Tùng Linh
6. Nguyễn Hùng Mạnh
7. Trần Bích Ngọc
8. Nguyễn Quang Ngọc
9. Tô Quang Phúc
10. Huỳnh Thanh Hà Trang
11. Nguyễn Thị Hà Trang
12. Lê Huyền Trang
0851010061
0851010508
0851010216


0851010022
0851010071
0851010026
0851010023
0851010551
0851010143
0851010006
0851010017
0851010041
2
I MỞ ĐẦU
Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Những qui luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền
kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng
ta. Chúng ta cần phải hiểu các qui luật đó và tự điều chỉnh bản thân cho phù hợp với
diễn biến của qui luật. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn
cầu hóa nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một qui luật của loài người tiến bộ. Để bắt
kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù
hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Những cải cách về thuế của thế giới nhằm
tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực về thương mại mậu dịch, nguồn lao động .đã có
những ảnh hưởng không nhỏ đối với các quốc gia.
Đối với Việt Nam khi Hiệp định về thuế quan AFTA, Hiệp định thương mại Việt
- Mỹ và khi gia nhập WTO, những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách là
một điều không thể tránh khỏi. Nhận thức được điều đó, nước ta đã và đang tiến hành
cuộc cải cách thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế còn nhiều thiếu sót của mình nhằm
đáp ứng được đòi hỏi của thời kì mới.
Từ hơn 40 năm qua, trong hệ thống thuế của các nước trên thế giới, thuế giá trị
gia tăng chiếm một vị trí rất quan trọng. Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu,
người tiêu dùng là người chịu thuế nhưng người bán hàng là người nộp thuế. Nó có vai
trò điều tiết thu nhập để đảm bảo công bằng xã hội, vai trò tạo lập nguồn tài chính cho

ngân sách Nhà nước, vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua điều tiết tiêu dùng
và tiết kiệm. Vai trò to lớn của thuế nói chung và thuế giá trị gia tăng nói riêng không
thể phủ nhận.
Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX
trong kỳ họp thứ 11 đã biểu quyết thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (Thuế GTGT).
Luật thuế mới này ra đời thay thế luật Thuế Doanh thu được áp dụng từ năm 1990 để
góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá, dịch vụ, khuyến khích phát
triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân
3
sách nhà nước. Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/1999.
Điểm lại quá trình thực hiện Luật thuế GTGT sau nhiều năm được đưa vào áp
dụng, các mặt tích cực và tiêu cực trong việc thi hành Luật đã bộc lộ rõ: Số thu ngân
sách tăng lên theo từng năm, Thuế GTGT không thu trùng lắp, các mức thuế suất ít
hơn nhiều so với Luật thuế doanh thu.Tuy nhiên, việc áp dụng Luật thuế GTGT còn
nhiều vấn đề nổi cộm về chính sách như hai phương pháp tính thuế tạo ra hai “sân
chơi” không bình đẳng, việc lợi dụng chủ trương hoàn thuế nhằm khuyến khích xuất
khẩu của nhà nước làm hồ sơ giả rút ruột, moi tiền của nhà nước, việc lợi dụng những
kẽ hở để trốn lậu thuế.
Làm thế nào để Thuế GTGT thực sự trở thành một sắc thuế tiến bộ, phù hợp với
nền kinh tế Việt Nam thúc đẩy sản xuất cũng như tạo lập một nguồn thu ổn định, dồi
dào cho ngân sách nhà nước đang trở thành một câu hỏi bức xúc đối với những nhà lập
pháp, những nhà quản lý.
Trong khuôn khổ một tiểu luận, là sinh viên Đại học Ngoại Thương có điều kiện
được nghiên cứu về thuế, đặc biệt là Thuế GTGT, với những hiểu biết tuy còn rất hạn
chế chúng em xin trình bày một nghiên cứu về Thuế GTGT với nội dung “Những hạn
chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và giải
pháp” làm tiểu luận. Những suy nghĩ dưới đây được định hướng theo những yêu cầu
và mục tiêu của Chính phủ cho Bộ Tài Chính trong việc nghiên cứu sửa đổi Luật thuế
GTGT mà chúng em có điều kiện tiếp xúc với cô Hà Thị Thanh Hương - Phó trưởng

phòng thanh tra Cục Thuế tỉnh Phú Yên.
Tiểu luận này có kết cấu gồm 3 chương
Chương I: Khái quát chung về Thuế GTGT
Chương II: Khó khăn hiện tại trong việc hành thu Thuế GTGT
Chương III: Giải pháp kiến nghị nhằm thực hiện hiều quả luật thuế GTGT
Chúng em xin chân thành cảm ơn Ths. Nguyễn Thu Hằng, đã trực tiếp chỉ bảo
tận tình và hướng dẫn chúng em hoàn thành tiểu luận này. Đồng thời chúng em muốn
4
gửi lời cảm ơn đến cô Hà Thị Thanh Hương đã giúp đỡ, hỗ trợ chúng em trong quá
trình làm tiểu luận.Có thể nói đây là một đề tài mang tính thời sự trong thời điểm hiện
nay. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm thực tế, nguồn tài liệu và thời gian nên tiểu
luận này còn rất nhiều thiết sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
và các bạn để tiểu luận được tốt hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2011
5
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
I. Lịch sử ra đời của thuế và phân biệt thuế
Lịch sử nước ta mặc dù đã hình thành từ rất lâu nhưng cho đến tận Thể kỷ XI,
đời vua Trần Thái Tông (1225 - 1237) thì việc đánh thuế mới được hình thành một
cách có tổ chức và có hệ thống.
1. 1. Chế định thuế dưới thời phong kiến
Ngay từ thời phong kiến, các cấp lãnh đạo dưới chế độ quân chủ đã biết tổ chức
hệ thống thu thuế để làm nguồn thu cho công quỹ của nhà Vua. Tuy vậy từ các triều
đại nhà Trần trở về sau này, sự tổ chức, cách đánh thuế và thu thuế mới được ghi chép
và có hệ thống.
1.2. Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc
Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu
như thuế tiêu thụ thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực thu

thì có thuế môn bài, thuế thổ trạch.
1.3. Chế định thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 - 1975
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954
Chính phủ ta chủ trương bãi bỏ hẳn sắc thuế mang tính chất phi nhân đạo như:
thuế thân, thuế thổ trạch ở thôn quê và một số tạp thuế vô lý, miễn thuế điền thổ cho
vùng bị lụt và giảm thuế điền 20% trong toàn quốc; đình chỉ thu thuế ở miền Nam.
Chính sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế là: thuế nông nghiệp,
thuế công thương nghiệp, thuế hàng hóa, thuế xuất nhập khẩu, thuế sát sinh, thuế trước
bạ, thuế tem.
Giai đoạn từ năm 1954 - 1975
Sau hiệp định Geneve, Chính phủ ban hành các Luật thuế mới trên cơ sở sửa đổi,
bổ sung các chế độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng thống
nhất, bao gồm 12 loại thuế sau: Thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế sát sinh, thuế
6
buôn chuyến, thuế thổ trạch, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế môn bài, thuế trước bạ,
thuế muối, thuế rượu. Thuế xuất nhập khẩu và chế độ thu quốc doanh.
1.4. Giai đoạn từ năm 1975 - 1990
Thời kỳ 1975 - 1980
Miền bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban hành từ trước, có
sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Còn miền Nam thì có áp dụng một số loại thuế
cũ của chính quyền Sài Gòn trên cơ sở xóa bỏ một số loại thuế phản tiến bộ và sửa đổi
bổ sung để thích ứng với điều kiện đất nước thống nhất.
Thời kỳ 1980 -1990
Cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ thống pháp luật
thuế hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở sự phát triển các yếu
tố của nền kinh tế thị trường đang nảy sinh với các đặc điểm:
- Sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp quốc doanh thì
thực hiện chếđộ thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình thức thu
khác, trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lại chịu sự tác
động của thuế.

- Thu quốc doanh thu đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản. Về thực chất, đây là
một loại thuế đa thuế suất với hàng trăm thuế suất; điều này đặc biệt gây khó khăn cho
việc quản lý và hành thu.
1.5. Giai đoạn từ 1990 đến nay
Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật thuế
hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, bao gồm 9 loại thuế: Thuế nông nghiệp, thuế doanh
thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế thu
nhập, thuế nhà đất, thuế vốn. Ngoài ra còn có một số phí và lệ phí có tính chất như
thuế như: lệ phí môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, thuế sát sinh.
7
II. Đặc điểm
Thuế GTGT là thuế Thuế GTGT là thuế đánh trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng. Có các đặc điểm sau :
- Thuế GTGT là thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn ko trùng lặp.
- Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao.
- Thuế GTGT ko chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế.
- Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình
kinh tế.
- Thuế GTGT ko tham gia vào các mục tiêu ưu đãi,khuyến khích đối với một số ngành
nghề,lĩnh vực hay một loại hàng hoá dịch vụ nào.Thuế GTGT ko bóp méo giá cả hàng hoá.
- Thuế GTGT là thuế gián thu.
- Thuế GTGT có tính luỹ thoái trong việc thu nhập DN.
III. Các văn bản pháp quy điều chỉnh
3.1. Luật
- Văn bản luật đầu tiên về thuế giá trị gia tăng được Việt Nam ban hành là Luật số
02/1997/QH9 ngày 10/05/1997 của Quốc hội về thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1999 được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/05/1997
- Luật số 07/2003/QH11 ngày 17/06/2003 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế giá trị gia tăng được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế Giá trị
gia tăng của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 57/2005/QH11 ngày
29/11/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng ngày 10/05/1997 đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng
ngày 17/06/2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.
8
- Luật thuế Giá trị gia tăng của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 13/2008/QH12
ngày 3/6/2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế cho 2 văn bản luật là Luật số
02/1997/QH9 ngày 10/05/1997 và Luật số 07/2003/QH11 ngày 17/06/2003
3.2. Nghị định
- Nghị định đầu tiên được ban hành là Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng. Căn cứ Luật tổ chức Chính
phủ ngày 30/9/1992; Căn cứ Luật thuế giá trị gia tăng số 02/1997/QH9 ngày 10/5/1997; Theo
đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính
- Từ năm 2000 đến năm 2008, rất nhiều các Nghị định về chi tiết thi hành Luật thuế giá
trị gia tăng được ban bố như Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 09/05/2000, Nghị định của
Chính phủ số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000, Nghị định của Chính phủ số 76/2002/NĐ-CP
ngày 13/9/2002, Nghị định của CP số 95/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002, Nghị định số
108/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002, Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003, Nghị
định của Chính phủ số 148/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004
- Và gần đây nhất là Nghị định của Chính phủ số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2009 và thay thế các Nghị định: số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003, số
148/2004/NĐ-CP ngày 23/07/2004 và các quy định về thuế giá trị gia tăng tại Nghị định số
156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ.
3.3. Thông tư
- Thông tư đầu tiên được ban hành là Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng.
- Từ năm 1999 đến năm 2008, hàng loạt các Thông tư được ban hành để hướng dẫn thi

hành Luật thuế giá trị gia tăng. Và năm 2008, Thông tư của Bộ Tài chính số 129/2008/TT-
BTC ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và
hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng được ban hành, áp
dụng từ 01/01/2009, thay thế các Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2007 và Thông tư số
30/2008/TT-BTC ngày 16/4/2008 của Bộ Tài chính.
9
IV. Những tồn tại đã được khắc phục từ 1997 đến 2008
Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên được thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 tại kỳ họp
thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Việc ban
hành Luật thuế giá trị gia tăng để thay thế cho Luật thuế doanh thu theo Chương trình cải cách
thuế bước II đã được Bộ chính trị, Quốc hội và Chính phủ thông qua. Trong quá trình triển
khai thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp
thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
• Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2003
• Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng
năm 2005.
• Luật thuế giá trị gia tăng số 13/QH12 năm 2008
4.1. Về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT năm 1997 quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị
gia tăng . Tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế giá trị gia tăng
sẽ không còn phù hợp, gây bất lợi cho sản xuất kinh doanh.
Tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng đã
được rà soát, sửa đổi, bổ sung, chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn
của thuế giá trị gia tăng và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Mặt khác, Luật thuế giá trị gia tăng quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc diện
không chịu thuế giá trị gia tăng, nhưng trong thực tiễn thi hành đã xuất hiện ngày càng nhiều
các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, bao gồm các dịch vụ tài chính phái
sinh và các giao dịch chuyển nhượng vốn.

Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 quy định bổ sung Chuyển nhượng vốn và các dịch
vụ tài chính phái sinh vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng để đảm bảo bao quát được các
dịch vụ mới phát sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế.
4.2. Thuế suất thuế giá trị gia tăng
Mức thuế suất 5% là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là
đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên,
10
trong quá trình thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung, diện áp dụng
mức thuế suất 5% cũng được mở rộng tuy nhiên chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Dẫn đến
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không
những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước.
Năm 2008, Luật điều chỉnh thuế suất từ mức 5% sang 10% chủ yếu là đối với hàng hoá,
dịch vụ là đầu vào của sản xuất kinh doanh. Việc điều chỉnh này là từng bước thực hiện
Chương trình cải cách thuế và phù hợp với thực tiễn nước ta.
Luật thuế giá trị gia tăng vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức
thuế suất 5%, vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10%.
Trong thực tế, nhiều hàng hoá, dịch vụ mới phát sinh nhưng chưa có trong danh mục; mặt
khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất chưa rõ ràng dẫn đến việc áp dụng
mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Luật 2008 không liệt kê các nhóm hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10% mà sử
dụng phương pháp loại trừ, theo đó, hàng hoá, dịch vụ áp dụng thuế suất 10% là các hàng
hoá, dịch vụ còn lại không thuộc diện áp dụng các mức thuế suất 0%, 5%.
Ngoài ra sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Dịch vụ vận tải quốc tế được bổ sung vào
đối tượng áp dụng thuế suất 0% để khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của
doanh nghiệp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
4.3. Điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế
Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ khấu trừ, hoàn
thuế giá trị gia tăng đầu vào là hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản
lý thuế cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống
hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế

giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ.
Quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tại Luật. Trong đó, bổ sung
quy định về điều kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua
vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng. Điều này giúp
ngăn chặn các hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu trừ, hoàn
thuế giá trị gia tăng , chống thất thu ngân sách, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành
mạnh.
11
Luật thuế giá trị gia tăng trước năm 2008 quy định thuế giá trị gia tăng đầu vào của
hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế thì
được khấu trừ toàn bộ, trường hợp dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng
hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng. Quy
định này là chưa hợp lý và thực tế khó thực hiện do không thể xác định được số thuế khấu trừ
của tài sản cố định trong trường hợp sử dụng chung.
Bổ sung quy định thuế đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì được
khấu trừ toàn bộ. Điều này có tác dụng khuyến khích đầu tư và đảm bảo phù hợp với thực
tiễn.
12
CHƯƠNG II: NHỮNG KHÓ KHĂN CÒN TỒN TẠI TRONG
QUÁ TRÌNH THI HÀNH LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
I. Luật thuế chưa theo kịp thực tế:
Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi từ luật thuế GTGT năm 2005, đã
được thông qua ngày 03/06/2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XII, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/2009. Qua quá trình Luật thuế GTGT đi vào cuộc sống đã tác động
tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và đạt được mục tiêu đề ra của
Luật. Tuy nhiên qua thực tế thực hiện, Luật thuế GTGT đã phát sinh một số bất cập,
chưa phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế cũng như xu hướng hội nhập.
1.1. Bất cập về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế

Trong tình hình hiện nay, khi nông dân trong nước gặp nhiều khó khăn do quá
trình hội nhập, giá vật tư lên cao, lại thêm thiên tai và dịch bệch, thì việc đặt mức thuế
suất 5% đối với một số sản phẩm hàng hóa đầu vào của sản xuất nông nghiệp như :
dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng
chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, sơ chế, bảo quản nông nghiệp (mục d,
khoản 2, điều 8 Luật thuế GTGT) là chưa phù hợp. Các dịch vụ đầu vào của sản xuất
nông nghiệp này nên đưa vào diện không chịu thuế, tạo điều kiện cho nông dân có
điều kiện sử dụng chúng, góp phần nâng cao năng suất và đời sống. Hơn nữa, với mục
tiêu cơ giới hóa nông nghiệp, cũng nên đưa các đối tượng máy móc phục vụ nông
nghiệp (có thuế suất GTGT 5%, quy định tại mục k khoản 2, điều 8) vào diện miễn
thuế. Tương tự, với chính sách phổ cập giáo dục thì mục (m) Khoản 2, Ðiều 8 quy
định các sản phẩm phục vụ giáo dục, học tập thuộc diện chịu thuế suất 5% là không
hợp lý trong giai đoạn hiện nay. Đối với mặt hàng, máy móc nhập khẩu phục vụ cho
lĩnh vực nông nghiệp, cần xem xét điều chỉnh thời hạn nộp thuế GTGT khi nhập khẩu.
Điều này sẽ giúp ích nhiều cho doanh nghiệp nhập khẩu, tạo điều kiện cho nông dân
sử dụng máy móc hiện đại, đảm bảo mục tiêu cơ giới hóa nông nghiệp. Mặt khác,
trong thực tế hiện nay, quy định 25 đối tượng không chịu thuế vẫn là quá rộng, gây
khó khăn cho việc hành thu cũng như không đảm bảo được tính liên hoàn của thuế
13
GTGT. Do đó, việc điều chỉnh đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế là thực
sự cần thiết trong thời gian tới.
1.2. Về phương pháp tính thuế
Luật thuế GTGT hiện hành quy định hai phương pháp tính thuế GTGT là khấu
trừ thuế và tính trực tiếp trên GTGT. Điều này đã và sẽ lại dẫn đến sự bất bình đẳng
giữa các cở sở kinh doanh khi cùng tham gia thị trường nhưng lại có cách tính thuế và
hưởng chế độ khấu trừ khác nhau. Thêm vào đó, phương pháp tính trực tiếp trên
GTGT không phải là phương pháp dùng để tính và thu thuế trong thực hành thuế. Đây
chỉ là thể hiện cách tiếp cận khoa học trong nghiên cứu nhằm chỉ rõ thuế GTGT là loại
thuế đánh vào phần giá trị tăng thêm mỗi khi có GTGT xuất hiện. Phần lớn các cơ sở
kinh doanh đang áp dụng phương pháp tính trực tiếp này đều không thực hiện tốt chế

độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Do vậy, trong thực tiễn các cơ quan thuế thường xác
định GTGT thông qua việc ấn định tỷ lệ GTGT hoặc ấn định doanh thu. Có trường
hợp do xác định GTGT quá cao, dẫn đến mức nộp thuế GTGT trên doanh thu thực tế
của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, nên các cơ sở kinh doanh có xu hướng kê khai
doanh thu thấp hơn thực tế rất nhiều để trốn thuế. Như thế, thuế GTGT chỉ tồn tại về
mặt lý thuyết. Vì vậy, nên bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT và có thể cho
áp dụng sớm ngưỡng thu thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh có doanh thu đến một mức
doanh thu nhất định nào đó mới áp dụng thuế GTGT và chỉ áp dụng thống nhất
phương pháp khấu trừ thuế. Sử dụng phương pháp này sẽ giảm được lãng phí do việc
quản lý thu thuế tốn kém, không hiệu quả các cơ sở kinh doanh có doanh số thấp. Các
cơ sở có doanh thu dưới ngưỡng thu thuế GTGT có thể được áp dụng mức thuế khoán
doanh thu.
1.3. Về thuế suất
Luật thuế GTGT hiện tại vẫn quy định 3 mức thuế suất : 0%, 5% và 10%. Thực
tế cho thấy, càng nhiều mức thuế suất, càng dễ tạo sự nhập nhằng và tùy tiện khi vận
dụng, trốn lậu thuế, tăng chi phí kiểm soát, thanh tra thuế, làm giảm hiệu quả của thuế.
Nếu như luật chỉ quy định 2 mức thuế suất 10% và 0%, chỉ xác định đối tượng chịu
14
thuế 0%, dùng phương pháp loại trừ để ấn định những đối tượng chịu thuế 10%, thì có
thể đảm bảo được tính trung lập của thuế và tính thống nhất trong áp dụng.
1.4. Về thủ tục khấu trừ thuế
Các đối tượng nộp thuế thường lợi dụng thủ tục khấu trừ thuế để trốn tránh nghĩa
vụ nộp thuế GTGT. Vì vậy, việc quy định về các điều kiện để được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào là rất cần thiết. Đặc biệt, cần có điều kiện về chứng từ thanh toán qua
ngân hàng đối với hàng hoá dịch vụ mua vào, trừ các trường hợp đặc biệt và hàng hoá
dịch vụ mua từng lần có giá trị thấp. Thêm vào đó, nên làm rõ mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ ở mức bao nhiêu thì mới cần thiết phải có chứng từ qua ngân hàng và đòi
hỏi phải có các hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh phải có thực trên thực tế,bởi lẽ
trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp, việc mua bán khống hàng hoá nhằm
mục đích rửa tiền là điều vẫn xảy ra. Ngoài ra, trong quá trình hoàn thiện Luật thuế

GTGT, việc loại trừ dần đối tượng được hoàn thuế như: hoá đơn bán hàng thông
thường, hàng hoá nông lâm thuỷ hải sản lập bảng kê, không có hoá đơn chứng từ
v.v để giảm thiểu các trường hợp gian lận trong hoàn thuế GTGT, đảm bảo được
mục tiêu yêu cầu của việc hoàn thuế, là vô cùng quan trọng.
1.5. Về thủ tục hoàn thuế
Vẫn còn rất nhiều bất cập. Cụ thể như quy định “Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá
trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng nếu trong
ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết”
(Khoản 1, điều 13) và “Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu
nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở
lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng” đã gây không ít khó khăn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc quay vòng vốn. Thủ tục, giấy tờ đề nghị hoàn thuế
hiện nay vẫn còn rườm rà phức tạp, cùng với thời hạn giải quyết dài cũng là trở ngại
lớn cho doanh nghiệp. Điều này đi ngược với chính sách tiền tệ cũng như các chính
sách hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp trong nước hiện nay.
15
II. Tính hai mặt của việc giao quyền in hóa đơn cho doanh nghiệp
Theo Nghị định 51/2010/NĐ-CP, từ 1-1-2011, các doanh nghiệp sẽ phải tự in
hóa đơn hoặc dùng hóa đơn điện tử, tự chủ trong việc sử dụng hóa đơn thay mua và sử
dụng hóa đơn do Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế phát hành. Đây được xem là thay đổi
quan trọng trong nhận thức và việc sử dụng hóa đơn chứng từ trên toàn quốc, xóa bỏ
tình trạng doanh nghiệp xếp hàng chờ mua hóa đơn tại cơ quan thuế.
Theo quy định mới, cơ quan thuế chỉ còn bán hóa đơn cho bốn đối tượng là hộ
kinh doanh cá thể và tổ chức không kinh doanh, DN siêu nhỏ (sử dụng tối đa 10 lao
động thường xuyên, chưa kể lao động ký hợp đồng dưới ba tháng), DN hoạt động tại
địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, không đủ điều kiện tự in hoá
đơn
Việc báo cáo sử dụng hóa đơn sẽ được thực hiện theo từng quý thay vì theo tháng
như hiện nay.
2.1. Thuận lợi

Đây là 1 nghị định được đánh giá là mang lại nhiều thuận lợi rõ rệt cho phía
doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp giảm được rất nhiều những phiền hà trong thủ
tục xin mua hóa đơn để chủ động tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo quy định cũ, bộ phận ấn chỉ của các cơ quan thuế địa phương thường dựa
vào tình hình sử dụng hóa đơn mà doanh nghiệp báo cáo của tháng trước làm căn cứ
để quy định số lượng hóa đơn doanh nghiệp được phép mua sử dụng cho tháng sau.
Điều này hoàn toàn phi lý vì công việc kinh doanh không phải lúc nào cũng như nhau,
có khi tháng trước giao dịch ít nhưng tháng sau do vào mùa cao điểm nên lượng khách
hàng của doanh nghiệp sẽ tăng hơn nhiều. Như vậy, yêu cầu chính đáng của doanh
nghiệp có thể bị bác bỏ.
Một khó khăn khác là nếu mua hóa đơn vào thời điểm cuối tháng, cơ quan thuế
không chấp nhận bán với lý do bận tổng kết, báo cáo trong khi doanh nghiệp không
có hóa đơn để giao dịch. Trong những trường hợp này, cơ quan thuế chỉ giải quyết cho
16
mua ở đầu tháng kế tiếp và khi xuất hóa đơn cho khách hàng, doanh nghiệp chỉ được
phép xuất từ thời gian mua hóa đơn trở đi chứ không được ngược lại.
Những rắc rối như các trường hợp nói trên đã làm tốn nhiều thời gian, công sức
cũng như gây rắc rối không đáng có cho doanh nghiệp.
Theo quy định mới, doanh nghiệp sẽ hoàn toàn tự chủ trong việc in và phát hành
hóa đơn. DN được quyền quyết định in số lượng hoá đơn tuỳ theo nhu cầu sử dụng,
thậm chí có thể đặt in trước số hoá đơn để sử dụng trong nhiều năm mà không cần
phải đăng ký, chỉ khi nào phát hành mới phải thông báo với cơ quan thuế.
Nội dung trên hóa đơn, trừ những phần quan trọng bắt buộc, doanh nghiệp có thể
thay đổi để mang dấu ấn riêng của doanh nghiệp, góp phần quảng bá hình ảnh. Mặt
khác, việc quản lí đối với hóa đơn sẽ liên quan trực tiếp tới lợi ích của doanh nghiệp,
giảm các doanh nghiệp “ma” chuyên để mua bán hóa đơn.
2.2. Khó khăn
Việc thực hiện theo quy định mới được giải thích khá đầy đủ và rõ ràng trong
nghị định 51/2010/NĐ-CP(tháng 5/2010), và thông tư 3153/2010/TT-BTC ngày
28/9/2010, việc thực hiện cũng đã bắt đầu trong quý I/2011, tuy nhiên, các doanh

nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất là khó khăn trong quá trình thực hiện
Nhiều DN lo ngại, khi cơ chế “xin - cho” trong việc mua hóa đơn hiện nay sẽ
chuyển sang cơ chế “xin - cho” trong việc “xin công văn” chấp thuận cho tự in hóa
đơn. Liệu những tiêu cực trong cơ chế này có giảm đi hay tăng lên? Các doanh nghiệp
sẽ thuận lợi hơn hay lại bị “hành” nhiều hơn?
Mặt khác, đối với các doanh nghiệp có nhu cầu hóa đơn nhỏ, vấn đề chi phí in ấn
cũng gây trở ngại. Thực tế, với các cơ sở in, số lượng in càng lớn thì giá một quyển
hóa đơn sẽ càng thấp và ngược lại. Với mức giá khoảng 30.000-50.000 đồng một
quyển hóa đơn, chi phí cho hoạt động của doanh nghiệp chưa chắc đã được giảm
nhiều.
17
Cũng theo quy định, trên hóa đơn sẽ phải in cả địa chỉ doanh nghiệp cũng gây lo
ngại sẽ dẫn đến tình trạng hàng loạt hóa đơn đã in không sử dụng được vì nhiều trường
hợp doanh nghiệp buộc phải chuyển trụ sở chính do hết hạn hợp đồng thuê hoặc do bị
nâng giá thuê văn phòng đến mức không thể chịu đựng được.
Cuối cùng, là vấn đề năng lực các cơ sở in có để đáp ứng nhu cầu in hóa đơn của
hàng trăm ngàn doanh nghiệp đang hoạt động? Thực tế trong thời gian chuyển đổi (2
quý cuối năm 2010), số lượng doanh nghiệp cần in hóa đơn quá lớn, dẫn tới tình trạng
quá tải tại các nhà in. Tại Chi nhánh Công ty Viễn thông và in Bưu điện, 1 doanh
nghiệp đủ điều kiện in hóa đơn, tổng số doanh nghiệp đến đặt hàng lên tới 2.000. Số
doanh nghiệp này đến từ khắp nơi trên cả nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng Nhiều doanh nghiệp đặt lượng hóa đơn lớn để sử dụng từ 1 đến 3 năm. Do
đó, để đáp ứng hết yêu cầu của khách hàng không phải là điều đơn giản. Hiện nay, trên
địa bàn cả nước con số doanh nghiệp có nhu cầu in, đặt in hóa đơn ước tính là khoảng
400.000 doanh nghiệp có nhu cầu in, đặt in hóa đơn
Thứ hai là khó khăn trong quản lí hóa đơn.
Trao cho doanh nghiệp toàn quyền in hóa đơn, bao gồm cả ký hiệu quyển, số sê-
ri, là phương án tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Song, cũng cần có
những biện pháp ngăn chặn tình trạng gian lận trong phát hành hóa đơn để trốn, lậu

thuế. Chẳng hạn, nếu với cùng một sê-ri, doanh nghiệp sử dụng phát hành cho nhiều
lần bán hàng nhưng chỉ kê khai thuế cho một lần thì khó có thể kiểm tra, phát hiện.
Giả sử trường hợp DN bắt tay với nhiều DN khác cùng xuất một số hoá đơn để
trục lợi. Ví dụ như doanh nghiệp thép trong kinh doanh mua bán với đơn vị xây dựng,
đơn vị này có thể muốn lập chứng từ khống, và câu kết với chính nội bộ doanh nghiệp
thép để in hóa đơn bất hợp pháp. Nếu quản lý không tốt thì sẽ tạo cơ hội cho những
hành vi loại này.
Mặt khác, nếu kiểm tra, phát hiện được thì chế tài xử phạt như thế nào? Kiểm tra
việc phát hành hóa đơn của các doanh nghiệp trong cả nước là công việc không đơn
giản. Mặc dù trong những năm qua, ngành thuế đã ứng dụng công nghệ thông tin ở
18
khá nhiều lĩnh vực, song liệu vẫn chưa có một hệ thống thống nhất trong toàn quốc để
kiểm tra việc phát hành hóa đơn của các doanh nghiệp.
Nhiều DN phân vân về trách nhiệm của DN quá lớn khi được giao quyền tự chủ
hoá đơn, trong khi việc bị nhà in lợi dụng in thêm hoá đơn hoặc bị đơn vị khác giả
mạo hoá đơn nằm ngoài tầm kiểm soát của DN.
III. Những tồn tại trong công tác kế toán thuế GTGT tại các doanh nghiệp
Kế toán là một công cụ rất quan trọng trong công tác tính thuế và kiểm tra thuế
đối với Nhà nước. Đặc biệt là với thuế GTGT, kế toán đã trở thành một công cụ không
thể thiếu cho việc thu thuế của cơ quan thuế. Việc xác định số thuế đầu ra, đầu vào,
thuế phải nộp, đều phải dựa trên số liệu thực tế được phản ánh qua hoạt động kế toán.
Chính vì vậy, nếu các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh cá thể không tổ chức
tốt công tác kế toán theo quy định thì sẽ rất khó khăn cho việc thực hiện luật thuế
GTGT. Việc thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta nhằm mục tiêu là hình thành cơ chế
thuế phù hợp với quá trình tham gia, hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế thương mại
giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhất là khi chúng ta thực hiện cắt giảm
thuế nhập khẩu theo Hiệp định AFTA thì việc thu thuế GTGT càng có ý nghĩa quan
trọng cho việc đảm bảo nguồn thu và bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước. Xem xét
tình hình kế toán ở các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể để thấy rõ thực trạng
vấn đề này.

Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp có hoạt động chính là mua hàng vào
và bán hàng ra. Loại hình doanh nghiệp này tiến hành hoạt động kinh doanh trên cả thị
trường trong và ngoài nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Với quy mô kinh doanh rộng
như vậy nên trong thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề cần xem xét.
3.1. Về chế độ chứng từ hóa đơn
Theo Luật thuế GTGT, nhiều hóa đơn đặc thù được ban hành nhằm thể hiện rõ
nội dung hoạt động kinh tế giữa các bên tham giá. Tuy nhiên, số lượng thể loại hóa
đơn ấy vẫn chưa thật đủ để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cụ thể là những
trường hợp sau:
19
Khi doanh nghiệp bán hàng thì có hóa đơn bán hàng, hóa đơn GTGT để phản ánh
hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Nhưng vì lý do nào đó, khách hàng trả lại hàng
đã mua cho doanh nghiệp. Hàng hóa trả lại có thể là một phần hay toàn bộ hàng hóa đã
mua. Tuy nhiên, cho dù giá trị hàng hóa của nghiệp vụ này nhỏ hay lớn thì vẫn có
chưa có một hóa đơn đặc thù để phản ánh hoạt động này. Đây là điểm chưa hợp lý
trong công tác kế toán thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra, những hoạt động như chiết
khấu thanh toán, giảm giá, tuy xảy ra sau giao dịch mua bán nhưng cũng có tính chất
như trên, do vậy cũng cần có hóa đơn đặc thù để phản ánh.
Doanh nghiệp thương mại với hoạt động bán hàng là chủ yếu nên doanh nghiệp
phải thường xuyên áp dụng hình thức chiết khấu thương mại để thu hút khách hàng.
Chiếu khấu thương mại phản ánh sự ưu đãi cho khách hàng khi mua hàng hóa của
doanh nghiệp và được tách ra khỏi tổng số tiền thanh toán phải trả. Tuy nhiên, trên hóa
đơn bán hàng hay hóa đơn GTGT hiện nay, chỉ ghi tổng giá thanh toán mà không ghi
rõ phần chiết khấu thương mại người mua được hưởng. Như vậy, tình trạng trên đã
không phản ánh được hết nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Một hoạt động khác của doanh nghiệp thương mại là hoạt động nhận ủy thác
xuất, nhập khẩu. Theo quy định của BTC và Tổng Cục Thuế, các đơn vị nhận ủy thác
ngoài việc lập hóa đơn GTGT thu phí ủy thác còn phải lập hóa đơn GTGT khi giao
hàng cho cơ sở ủy thác (đối với trường hợp nhận ủy thác nhập khẩu). Như vậy, hoạt
động này phải sử dụng hai hóa đơn khác nhau và sẽ gây khó khăn cho việc kiểm tra sai

phạm của các cơ quan chức năng.
3.2. Về tài khoản TK133 phản ánh thuế GTGT được khấu trừ
Tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” có tên gọi chưa phù hợp với nội
dung. Tài khoản 133 phản ánh toàn bộ số thuế GTGT đầu vào, gồm cả thuế GTGT đầu
vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. Thuế GTGT đầu vào
sau khi loại trừ thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ (phân bổ cuối kỳ) mới còn
lại phần thuế GTGT được khấu trừ. DO vậy, nếu lấy tên tài khoản là “Thuế GTGT đầu
vào” thì sẽ bao quát hơn.
Tài khoản 133 có hai tài khoản cấp 2”
20
1331: “Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hóa dịch vụ”
1332: “Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ”
Nhận xét: việc chi tiết này là không cần thiết. Dù đầu tư hay mua hàng hóa – dịch
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì kế toán chỉ cần quan tâm đến phần thuế
GTGT được khấu trừ và phần thuế GTGT không được khấu trừ (phân bổ vào chi phí
cuối kỳ). Như vậy, nên tách tài khoản 133 theo hướng theo dõi thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ chờ phân bổ để tiện cho
việc theo dõi và phân bổ.
3.3. Về tài khoản TK3331
Tài khoản 3331 có hai tài khoản cấp 2:
33311: “Thuế GTGT đầu ra”
33312 “Thuế GTGT hàng nhập khẩu”
Kế toán chủ yếu chỉ cần theo dõi thuế GTGT phải nộp, thuế GTGT của hàng NK
cũng chỉ là một khoản thuế GTGT phải nộp. Do đó, nên đổi tên tài khoản 33312 thành
“Thuế GTGT phải nộp” để theo dõi toàn bộ số thuế GTGT phải nộp.
3.4. Về phương pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế hiện nay gồm hai phương pháp: phương pháp khấu trừ và
phương pháp trực tiếp. Dù doanh nghiệp tiến hành tính thuế theo phương pháp nào thì
tổng số thuế phải nộp cũng không đổi và đều bằng nhau. Tuy nhiên, theo quy định tính
thuế hiện nay thi doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ phải nộp thuế

nhiều hơn so với doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ.
Về vấn đề xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào, Luật thuế GTGT quy định trường
hợp cơ sở sản xuất kinh doanh cả hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và hàng hóa, dịch
vụ không chịu thuế GTGT không hạc toán riêng được thuế GTGT được khấu trừ thì
cuối kỳ sẽ phần bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ (%) doanh số hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra.
21
Việc sử dụng tỷ lệ này để phân bổ thể hiện sự không hợp lý bởi lẽ lượng hàng
hóa dịch vụ mỗi loại bán ra trong kỳ là khác nhau, làm cho tỷ lệ này thay đổi. Thậm
chí, do ảnh hưởng của tỷ lệ này, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ dao động nhiều,
có thể được khấu trừ nhiều, khấu trừ ít, không được khấu trừ hoặc được khấu trừ tất
cả. Do đó, cần xác định một tỷ lệ hợp lý để không là lượng thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ biến động quá lớn.
Một vấn đề cũng khá quan trọng, đó là hiện tượng doanh nghiệp bị Nhà nước
“chiếm dụng vốn”. Khi mua hàng hóa, doanh nghiệp đã phải nộp trước thuế thông qua
tiền thuế ẩn trong giá mua thanh toán cho người bán. Doanh nghiệp mua hàng hóa về,
chưa tiêu thụ được ngay nên hập kho. Như vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu
bằng vốn vay. Khi áp dụng Luật thuế GTGT phải vay thêm để nộp cho phần thuế đầu
vào. Gánh nặng thiếu vốn vay đã nặng nay lại càng nặng hơn.
Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý, phải
nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào địa lý bán được hàng thì mới thu được
thuế GTGT từ người mua. Trường hợp nhập khẩu cũng tương tự. Trong tình hình Việt
Nam hiện nay, các doanh nghiệp có số vốn không lớn lại phải vay ngân hàng và nộp
thuế GTGT 10% khi nhập khẩu hàng, để rồi lại không có vốn kinh doanh và phải trả
lãi suất ngân hàng. Điều này còn dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp làm ăn
nghiêm túc không thể cạnh tranh nổi với những doanh nghiệp trốn thuế thi bán hàng
không cấp hóa đơn để giảm giá bán.
3.5. Những tồn tại trong việc thu thuế GTGT tại các hộ kinh doanh cá thể.
Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đều thực hiện tự kê
khai nộp thuế. Bên cạnh những doanh nghiệp, hộ kinh doanh chấp hành tốt pháp luật

về thuế còn có những tổ chức, cá nhân chưa nghiêm túc trong việc thực hiện kê khai.
Tình trạng nộp chậm tờ khai vẫn còn, chất lượng tờ khai còn nhiều sai sót. Nguyên
nhân do công tác kế toán của DN còn nhiều yếu kém, kế toán luôn thay đổi. Vẫn còn
hiện tượng một số DN trong thời gian dài không nộp được đồng thuế nào vào NSNN,
kê khai thuế âm liên tục do thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT hàng hoá dịch vụ
bán ra. Đối với các hộ kinh doanh cá thể, hầu hết mới chỉ kê khai doanh thu thể hiện
22
trên hoá đơn bán hàng còn doanh thu bán lẻ hầu như không kê khai, nếu có kê cũng rất
thấp, nhiều hộ kê doanh thu bằng không, do đó còn để thất thu về doanh thu tính thuế.
Riêng các hộ khoán ổn định thuế mặc dù đã hết thời gian khoán có sự tăng trưởng về
giá cả, sức mua nhưng cũng chưa điều chỉnh doanh thu, mức thuế kịp thời cũng gây
thất thu cho NSNN. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận việc quản lý, nắm bắt tình hình
SXKD của các DN, hộ của chúng tôi vẫn chưa được kịp thời và sâu sát. Cán bộ quản
lý còn thụ động, thiếu kiểm tra đôn đốc nên tình trạng thất thu về hộ, về doanh thu khá
phổ biến, đặc biệt là ngành ăn uống, vận tải, bán VLXD, cho thuê nhà…Tình trạng nợ
đọng thuế của các DN vẫn còn khá phổ biến.
IV. Ý thức của người tiêu dùng
Mặc dù đa số người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá dịch vụ biết rằng mình chính là
người chịu thuế GTGT nhưng ý thức về việc chấp hành luật thuế GTGT của phần lớn
người tiêu dùng vẫn còn rất thấp. Điều đó thể hiện qua việc người tiêu dùng không có
thói quen lấy hoá đơn sau khi mua hàng, hoặc đã có ý thức lấy hoá đơn nhưng không
thực sự quan tâm đến những thông tin ghi trên hoá đơn. Người tiêu dùng vẫn chưa
hiểu hết được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với Nhà nước khi tham gia chấp
hành Luật thuế GTGT. Hơn nữa, việc đó còn vô tình tiếp tay cho các doanh nghiệp
trong việc thực hiện những hành vi gian lận thuế, gây thất thoát cho ngân sách Nhà
nước.
4.1. Không có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng
Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) được ban hành từ năm 1997, quy định tất cả các
cá nhân, doanh nghiệp khi bán hàng phải xuất hóa đơn VAT cho khách mua hàng. Thế
nhưng, sau gần 13 năm có hiệu lực, nhiều cửa hàng bán lẻ, nhất là các cửa hàng điện

máy, nhà hàng có doanh số bán mỗi ngày lên đến hàng tỷ đồng vẫn không thực hiện
xuất hóa đơn cho khách hàng. Từ chiếc thẻ cào điện thoại mệnh giá vài trăm ngàn đến
những đồ nữ trang trị giá đến vài triệu, có khi là chục triệu cũng được mua, bán không
có hóa đơn, không khác gì như mua bán một “mớ rau ngoài chợ”.
Tháng 8-2009, qua phản ánh của báo chí, Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh đã thành
lập đoàn kiểm tra thực hiện rà soát trên 2000 các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm.
23
Kết quả, Cục Thuế đã xử lý trên 600 doanh nghiệp, truy thu về cho nhà nước trên 22 tỷ
đồng. Trong đó, có không ít các doanh nghiệp “đại gia” có danh tiếng trong nước như
công ty TMDV Phong Vũ, Công ty CP Thương mại Nguyễn Kim
Thực trạng này diễn ra trong một thời gian dài một phần vì chế tài xử phạt quá
nhẹ không đủ sức răn đe các doanh nghiệp (Theo quy định tại Mục II Phần D Thông tư
số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
8.000.000 đồng đối với các trường hợp vi phạm). Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do
thói quen không yêu cầu hoá đơn khi mua bán hàng hoá của người tiêu dùng. Người
tiêu dùng Việt Nam đã quá quen với việc trả tiền – lấy hàng, họ chỉ quan tâm đến việc
mình nhận được hàng hay không chứ không để ý đến có nhận được hóa đơn hay
không.
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thực trạng này, nhưng chủ yếu là từ một
trong các lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ thói quen mua các hàng hóa nhỏ lẻ. Từ trước khi luật thuế
GTGT được ban hành, người tiêu dùng Việt Nam đã hình thành thói quen trả tiền và
lấy hàng trong các hoạt động mua bán nhỏ lẻ hàng ngày (thịt, cá, rau, nhu yếu
phẩm ). Khi luật được ban hành mặc dù có quy định phải lấy hóa đơn nhưng không
phải ai cũng biết, mà biết thì cũng không thực hiện vì chẳng ai kiểm tra. Ban đầu chỉ là
những hàng hóa có giá trị bé, không lấy hóa đơn thì nhà nước cũng không thất thu
nhiều, chẳng ai quan tâm quản lý. Nhưng theo thời gian, khi mức sống người dân được
nâng cao, giá trị hàng hóa không đừng lại ở con số hàng nghìn, hàng trăm nữa mà là
hàng triệu, chục triệu thì thói quen này đã ăn quá sâu vào hành vi của người tiêu dùng,
nhà nước lúc muốn thay đổi cũng khó mà thực hiện ngay được trong một sớm một

chiều.
Thứ hai, người tiêu dùng không thấy lợi ích trong việc lấy hóa đơn. Hành vi của
người tiêu dùng luôn chạy theo lợi ích thiết thân, cái gì thấy lợi thì mới làm. Luật ban
hành lại không bổ sung “quyền lợi” gì cho những người tiêu dùng mua hàng lấy hóa
đơn, họ cũng chỉ như những người không lấy hóa đơn, tờ hóa đơn có cầm trên tay thì
cũng như “giấy tờ vô giá trị”, có lấy mang về rồi cũng bỏ đi, giữ lại cũng không để làm
24
gì. Coi nhẹ những chiếc hoá đơn bán hàng là tâm lý chung của đại đa số người dân
hiện nay. Người được lợi ở đây chỉ có doanh nghiệp, người tiêu dùng vô tình đã tiếp
tay cho hành vi trốn thuế của doanh nghiệp mà không biết.
Thứ ba, người tiêu dùng không nhận thức đầy đủ về Thuế GTGT. Thuế GTGT là
thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, cơ sở kinh doanh chỉ có vai trò là
đơn vị đứng ra nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Thế nhưng người tiêu dùng không
quan tâm đến điều này. Họ chỉ biết là có tồn tại Thuế GTGT, không hề biết mình là
người phải chịu thuế. Các doanh nghiệp thì lại quá khôn ngoan trong việc niêm yết giá
để giấu đi phần thuế GTGT mà người tiêu dùng phải nộp. Giá sản phẩm đến tay người
tiêu dùng thường là một con số rất “tròn trịa” bao gồm cả tiền thuế GTGT. Người tiêu
dùng không mấy khi để ý đến phần thuế GTGT tính trong giá bán, họ chỉ quan tâm
mình phải bỏ ra tổng là bao nhiêu để sở hữu hàng hóa. Tiền, người tiêu dùng vẫn mất,
còn Nhà nước vẫn thất thu thuế, doanh nghiệp “ăn cả hai mang”. Người tiêu dùng dù
đã phải chịu thuế GTGT mà không hay biết. Thất thu thuế chính từ những hành vi
thiếu hiểu biết này của người dân.
Cho đến nay, không ai có thể ước tính hàng năm ngành thuế thất thu bao nhiêu tỷ
đồng qua các hoạt động buôn bán không xuất hoá đơn. Đối với doanh nghiệp, không
xuất hoá đơn là cơ hội trục lợi, còn với người dân sự vô tình tiếp tay này lại đẩy họ
vào hoàn cảnh tự tước đi “vũ khí” bảo vệ cho chính mình. Không ít trường hợp người
dân mua phải hàng hoá kém chất lượng tuy nhiên do không có hoá đơn mua bán hàng
hoá nên không đủ sơ sở yêu cầu doanh nghiệp bồi thường. Ngay cả việc bảo hành sản
phẩm vì vậy mà cũng gặp không ít khó khăn.
4.2. Không phản ứng với thông tin ghi trên hóa đơn

Thời gian gần đây cũng đã có nhiều người đã có “ý thức” lấy hóa đơn khi mua
hàng, chủ yếu là đối với các mặt hàng như máy móc, thiết bị, đồ điện tử, xe máy, ôto
Nguyên nhân cũng do đặc thù hàng hóa có giá trị cao, lại dễ xảy ra hỏng hóc, thế nên
người tiêu dùng cần có giấy tờ để giải quyết trong các trường hợp xảy ra sự cố với
hàng hóa sau này.
25

×