Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ĐỀ ÁN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.73 KB, 24 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

ĐỀ ÁN
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 2020
Hà Nội, tháng 10 năm 2013
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết xây dựng Đề án
Võ cổ truyền Việt Nam là di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam, ra đời, tồn tại và phát triển song hành cùng cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Võ cổ truyền Việt Nam không chỉ đơn thuần là những bài
võ nhằm rèn luyện kỹ năng, thể chất của con người Việt Nam, nâng cao khả năng
tự vệ, hướng tới sự hòa hợp về thể chất và tinh thần của con người Việt Nam mà
thông qua việc tập luyện võ thuật cổ truyền Việt Nam còn khơi dậy lòng tự hào
truyền thống thượng võ của dân tộc, tính nhân văn của con người Việt Nam.
Văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó có Võ học và Võ đạo, sản sinh trên
nền tảng giá trị lịch sử, phong tục tập quán, địa lý và tâm thức dân tộc. Võ học và
Võ đạo Việt Nam hình thành lên triết lý sống “Nhân Văn và Thượng Võ”, là kim
chỉ nam để dân tộc ta trường tồn và phát triển.
Võ cổ truyền Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với truyền thống
lao động cần cù, tính hiếu học và tinh thần thượng võ của dân tộc trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của Lịch sử, võ
cổ truyền Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức và cách thức
khác nhau, được truyền bá và lưu giữ từ đời này qua đời khác trong mỗi gia đình,
dòng tộc cũng như các võ đường, lò võ trên các vùng miền của đất nước. Cũng
qua những thăng trầm của sự phát triển đó, võ cổ truyền đã thấm sâu vào máu
thịt, vào tư tưởng, vào hành động của mọi người, trở thành một mảng văn hóa
tinh thần đầy tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam. Nhân dân ta đã dùng võ để
rèn luyện thân thể, nâng cao khả năng tự vệ, tôi luyện ý chí sắt đá và ứng dụng
trong các trò chơi, lễ hội để tăng cường sự giao lưu trong cộng đồng. Võ cổ
truyền Việt Nam rất phong phú, hấp dẫn về nội dung nhưng cũng rất phức tạp do


có sự giao thoa giữa các môn phái võ nên để hiểu về nó không phải là điều đơn
giản.
Từ nền tảng cơ sở ban đầu, võ cổ truyền Việt Nam đã không ngừng phát
triển, hoàn thiện qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là sau công nguyên, qua sự
2
giao lưu với các nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa và các nước láng giềng Võ cổ
truyền Việt Nam đã tiếp thu những tinh hoa từ những môn võ mới để hội nhập,
giao thoa và tạo ra bước phát triển mới cho nền võ thuật nước nhà. Là một bộ
phận của nền văn hóa dân tộc, Võ cổ truyền Việt Nam là sự quy hợp nhuần
nhuyễn giữa nền tảng tư tưởng truyền thống với triết lý Nho giáo và cơ sở lý luận
của Y học, triết học phương Đông, thể hiện quan niệm chỉnh thể về thuyết Âm
Dương, Ngũ Hành cũng như nền tảng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa
hình – tâm – ý – khí – lực, giữa động và tĩnh, giữa cương và nhu
Trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, do những
điều kiện đặc thù, thường xuyên phải đương đầu với chiến tranh vệ quốc, võ học
và võ bị luôn luôn được xem là một trong những vấn đề cốt yếu, được các triều
đại quân chủ hết sức quan tâm. Trong lòng dân tộc, những tấm gương anh hùng
vì sự nghiệp bảo vệ độc lập đất nước, phát triển mở mang bờ cõi cũng được nhân
dân tôn thờ như các vị thần.
Trước thế kỷ XVI, vua chúa bổ dụng các võ tướng trong triều dựa trên
những cống hiến, công trạng hoặc gia thế của họ, chứ không phải qua thi tuyển.
Do đó, đa số các võ tướng cao cấp trong triều đều là người của hoàng gia. Năm
1253, triều Trần cho lập Giảng Võ đường, một trường rèn luyện võ giành cho
hoàng thân quốc thích là các võ tướng. Cũng thời Trần, đã soạn ra cuốn Binh Thư
đầu tiên dựa theo những tiêu chuẩn của thời đó.
Dưới thời vua Lê Dụ Tông, trường đào tạo võ đầu tiên cho quảng đại quần
chúng, gọi là “Võ Học Sở”, được mở tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội). Vua còn
bổ nhiệm một vị quan chịu trách nhiệm giảng dạy binh pháp. Chúa Trịnh Cương
rất chú trọng đào tạo các tướng lĩnh. Ông còn cho biên soạn những quy định và
thể chế thi tuyển võ học. Các kỳ thi được tổ chức ba năm một lần, vào các năm

Tý, Ngọ, Mão, Dậu, kỳ thi được tổ chức ở cấp Hương thôn, gọi là “Sở cử”.
Trong khi đó, kỳ thi Hội (bác cử) diễn ra tại Thăng Long vào các năm Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi.
Dưới thời Nguyễn (bao gồm cả thời chúa Nguyễn và thời Vua Nguyễn, từ
1558-1945), võ học không chỉ được xem trọng mà còn là sự kế thừa, phát huy
thành quả của các triều đại trước. Triều Nguyễn đã cho xây dựng Võ Miếu (bên
cạnh Văn Miếu) để thờ tự, xiển dương các vị tổ ngành võ, tôn vinh các các vị
3
công thần có võ nghiệp rạng rỡ, tôn vinh các vị tiến sỹ võ được tuyển chọn qua
các kỳ thi…Triều Nguyễn còn cho mở trường Anh Danh Giáo Dưỡng và dựng
Xiển Võ Từ ngay trong Kinh thành để đào tạo đội ngũ võ quan cho triều đại. Có
thể nói võ học cung đình thời Nguyễn gắn liền với kinh đô Huế đã được nâng lên
ở một vị trí quan trọng.
Từ sau chiến thắng lịch sử năm 1975 đất nước ta hoàn toàn độc lập, hoạt
động võ cổ truyền cũng đã được khơi dậy và phát triển ở hầu khắp các địa
phương trên toàn quốc. Cùng với việc hàn gắn vết thương chiến tranh, tập trung
khôi phục, phát triển về mọi mặt, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng lại đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách bảo tồn,
tôn tạo, chấn hưng các di tích lịch sử, di tích Cách mạng, các giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể của dân tộc, trong đó có võ cổ truyền dân tộc và những thành
quả vĩ đại của nền võ học chân truyền, mà Tổ tiên đã dày công khai sáng, bồi đắp
và hun đúc bằng tất cả khí phách, sức mạnh, hồn thiêng của dân tộc ngay từ ngày
lập quốc đến nay, để lưu truyền lại cho người đương thời và cho muôn đời sau
khỏi phai nhạt, mất gốc.
Với chủ trương “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế”. Ngành Thể dục
thể thao đã quan tâm sưu tầm, nghiên cứu phát triển các trò chơi vận động dân
gian, các hoạt động thể thao dân tộc để trở thành các môn thể thao dân tộc trong
đó hoạt động võ cổ truyền được quan tâm ưu tiên phát triển hàng đầu.

Cùng với tiến trình giao lưu, trao đổi, mở rộng các mỗi quan hệ hợp tác,
phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật với các quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới, võ cổ truyền Việt Nam cũng đã sớm hiện diện ở
nhiều nước và vùng lãnh thổ, theo nhiều con đường, thời điểm và lý do khác
nhau. Ngoài ra võ cổ truyền Việt Nam còn “xuất ngoại” thông qua con đường
ngoại giao, giao lưu văn hóa, trao đổi hàng hóa, thương phẩm, thăm viếng, du
lịch giữa các nhà ngoại giao, nhà truyền giáo, thương nhân, du khách của các
nước với nước ta và nước ta với các nước từ nhiều thế kỷ trước, nhưng sâu rộng
và nhanh mạnh hơn cả là kể từ khi người Việt sang học tập, công tác, định cư lâu
4
dài ở nhiều châu lục, trong đó có khá đông các nhà nghiên cứu võ học, hoạt động
võ thuật, các võ sư, huấn luyện viên và võ sĩ nổi tiếng qua các thế hệ.
Đặc biệt, kể từ khi nước ta mở rộng hội nhập, quan hệ hợp tác và phát triển
toàn diện với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho người nước ngoài yêu chuộng võ cổ truyền Việt Nam có cơ hội đến
nước ta nghiên cứu, thi đấu, biểu diễn, giao lưu và học tập võ cổ truyền, để rồi
sau đó trở về nước mình hoặc đến một số quốc gia khác truyền bá, giảng dạy,
phát triển theo tôn chỉ, mục đích riêng của từng môn phái và theo xu hướng “trăm
hoa đua nở”.
Nhà nước ta cũng đã thường xuyên cử các đoàn võ cổ truyền Việt Nam
sang các nước để thắt chặt quan hệ, giao lưu, trao đổi, hợp tác trên lĩnh vực võ
thuật và khuyến khích các võ sư, huấn luyện viên cao cấp, võ sĩ trong nước đến
nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới để giảng dạy, thi đấu, biểu diễn và
truyền bá võ cổ truyền Việt Nam, góp phần cùng với các thế hệ võ sư, huấn luyện
viên, võ sĩ người Việt ở hải ngoài và người nước ngoài đã và đang học tập võ cổ
truyền Việt Nam đồng tâm, hiệp lực, ra sức vun đắp, nâng cao uy thế, tạo nên
diện mạo mới, sức sống mới phong phú, đa dạng của võ cổ truyền Việt Nam trên
trường quốc tế. Chính vì thế võ cổ truyền Việt Nam không chỉ là một môn thể
thao đơn thuần mà đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa thể chất và là một
trong những di sản văn hóa phi vật thể quý báu cần được bảo tồn, gìn giữ và phát

triển.
Việc giới thiệu, quảng bá võ cổ truyền ra quốc tế chính là quảng bá các giá
trị văn hoá của dân tộc Việt, song trong những năm qua chưa được quan tâm
đúng mức, vẫn còn phát triển một cách tự phát. Do vậy việc xây dựng một lộ
trình bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Việt Nam trong nước và quốc tế cần phải
được triển khai đồng bộ nhằm gìn giữ những di sản quý báu của dân tộc, song
song với việc đẩy mạnh phát triển võ cổ truyền trong nước và quốc tế, tạo ra
những bước đi vững chắc và hiệu quả cho võ cổ truyền phát triển.
Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam là lĩnh vực rộng, có tính xã
hội cao, có vị trí quan trọng trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc và có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển Thể dục
thể thao ở nước ta. Việc xây dựng đề án Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt
5
Nam là cần thiết và phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta,
phù hợp với điều kiện thực tế trong nước, quốc tế.
Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam còn là phương pháp tốt để đạt
được mục tiêu nâng cao đời sống văn hoá, nâng cao thể chất, sức khoẻ của mọi
tầng lớp nhân dân. Do vậy cần được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các
Bộ, ngành, đoàn thể để thực hiện chủ chương “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và “nâng cao tầm vóc, thể chất của con người
Việt Nam”.
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Việt Nam vẫn còn nhiều
bất cập. Việc khai thác, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống và những tinh
hoa của võ cổ truyền Việt Nam còn nhiều hạn chế, một số di sản văn hoá về võ
cổ truyền còn chưa được quan tâm đúng mức, bị xuống cấp, thất lạc hoặc chưa
được quan tâm khôi phục như các võ miếu, võ phái, võ đường đặc trưng của các
vùng miền, các bài võ cổ của các tiền nhân, tiên đế, các loại binh khí võ thuật,
các loại hình tuyển chọn và thi đấu võ thuật qua các triều đại.
Với tất cả những nhu cầu cấp thiết trên, cần thiết phải xây dựng "Đề án bảo
tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam đến năm 2020". Để đề án thực sự phát

huy được hiệu quả cần phải tập hợp được các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu,
các nhà chuyên môn và có sự chỉ đạo thống nhất các nội dung, giải pháp từ trung
ương đến các tỉnh, thành, ngành và các quốc gia góp phần thực hiện thành công
mục tiêu của đề án.
II. Căn cứ xây dựng Đề án
1. Cơ sở pháp lý, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát
triển Võ cổ truyền Việt Nam
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Bộ Chính trị
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục thể
thao đến năm 2020. Có định hướng:
“Bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong các hoạt động thể dục, thể thao. Có các giải pháp để phát huy
tính tích cực, tính văn hóa, văn minh trong thể dục, thể thao”.
6
- Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, ban hành
theo Quyết định số 2198/QĐ-TTg, ngày 03 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ. Có quy định:
“Đưa công tác sưu tầm, thống kê phân loại các trò chơi vận động dân gian
trong các lễ hội truyền thống hàng năm của các dân tộc thiểu số thành một nội
dung của nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể
các dân tộc Việt Nam; lựa chọn một số trò chơi vận động dân gian để đề xuất đưa
vào thi đấu trong hệ thống thi giải thao quốc gia; chú trọng bảo tồn và phát triển
các môn võ cổ truyền dân tộc”.
- Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2013 của Chính Phủ về
ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020. Có định hướng:
“Phát triển các câu lạc bộ thể dục, thể thao cấp cơ sở, đào tạo và xây dựng
đội ngũ hướng dẫn viên, cộng tác viên thể dục, thể thao; bảo tồn, phát triển các
môn thể thao dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các hoạt động

thể dục, thể thao; phát triển phong trào văn hóa, thể thao trong công nhân; nâng
cao chất lượng hoạt động thể dục, thể thao trong lực lượng vũ trang”.
- Nghị định số 69/2008/ NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực Giáo dục, Dạy
nghề, Y tế, Văn hóa, Thể thao, Môi trường. Có quy định:
“Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thành lập, cấp phép hoạt động phải đảm
bảo theo quy hoạch và đảm bảo các tiêu chí về quy mô, tiêu chuẩn theo quy định
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, môi
trường”.
- Nghị định số 76/2013/NĐ-CP, ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Có quy định:
“Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm
quyền trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch”.
7
“Chủ trì, phối hợp với các ngành, các địa phương điều tra thể chất nhân
dân; hướng dẫn, áp dụng và phát triển các môn thể thao dân tộc, các phương pháp
rèn luyện sức khỏe truyền thống ở trong và ngoài nước”.
- Quyết định số 66/2008/QĐ-TTg ngày 23 tháng 5 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng
cục Thể dục thể thao trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Có quy định:
“Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế
hoạch và các dự án, đề án về thể dục, thể thao sau khi được phê duyệt theo phân
cấp của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch”.
2. Cơ sở thực tiễn
- Thông qua kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát về thực trạng võ cổ
truyền trên phạm vi cả nước và về thực trạng hoạt động võ cổ truyền Việt Nam
tại các nước trên thế giới cần cấp thiết cần bảo tồn: Võ miếu (ở Hà Nội và tỉnh
Thừa Thiên Huế), võ kinh (Là phần lý luận được xây dựng trên cơ sở của Võ lý
và Binh thư ), một số bài quyền cổ, các loại binh khí cổ trên toàn quốc.

- Nghiên cứu phát triển võ cổ truyền Việt Nam đáp ứng nhu cầu học võ và
dạy võ trong nước, cũng như phát triển hội hập quốc tế.
III. Bố cục của Đề án
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, phụ lục và các danh mục tài liệu
tham khảo nội dung chính của đề án gồm 5 phần:
1. Khái quát thực trạng của Võ cổ truyền Việt Nam.
2. Quan điểm, mục tiêu, hiệu quả của Đề án.
3. Nhiệm vụ bảo tồn và phát triền Võ cổ truyền Việt Nam đến năm 2020.
4. Các giải pháp thực hiện đề án
5. Tổ chức thực hiện.
8
Phần I
THỰC TRẠNG VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái quát hoạt động về Võ cổ truyền Việt Nam
1. Phong trào tập luyện võ cổ truyền
Võ cổ truyền Việt Nam là môn thể thao hoạt động chính thức trên phạm vi
toàn quốc theo hướng đoàn kết, tập hợp trí tuệ, sức lực để xây dựng nền tảng võ
học, võ thuật cho mọi người. Với phương châm tìm mọi cách để phát huy tối đa
các giá trị cao đẹp nhất của từng môn phái, đồng thời từng bước xây dựng những
nét chung cho hoạt động Võ cổ truyền trong phạm vi cả nước. Hiện nay Võ cổ
truyền đã có những bước tiến và đạt được những kết quả rất đáng tự hào, phong
trào tập luyện Võ thuật cổ truyền ngày càng phát triển rộng khắp trên các vùng
miền trong cả nước thu hút hàng triệu người tham gia tập luyện, nhất là thanh
thiếu niên, học sinh.
Đến nay, Võ cổ truyền Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, đã có 25 tổ chức Hội, Liên đoàn Võ thuật cổ truyền tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương với trên 60 chi hội trực thuộc tổ chức Hội.
Ngoài ra các Ngành cũng đã có thành lập Liên đoàn như Liên đoàn Võ thuật
Quân đội nhân dân Việt Nam. Các địa phương, ngành chưa thành lập được tổ
chức Hội riêng thì một số đơn vị cũng đã có bộ môn võ cổ truyền nằm trong Liên

đoàn võ thuật của địa phương hoặc trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
(Phụ lục 01).
Theo như khảo sát, phong trào tập luyện võ cổ truyền đã được rộng khắp
trên cả nước, hiện cả nước có trên 700 võ đường, câu lạc bộ với trên 100 môn
phái, võ phái và lò võ đang hoạt động, thu hút khoảng 60 ngàn võ sinh tham gia
tập luyện võ cổ truyền với khoảng 600 Võ sư (cấp 18), 500 Huấn luyện viên cao
cấp (cấp 17), 550 Huấn luyện viên trung cấp (cấp 15, 16). Các Huấn luyện viên
đang trực tiếp huấn luyện giảng dạy tại các địa phương khoảng 900 người (phụ
lục 02).
9
Việc xây dựng và ban hành Luật thi đấu võ cổ truyền đã được quan tâm
sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Hệ thống thi đấu võ cổ truyền ngày
càng mở rộng và nâng tầm đã thu hút nhiều đối tượng tham gia. Đến này đã qua
23 lần tổ chức giải Vô địch và 14 lần tổ chức giải Trẻ cấp quốc gia, nhiều giải võ
thuật cổ truyền được tổ chức tại các khu vực, vùng miền, các giải mở rộng ở một
số tỉnh, thành, ngành thu hút nhiều vận động viên tham dự. Đặc biệt môn võ cổ
truyền cũng đã có mặt tại 3 kỳ Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc vào các năm
2002, 2006, 2010 và sắp tới tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII năm 2014.
Trong mỗi giải thi đấu cấp quốc gia hay trong các kỳ Đại hội TDTT toàn quốc
môn Võ cổ truyền đã thu hút sự tham gia đông đảo vận động viên của các địa
phương, đơn vị trung bình mỗi giải có khoảng 350 - 400 vận động viên của 30 -
36 tỉnh, thành phố trược thuộc trung ương và 3 ngành (Quân Đội, Công An, Giáo
dục Đào tạo).
Từ sau năm 1991, Võ cổ truyền Việt Nam đã cử một số chuyên gia là
những võ sư đi huấn luyện ở một số nước trên thế giới, có các vận động viên xuất
sắc đi thi đấu biểu diễn, quảng bá về võ cổ truyền Việt Nam ở nhiều nơi, nhiều
nước trên thế giới như tại các nước thuộc Liên bang Nga, Pháp, Đức Đây là
dịp giới thiệu một nền võ học dân tộc, gắn liền với bản sắc văn hóa truyền thống
lâu đời, bền vững của Việt Nam.
Trên trường quốc tế, theo thống kê ban đầu, hiện nay trên toàn thế giới ước

tính có khoảng 400 trung tâm đào tạo, huấn luyện, môn phái, võ phái, võ đường,
câu lạc bộ với khoảng 900 nhà hoạt động võ thuật, võ sư chưởng môn, võ sư,
huấn luyện viên và khoảng hơn 1 triệu lượt môn sinh qua các thế hệ, đã và đang
theo học võ cổ truyền Việt Nam.
Một số nước có phong trào võ cổ truyền phát triển mạnh như:
Võ đường Sơn Long Quyền Thuật tại Pháp được thành lập từ khá sớm, đến
nay đã phát triển rất lớn mạnh với 20 chi nhánh tại nhiều nước ở Châu Âu, Bắc
Phi và các nước thuộc Liên Xô cũ với hơn 60 ngàn môn sinh, trong đó có gần
400 võ sư, huấn luyện viên cao cấp. Riêng ở Pháp đã thành lập gần 20 võ đường
và đào tạo trên 20 ngàn lượt môn sinh.
Liên Đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Pháp được thành lập từ những năm
1980, đến nay đã đào tạo gần 4 ngàn môn sinh, trong đó cớ hơn 30 võ sư và gần
10
50 huấn luyện viên cao cấp, trực tiếp đào tạo, quản lý trên 20 võ đường, câu lạc
bộ của 15 vùng, thành phố trên đất Pháp.
Hiệp Hội Quốc tế võ đạo Việt Nam (tiền thân là môn phái Hòa Long võ
đạo) qui tụ trên 5 ngàn môn sinh, với gần 40 võ đường ở nhiều thành phố của
Pháp, Ý, Thụy Sỹ
Nhờ vậy, đến nay Võ cổ truyền Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các châu lục
(khoảng 50 quốc gia và vùng lãnh thổ), được nhiều nước trân trọng công nhận,
tôn vinh, đưa vào hệ thống tổ chức đào tạo, tuyển trạch, thi cử, thi đấu chính thức
theo các thể chế, qui trình quản lý, điều tiết của Nhà nước sở tại, thông qua các
Liên đoàn, Tổng hội, Hiệp hội, Võ đường và các tổ chức xã hội nghề nghiệp về
Võ thuật. Đến nay Võ cổ truyền Việt Nam đã trở thành “món ăn tinh thần” không
thể thiếu trong đời sống văn hóa – thể thao của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới.
Với mục đích giới thiệu, quảng bá tinh hoa võ thuật Việt Nam, trong
những năm gần đây các Liên hoan và Giải quốc tế quốc tế Võ cổ truyền đã được
thường xuyên tổ chức như: Liên hoan quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam được tổ
chức theo chu kỳ 2 năm/lần tại Bình Định (đến nay đã tổ chức được 4 lần vào

các năm 2006, 2008, 2010 và 2012), mỗi Liên hoan đã có hàng ngàn người luyện
lập và hâm mộ Võ cổ truyền của 35 đến 40 nước trên toàn Thế giới về với Việt
Nam; Giải quốc tế Võ cổ truyền đã được tổ chức 3 lần (2008-2010-2012) tại
thành phố Hồ Chí Minh, mỗi giải cũng đã có vài trăm võ sinh trên thế giới của 12
đến 15 nước về tham gia thi đấu giải.
2. Thực trạng về mặt bảo tồn Võ cổ truyền Việt Nam
Với phương châm tìm mọi cách để bảo tồn và phát huy tối đa các giá trị
cao đẹp nhất của từng môn phái, đồng thời từng bước xây dựng những nét chung
cho hoạt động võ cổ truyền trên phạm vi cả nước. Võ cổ truyền Việt Nam đã từng
bước được Luật hoá và chuẩn hoá để trở thành môn thể thao dân tộc phát triển
mạnh mẽ và rộng khắp trên phạm vi cả nước. Trong những năm qua Võ cổ truyền
Việt Nam đã có những bước tiến và đã đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ
trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân
tộc.
11
Về bảo tồn các bài quyền cổ: ngoài các bài quyền tự chọn, tinh hoa của
từng môn phái, qua các kỳ Hội nghị chuyên môn, Hội thảo tập huấn, các võ sư đã
cùng nhau thảo luận để thống nhất tuyển chọn được 18 bài quyền, binh khí trong
đó đã có 10 bài quyền được quy định thi đấu trong các giải võ thuật cổ truyền cấp
quốc gia là Hùng kê quyền, Ngọc trản quyền, Lão mai quyền, Huỳnh long độc
kiếm, Siêu xung thiên, Tứ linh đao, Thái sơn côn, Bát quái côn, Độc lư thương và
Lão hổ thượng sơn.
Về bảo tồn các lò võ cổ: Bình Định đã tập trung đầu tư nâng cấp 6 lò võ tiêu
biểu của các huyện Tây Sơn, An Nhơn và Tuy Phước phục vụ cho Liên hoan
quốc tế võ cổ truyền lần thứ IV tổ chức tại tỉnh Bình Định vào đầu tháng 8/2012
và đón tiếp khách tham quan những năm tiếp theo. Việc nâng cấp các lò võ theo
tiêu chí: lối đi thông thoáng; có bãi đậu xe; môi trường xanh, sạch, đẹp; có nhà vệ
sinh; có nơi tập luyện, biểu diễn, thi đấu thích hợp.
Về bảo tồn Võ miếu: Di tích Võ Miếu tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã bị tàn
phá nghiêm trọng trong và sau chiến tranh, nay chỉ còn lại mặt bằng (khoảng 1

ha) cùng một số tấm bia Võ Công, bia Tiến sỹ võ. Di tích trường Anh Danh Giáo
Dưỡng bị lấn chiếm và chỉ còn lại Xiển Võ Từ nhưng trong tình trạng xuống cấp
nặng. Trong mấy năm trở lại đây, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã đầu tư
khoảng 1,7 tỷ đồng để trùng tu Xiển Võ Từ, cho lập hồ sơ, rào bảo vệ và quy tập
dựng lại các tấm bia ở Võ Miếu, tuy nhiên vấn đề bảo tồn, phát huy tác dụng của
các di tích liên quan đến võ học trên vẫn còn hạn chế.
3. Cơ chế chính sách bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam
Võ cổ truyền Việt Nam đã được các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển, được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01 tháng
12 năm 2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước
phát triển mạnh mẽ về thể dục thể thao đến năm 2020 “Bảo tồn, phát triển các
môn thể thao dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các hoạt động
thể dục, thể thao”.
Trong Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, ban
hành theo Quyết định số 2198/QĐ-TTg, ngày 03 tháng 12 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ: “Đưa công tác sưu tầm, thống kê phân loại các trò chơi vận
động dân gian trong các lễ hội truyền thống hàng năm của các dân tộc thiểu số
12
thành một nội dung của nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn
hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam; lựa chọn một số trò chơi vận động dân gian
để đề xuất đưa vào thi đấu trong hệ thống thi giải thao quốc gia; chú trọng bảo
tồn và phát triển các môn võ cổ truyền dân tộc”.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành Thông tư Số 14 /
2011/TT-BVHTTDL ngày 9 tháng 11 năm 2011 Quy định về điều kiện hoạt động
của cơ sở thể thao tổ chức hoạt động môn Võ cổ truyền và Vovinam.
Tổng cục Thể dục thể thao đã ban hành Luật thi đấu môn Võ cổ truyền và
tham mưu các cấp Lãnh đạo để ban hành các chính sách phát triển Võ cổ truyền
Việt Nam.
Một số Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã tham mưu cho Lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành những chính

sách đặc thù như tỉnh Bình Định đã cho thành lập Trung tâm đào tạo Võ thuậ và
ban hành Đề án “Bảo tồn và phát triển các lò võ cổ truyền Bình Định đến năm
2015”. Một số Sở cũng đã hỗ trợ Võ cổ truyền để thành lập được các Hội, Liên
đoàn Võ cổ truyền cấp tỉnh.
II. Những mặt còn tồn tại, hạn chế
- Số người luyện tập và thi đấu các môn phái Võ cổ truyền Việt Nam còn
ít, nhất là trong thanh thiếu niên học sinh, trong trường học các cấp.
- Hệ thống các câu lạc bộ, lò võ, cơ sở thể thao có tập luyện, thi đấu Võ cổ
truyền trong nước và quốc tế còn manh mún, tự phát và thiếu ổn định.
- Nhiều môn phái, bài tập, binh khí bị thất truyền; hệ thống thi đấu Võ cổ
truyền chưa ổn định, thiếu tính liên thông giữa trong nước và quốc tế.
- Hệ thống giáo trình, giáo án giảng dạy giữa các môn phái trong cả nước
cũng như các nước có phát triển Võ cổ truyền Việt Nam chưa được xây dựng một
cách bài bản, thiếu tính khoa học.
Một số môn Võ thuật của nước ngoài đã được nghiên cứu khoa học, các
bài quyền được nghiên cứu chuẩn hóa theo thời gian, không gian. Như môn
Wushu của Trung Quốc: các bài quyền được chuẩn xác đến từng giây, độ dừng
của từng động tác cũng rất chuẩn, từ ánh mắt, thần thái cũng được luật hóa để
chấm điểm; giáo án, giáo trình cũng đã được Viện nghiên cứu Wushu tại Trung
13
Quốc nghiên cứu rất khoa học, được tính toán đến từng ngày, từng tháng, từng
năm để giảng dạy.
- Việc tập luyện Võ cổ truyền Việt Nam còn bị hạn chế nhiều trong các
trường học; chưa thực sự được đầu tư nhiều từ cấp Trung ương đến địa phương
- Chưa có công trình cấp quốc gia nào nghiên cứu và sưu tầm về các Võ
miếu, các bài võ cổ, các lại ấn phẩm võ kinh, y võ, những loại binh khí cổ qua
các thời đại để lưu giữ, truyền dạy cho các thế hệ tương lai.
- Chưa có một tổ chức Quốc tế về Võ cổ truyền Việt Nam để chỉ đạo, định
hướng phát triển Võ cổ truyền Việt Nam trên thế giới.
Những hạn chế, tồn tại nói trên do những nguyên nhân chủ yếu là:

- Việc tập luyện Võ cổ truyền Việt Nam còn bị hạn chế trong các trường
học, vì hiện nay Võ cổ truyền chưa có thi đấu trong Hội khỏe Phù đổng (một số
môn Võ thuật nước ngoài có thi đấu trong Hội khỏe Phù Đổng như Karate của
Nhật Bản, Taekwondo của Hàn quốc, Silat của Indonesia ), các vận động viên
thi đấu các môn trong hội khỏe Phù Đổng còn được cộng điểm.
- Võ cổ truyền Việt Nam cũng chưa được đưa vào thi đấu tại SEAGames
và các Đại hội thể thao lớn, do vậy sự quan tâm đầu tư từ cấp Trung ương đến địa
phương còn hạn chế nhiều. Chỉ rất ít tỉnh, thành có đội tuyển cấp tỉnh được đầu
tư ăn, tập thường xuyên; chưa có đội tuyển Võ cổ truyền cấp quốc gia.
- Các công trình nghiên cứu bảo tồn chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu về
quá trình hình thành và phát triển của môn võ tại địa phương; hoặc nghiên cứu về
tiểu sử và hình ảnh của các võ sư, võ nhân tiêu biểu của tỉnh; chứ chưa thực sự đi
sâu vào thực tế việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi của võ cổ
truyền như các bài võ hay các ấn phẩm võ kinh cổ.
- Võ cổ truyền Việt Nam tại các nước chủ yếu là tự phát, do các võ sư,
huấn luyện viên Võ cổ truyền Việt Nam hiện đang sinh sống tại các nước mở các
võ đường, võ phái, câu lạc bộ võ thuật để truyền bá, hướng dẫn tập luyện Võ cổ
truyền Việt Nam. Chính vì thế rất cần thành lập Liên đoàn Thế giới Võ cổ truyền
để thống nhất chỉ đạo phát triển chung trên toàn thế giới.
14
Phần II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ
CỦA ĐỀ ÁN
I. Quan điểm xây dựng Đề án
1. Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam góp phần gìn giữ bản sắc
tinh hoa văn hóa của dân tộc; đồng thời giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người, nền văn hóa Việt Nam ra với bạn bè quốc tế.
2. Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam nhằm đưa Võ cổ truyền trở
thành một môn thể thao được nhiều người lựa chọn tập luyện, nâng cao chất
lượng Thể dục thể thao cho mọi người, góp phần nâng cao thành tích thể thao

cũng như đời sống văn hoá, tinh thần cho nhân dân.
3. Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam phải theo đúng đường lối
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta, phù hợp với điều
kiện thực tế trong nước và quốc tế.
II. Mục tiêu của Đề án
1. Mục tiêu tổng quan: Bảo tồn, giữ gìn được tinh hoa Võ cổ truyền Việt
Nam; Phát triển mạnh mẽ phong trào dạy và tập Võ cổ truyền Việt Nam, trước
hết là trong thanh thiếu niên và học sinh các cấp; Phát triển mạnh Võ cổ truyền ra
nước ngoài.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Sưu tầm, tìm hiểu, biên tập danh mục tên gọi các bài Võ cổ truyền Việt
Nam vào năm 2015.
- Hoàn thiện 10 bài quyền, bài binh khí quy định để thi đấu tại các giải Võ
cổ truyền vô địch, giải trẻ, giải cúp toàn quốc, khu vực trong nước, quốc tế.
- Phấn đấu để có khoảng 3-4% dân số tham gia tập luyện Võ cổ truyền Việt
Nam vào năm 2020.
15
- Đào tạo từ 30 đến 50 huấn luyện viên võ cổ truyền giỏi về chuyên môn,
có tư cách đạo đức tốt, có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu giảng dạy truyền
bá võ cổ truyền trong nước và quốc tế.
- Nghiên cứu xây dựng giáo trình để giảng dạy Võ cổ truyền trong các
trường Đại học chuyên nghiệp về Thể dục thể thao vào năm 2017.
- Đưa Võ cổ truyền vào chương trình học ngoại khóa của một số trường
phổ thông các cấp trên toàn quốc. Phấn đấu đến năm 2020 sẽ có 30% các trường
phổ thông có CLB Võ cổ truyền.
III. Hiệu quả của Đề án
1. Tạo cơ hội để mọi người lựa chọn cho mình môn thể thao tập luyện nâng
cao sức khỏe. Nâng số lượng và chất lượng vận động viên làm nòng cốt phát triển
phong trào tập luyện Võ cổ truyền.
2. Tăng cường sự giao lưu, hiểu biết giữa các dân tộc, kích cầu du lịch,

tăng lượng khách đến Việt Nam, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của
Đảng và chính sách của Nhà nước.
3. Góp phần giữ gìn kỷ cương, trật tự của xã hội thông qua số lượng người
tập luyện Võ cổ truyền được rèn luyện về phẩm chất đạo đức, ý chí trong các võ
đường, võ phái, câu lạc bộ, trung tâm thể dục thể thao.
4. Tăng cường hiệu quả kinh tế nhờ số lượng công dân có sức khỏe tốt
được tăng cao; nhiều sự kiện võ thuật được tổ chức tại Việt Nam và quốc tế sẽ
dẫn đến du lịch phát triển; sản xuất trang thiết bị, quần áo, dung cụ tập luyện
được tăng cao.
5. Bảo tồn kế thừa phát triển di sản văn hóa góp phần xây dựng nền văn
hóa phát triển đậm đà bản sắc dân tộc.
Phần III
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
I. Nhiệm vụ:
1. Xây dựng cơ chế, chính sách quy hoạch, kế hoạch bảo tồn và phát
triển Võ cổ truyền Việt Nam
- Xây dựng quy hoạch phát triển Võ cổ truyền Việt Nam đến năm 2020
định hướng đến năm 2030 và kế hoạch giai đoạn 2015-2020.
16
- Nghiên cứu ban hành chính sách tôn vinh các võ sư, các tổ chức và cá
nhân có công lao bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam.
- Xây dựng tiêu chí để công nhận môn phái, võ phái, võ đường Võ cổ
truyền Việt Nam.
- Xây dựng tiêu chí và quy trình giám định để công nhận bài võ cổ truyền
cổ, bài binh khí cổ (gồm lịch sử, lý luận, thực tiễn ).
- Tuyên truyền phổ biến và phát triển võ cổ truyền Việt Nam.
2. Củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức xã hội nghề nghiệp về Võ cổ
truyền Việt Nam
- Củng cố tổ chức bộ máy của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam.
- Xây dựng Liên đoàn hoặc Hội Võ cổ truyền các tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương.
- Xây dựng các Lò võ, Võ đường, Câu lạc bộ võ cổ truyền ở cơ sở .
3. Xây dựng hệ thống thi đấu về Võ cổ truyền
- Xây dựng hệ thống giải thi đấu Võ cổ truyền trên toàn quốc (Giải vô
địch, Giải trẻ, Giải cúp), giải các khu vực và giải cấp tỉnh, thành, ngành tổ chức
hàng năm.
- Xây dựng Hệ thống thi đấu Giải quốc tế: Vô địch Thế giới, Vô địch Châu
lục và Vô địch Đông Nam Á.
4. Đào tạo nguồn nhân lực của Võ cổ truyền
- Đào tạo Võ sư, huấn luyện viên Võ cổ truyền Việt Nam.
- Đào tạo trọng tài Võ cổ truyền Việt Nam .
- Bồi dưỡng giáo viên thể dục giảng dạy Võ cổ truyền Việt Nam.
5. Xây dựng cơ sở vật chất
Nghiên cứu hoàn thiện cơ sở vật chất trang thiết bị tập luyện, thi đấu Võ
cổ truyền như đài đấu, thảm đấu, binh khí, trang phục của VĐV, trọng tài.
17
6. Hợp tác quốc tế
- Mở rộng hợp tác quốc tế, phát triển Võ cổ truyền Việt Nam tại các nước
trong khu vực, Châu lục và Thế giới.
- Võ cổ truyền Việt Nam tham gia tích cực với Hiệp hội Võ truyền thống
thế giới (WoMAU).
II. Giải pháp:
1. Xây dựng cơ chế, chính sách bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt
Nam
- Nghiên cứu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về võ cổ truyền
nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước, đồng thời tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho việc mở rộng phạm vi bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam.
- Xây dựng, ban hành tiêu chí đánh giá Môn phái, Võ phái,Võ đường, Câu
lạc bộ Võ cổ truyền Việt Nam.
- Xây dựng, ban hành tiêu chí tuyển chọn bài quyền quy định để thi trong

các giải Võ cổ truyền vô địch, giải trẻ, giải cúp toàn quốc, khu vực trong nước,
quốc tế.
2. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, quảng bá Võ cổ truyền Việt Nam
- Thông qua các kênh truyền hình để giới thiệu quảng bá Võ cổ truyền tại
các giải trong nước và giải quốc tế tổ chức tại Việt Nam. Xây dựng Website riêng
của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam để truyền tải những thông tin, những
hoạt động của Võ cổ truyền Việt Nam đến người dân trong nước và quốc tế.
- Tổ chức hoạt động phát huy di tích Võ miếu ở khu di tích Cố đô Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế để giới thiệu Võ cổ truyền Việt Nam với khách du lịch.
- Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam phối hợp với các đơn vị để tổ
chức biểu diễn Võ cổ truyền trong các ngày Lễ tết và ngày Lễ lớn của đất nước.
- Các Hội võ cổ truyền, chi hội, võ phái, võ đường tổ chức biểu diễn Võ cổ
truyền trong các ngày Lễ hội tại địa phương.
18
3. Đào tạo nguồn nhân lực
3.1. Xây dựng Đề án thành lập Học viện đào tạo, nghiên cứu và phát triển
Võ cổ truyền Việt Nam (gọi tắt là Học viện Võ cổ truyền Việt Nam), xin cấp đất
đồng thời vận động xã hội hóa để xây dựng Học viện.
- Tuyển chọn đào tạo các võ sinh ưu tú hàng năm.
- Đào tạo Võ sư, nhà quản lý về Võ cổ truyền Việt Nam.
- Tổ chức nhiều sự kiện, chương trình biểu diễn, thi đai cấp Võ sư cho
người Việt Nam và người nước ngoài tại Học viện.
- Nghiên cứu xuất bản các tài liệu về Võ cổ truyền Việt Nam.
3.2. Xây dựng chương trình giảng dạy Võ cổ truyền, đào tạo HLV, giáo
viên trong các trường Đại học chuyên nghiệp về Thể dục thể thao.
- Hàng năm tổ chức Hội nghị chuyên môn để thống nhất về Luật thi đấu,
hệ thống bải bản của Võ cổ truyền Việt Nam.
- Tập huấn đào tạo huấn luyện viên, trọng tài, giám định, giám khảo cấp
cấp quốc gia và quốc tế.
- Đào tạo hệ thống trọng tài chuyên biệt cho từng nội dung thi đấu (thi đối

kháng và thi quyền).
- Hoàn thiện hệ thống huấn luyện viên đào tạo chuyên biệt về quyền quy
định, đối luyện và đối kháng.
4. Củng cố Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam
- Thành lập Hội đồng Võ sư Võ cổ truyền Việt Nam, được chọn lựa từ đội
ngũ các Võ sư lão thành lâu năm trong nghề với trình độ, kinh nghiệm và tâm
huyết với nghề, để tiến hành khảo sát, nghiên cứu các về bài quyền cổ của các
môn phái lớn trên toàn quốc (gồm lịch sử, lý luận, thực tiễn ), giúp phục vụ
công tác bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam được thiết thực và đầy đủ,
phù hợp với tình hình thực tế.
- Khôi phục dụng cụ, trang phục, binh khí Sưu tầm, lưu giữ tất cả bài
quyền cổ của các môn phái, võ phái Võ cổ truyền Việt Nam trên toàn quốc và
quốc tế.
19
- Phát triển mới 10 đến 15 Hội, Liên đoàn Võ cổ truyền cấp tỉnh, thành,
ngành. Phấn đấu tới năm 2020 sẽ có khoảng 45-50 Hội, Liên đoàn Võ cổ truyền
cấp tỉnh, thành, ngành.
- Thành lập Liên đoàn Thế giới Võ cổ truyền Việt Nam.
5. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thi đấu, biểu diễn Võ cổ truyền
Việt Nam
- Hàng năm tổ chức giải Vô địch quốc gia, giải trẻ quốc gia, giải Võ cổ
truyền các khu vực trong nước.
- Xây dựng Hệ thống thi đấu Giải quốc tế (hoặc Vô địch Thế giới) và hệ
thống thi đấu các Châu lục.
6. Giảng dạy Võ cổ truyền cho học sinh phổ thông
- Tổ chức các Câu lạc bộ Võ cổ truyền Việt Nam trong các trường học. Với
đội ngũ HLV được đào tạo bài bản từ các trường Đại học chuyên nghiệp về
TDTT hiện nay và Học viện Võ thuật cổ truyền Việt Nam sau này. Cùng đội ngũ
Hướng dẫn viên là các giáo viên giáo dục thể chất của các trường được tập huấn
về Võ cổ truyền để cùng phối hợp giảng dạy với các HLV.

- Hoàn thiện hệ thống giải Võ cổ truyền trong Hội khỏe Phù đổng các cấp.
7. Mở rộng hợp tác quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam
- Hai năm một lần tổ chức Liên hoan quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam tại
Bình Định và giải quốc tế tổ chức tại Việt Nam hoặc các nước trên thế giới.
- Hai năm một lần tổ chức thi lên đai, đẳng quốc tế.
- Cử huấn luyện viên đi huấn luyện tại các nước trong khu vực, châu lục để
giúp các nước bạn phát triển Võ cổ truyền Việt Nam.
- Thành lập được Liên đoàn Thế giới Võ cổ truyền Việt Nam.
Phần IV
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I. Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
20
1.1. Tổng cục Thể dục thể thao là đầu mối chủ trì thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Tham gia xây dựng, thẩm định các đề án, dự án thành phần; phân công
nhiệm vụ cho các đơn vị thuộc Tổng cục để phối hợp triển khai, tổ chức thực hiện
Đề án.
- Tổng hợp kế hoạch hàng năm báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
để thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để cân đối bố trí vốn
ngân sách thực hiện Đề án.
- Đôn đốc các Sở, ngành và địa phương liên quan trong việc triển khai thực
hiện Đề án, tổng hợp kết quả thực hiện các dự án thành phần hàng năm, báo cáo
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
1.2. Vụ Kế hoạch, Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp
với Tổng cục Thể dục thể thao xây dựng, thẩm định các dự án và trình Lãnh đạo
Bộ phê duyệt; Cân đối nguồn vốn, lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội để
thực hiện Đề án; Hướng dẫn quản lý tài chính, kinh phí của Đề án, bố trí ngân
sách thực hiện hàng năm, đảm bảo theo kế hoạch, mục tiêu và tiến độ các dự án
thành phần đã được duyệt.
1.3. Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam phối hợp với Hội Võ thuật các

tỉnh, thành, ngành để thực hiện các đề án, dự án nằm trong Đề án; vận động xã
hội hóa để thực hiện những dự án liên quan.
1.4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành trong cả nước phối
hợp các đơn vị khác trong tỉnh, thành tổ chức thực hiện những đề án, dự án nằm
trong Đề án.
II. Dự toán kinh phí thực hiện
Tổng kinh phí khoảng: 173.300.000.000 đồng , từ 02 nguồn: Ngân sách
nhà nước cấp là 8.300.000.000 đồng và huy động từ xã hội là 165.000.000.000
đồng.
Kinh phí nói trên được sử dụng để giải quyết các dự án thành phần của đề
án, dự án cụ thể là:
1. Đề án xây dựng cơ chế, chính sách bảo tồn và phát triển Võ cổ
truyền Việt Nam
Tổng kinh phí: 300.000.000 đồng
Trong đó ngân sách nhà nước chi : 300.000.000 đồng
21
2. Đề án tuyên truyền, quảng bá Võ cổ truyền Việt Nam
Tổng kinh phí: 1.000.000.000 đồng
Trong đó ngân sách nhà nước chi 500.000.000 đồng và huy động từ xã hội
là 500.000.000 đồng
3. Đề án hoạt động của Hội đồng võ sư Võ cổ truyền Việt Nam
Tổng kinh phí: 4.000.000.000 đồng
Trong đó ngân sách nhà nước chi 500.000.000 đồng và huy động từ xã hội
là 3.500.000.000 đồng
4. Đề án xây dựng và hoàn thiện hệ thống thi đấu, hệ thống tập huấn
Võ cổ truyền Việt Nam
Tổng kinh phí : 6.000.000.000
Trong đó ngân sách nhà nước chi 3.400.000.000 đồng và huy động từ xã
hội là 2.600.000.000 đồng
5. Đề án từng bước đưa Võ cổ truyền Việt Nam vào trường học

Tổng kinh phí: 2.000.000.000 đồng
Trong đó ngân sách nhà nước chi 600.000.000 đồng và huy động từ xã hội
là 1.400.000.000 đồng
6. Đề án mở rộng hợp tác quốc tế phát triển Võ cổ truyền Việt Nam
Tổng kinh phí: 10.000.000.000 đồng
Trong đó ngân sách nhà nước chi 3.000.000.000 đồng và huy động từ xã
hội là 7.000.000.000 đồng
7. Dự án Xây dựng Học viện Võ cổ truyền Việt Nam
Tổng kinh phí: 150.000.000.000 đồng bằng nguồn vốn góp của các tổ chức
và cá nhân.
- Xin đất, giải phóng mặt bằng 2 ha : Khoảng 30.000.000.000 đồng
- Xây 01 nhà tập luyện đơn giản : 15.000.000.000 đồng
- Nhà 01 thi đấu và tập luyện : 70.000.000.000 đồng
- Nhà ở và khu nhà ăn sinh hoạt văn hóa của VĐV: 35.000.000.000 đồng
22
KẾT LUẬN
1. Đề án Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam được phê duyệt và
tổ chức thực hiện thành công sẽ góp phần nâng cao sức khỏe nhân dân, gìn giữ
bản sắc văn hóa dân tộc, khơi dậy tinh thần thượng võ, lòng tự hào dân tộc trong
mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ; Việc xây dựng đề án Bảo tồn và phát
triển Võ cổ truyền Việt Nam nhằm thực tế hóa quan điểm, đường lối của Đảng,
đưa chính sách pháp luật của Nhà nước ta vào thực tiễn cuộc sống, phù hợp với
điều kiện thực tế trong nước, Quốc tế.
2. Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam là trực tiếp góp phần để đạt
được mục tiêu nâng cao đời sống văn hoá, nâng cao thể chất, sức khoẻ của mọi
tầng lớp nhân dân, góp phần giữ gìn trật tự, an ninh, tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế - xã hội. Thông qua việc truyền bá võ cổ truyền Việt Nam nhằm giới
thiệu, quảng bá bẳn sắc văn hóa, tinh hoa võ thuật truyền thống của dân tộc Việt,
thúc đẩy quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế của đất nước.
23

PHỤ LỤC
24

×