Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin và thực trạng ly hôn tại thị xã Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.55 KB, 23 trang )


Phần một: Lời Mở Đầu
Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã từng nói :” Học phải đi
đôi với hành”.Vâng lời dạy của Người cùng với việc thực hiện chủ trương
đưa sinh viên về thực tập, tìm hiểu thực tế tại địa phương của trường Đại học
Luật Hà Nội, nhằm nâng cao kiến thức, phát huy tính năng động sáng tạo
của sinh viên. Trong đợt thực tập của mình tôi đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ và đi đến quyết định chọn chuyên đề về : “Hôn nhân và gia đình”
đề tài số 10 “Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại địa
phương nơi thực tập”. Qua đó Tôi nhận thấy: gia đình là một trong những
nhân tố quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của xã hội. Xây dựng
gia đình Việt Nam ít con, no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực
của chiến lược phát tiển kinh tế xã hội đất nước ta giai đoạn mới hiện nay.
Xong “ly hôn” đang là thực trạng “bức xúc” của xã hội bởi các nguyên
nhân, lý do như : Mâu thuẫn gia đình, không có con, ngoại tình, nghiện ma
túy, một bên can án, lý do về kinh tế… Kéo theo nó là biết bao gia đình tan
nát, chia ly, vợ bỏ chồng, chồng bỏ vợ, con cái bỏ học hư đốn… hậu quả để
lại thật khôn lường, xã hội phải gánh chịu bao gánh nặng.
Tôi thực tập tại một Tòa án thuộc tỉnh miền núi nghèo phía bắc của tổ
quốc -Hà Giang là một tỉnh biên giới nằm ở phía đông bắc, dân số khoảng
680.000 người, với 22 dân tộc anh em chủ yếu là thành phần các dân tộc
thiểu số. Trong những năm gần đây số vụ ly hôn có chiều hướng gia tăng
ngày càng cao( Năm 1991 khi mới tách tỉnh, chỉ có 90 vụ thì đến năm 2006
tăng lên đột biến). Vì vậy tôi xin đưa ra những con số cụ thể, những ví dụ
điển hình về thực trạng ly hôn, qúa trình giải quyết của Tòa án nhân dân thị
xã Hà Giang và một số kiến nghị về vấn đề hạn chế ly hôn tại địa phương
nơi tôi thực tập./
1

PHần HAI : NộI DUNG
Chương I: Khái quát về quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin và


thực trạng ly hôn tại thị xã Hà Giang.
1.Khái quát về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
Với thời gian thực tập khoảng bốn tháng, tôi đã nỗ lực không ngừng
nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin trong những hồ hơ vụ án, tham dự một
số phiên tòa xét xử cũng như học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn của
những người đi trước. Bằng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp so
sánh, đối chiếu, bình luận, nghiên cứu tài liệu liên quan đến vấn đề hôn nhân
và gia đình. Vì vậy qúa trình thực tập tại Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang
đã giúp tôi hiểu được phần nào thực trạng ly hôn tại địa phương nơi tôi sinh
sống.
Chúng ta đều biết rằng hôn nhân là mong muốn của nhiều người khi
đến độ tuổi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đó, quan hệ vợ chồng được
thiết lập, vợ chồng đều mong muốn được chung sức xây dựng gia đình ấm
no tự do và hạnh phúc đóng góp phần nào đó cho xã hội đúng như theo một
triết gia nào đó đã nói “gia đình là tế bào của xã hội”. Nhưng do nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan khác nhau ví như (chồng cờ bạc rượu chè, đánh đập
vũ phu, hoặc vợ chồng một trong hai bên ngoại tình, lý do về kinh tế, một
bên đi vắng lâu ngày không trở về...) điều đó dẫn tới mâu thuẫn gia đình
ngày càng lớn, không thể giải quyết được tất yếu dẫn tới ly hôn.
2. Thực trạng ly hôn tại thị xã Hà Giang.
Tại địa phương nơi thực tập, tôi thấy số lượng án ly hôn rất phổ biến,
chiếm tỷ lệ cao từ 42 - 45% tổng số vụ án thụ lý của 1 năm, và liên tục tăng
2

sau mỗi năm, đặc biệt có tới 60% số vụ án ly hôn thuộc về các gia đình trẻ,
tuổi của vợ chồng dưới 30 và phần lớn ly hôn khi mới chung sống cùng nhau
được từ 1-7 năm, hầu hết đang có con nhỏ, mỗi năm toàn tỉnh có khoảng 3-
4 ngàn đôi bạn trẻ tổ chức kết hôn, xây dựng tổ ấm gia đình. Tuy nhiên do
yêu vội, cưới gấp, kết hôn theo trào lưu không chuẩn bị kỹ càng trước khi
bước vào cuộc sống lứa đôi, nhiều cặp vợ chồng trẻ đã phải “dắt” nhau ra

tòa sau một thời gian ngắn chung sống, thực trạng này thực sự trở nên báo
động đối với toàn xã hội.
Ly hôn là hiện tượng xã hội rất phức tạp bởi hậu quả của nó thật khôn
lường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách của con trẻ khi sống thiếu mẹ
hoặc thiếu cha, ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của gia đình và toàn xã hội.
Việc ly hôn là do một trong hai bên vợ chồng yêu cầu hoặc do sự thỏa thuận
của cả hai bên, kết quả có thể do tòa án sẽ đưa ra một quyết định công nhận
sự thỏa thuận của hai bên hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ, của chồng
hoặc của cả hai vợ chồng.
Trong những năm gần đây, theo số liệu báo cáo tổng kết năm của
nghành Tòa án nhân dân thì Thị xã Hà Giang, tỷ lệ ly hôn có chiều hướng
ngày một gia tăng. Xem xét tình trạng ly hôn tại thị xã Hà Giang một vài
năm trở lại đây ta thấy rõ được điều nay:
Năm 2001 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thụ lý 72 vụ, giải quyết
được 68 vụ, còn tồn 4 vụ, đạt tỷ lệ 94,4%.
Năm 2002 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thụ lý 85 vụ, tăng 13 vụ
so với năm 2001. Trong đó án cũ chuyển sang là 4 vụ, án mới thụ lý là 81
vụ. -Đã giải quyết được 78 vụ đạt tỷ lệ 91,7%.
-Hòa giải thành: 16 vụ = 20,5%
-Đình chỉ và tạm đình chỉ: 8 vụ = 10.2%
3

-Công nhận thuận tình ly hôn: 19 vụ= 24,3%
-Xử cho ly hôn: 35 vụ = 44,8%
Đặc biệt năm 2007 vừa qua Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã thụ lý số
vụ án ly hôn với lượng án thật kỷ lục là hơn 140 vụ, việc khiến cho công
việc của những Thẩm phán chủ yếu là giải quyết việc ly hôn giữa các đương
sự , đây thực sự là những con số đáng báo động hiện nay đối với toàn xã hội.
Như vậy qua thu thập các số liệu cụ thể án ly hôn của từng năm tại

Thị xã Hà giang, chúng ta có thể nhận thấy số lượng án ly hôn tăng từng
năm. Và ta cũng thấy rằng số án ly hôn của giới trẻ đặc biệt tăng nhanh
chóng Trong vài năm gần đây án ly hôn tăng nhanh chóng, gây nhiều khó
khăn cho xã hội và cơ quan xét xử. Cụ thể trong vòng 2 năm
án hôn nhân và gia đình năm 2005:
Tổng thụ lý: 115 vụ,việc (110 vụ 5 việc). Trong đó án cũ năm 2004
chuyển sang 18 vụ việc (15 vụ 3 việc), thụ lý mới 97 vụ,việc (trong đó 95 vụ
2 việc).
án hôn nhân gia đình toà thụ lý tập trung chủ yếu là án ly hôn 95/115
vụ, việc chiếm tỷ lệ 82,6%. Còn lại là yêu cầu cấp dưỡng nuôi con 02/115
vụ chiếm tỷ lệ 1,7%; Thay đổi thành phần nuôi con chung 02/115 chiếm tỷ
lệ 1,7%; Không công nhận quan hệ vợ chồng 05/115 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%;
Tranh chấp tài sản sau ly hôn 02/117 vụ chiêm tỷ lệ 1,7%.
Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu là do mâu thuẫn vợ chồng 36 vụ
chiếm tỷ lệ 31,3%; Đánh đập ngược đãi 29 vụ chiếm tỷ lệ 25,2%; Do tính
tình không hợp 18 vụ chiếm tỷ lệ 15,6%; Do ngoại tình 06 vụ chiếm tỷ lệ
5,2%; không có con 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86; một bên đi vắng lâu ngày không
trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,6%; do nghiện rượu 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%; huỷ
hôn nhân trái pháp luật 05 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%; Một bên mất tích 01 vụ
chiếm tỷ lệ 0,86%. Tòa đã giải quyết được 95 vụ,
4

Và trong tổng số 95 vụ Toà án đã giải quyết thì:
-Hòa giải thành: 03 vụ = 3,1%
-Thuận tình ly hôn: 40 vụ = 42%
-Đình chỉ: 28 vụ = 29%
-Xét xử: 20 vụ = 21%
-Di lý: 04 vụ = 4,6%
Năm 2006 án hôn nhân gia đình :
Tổng thụ lý: 130 vụ. Trong đó án cũ năm 2005 chuyển sang 20 vụ, thụ

lý mới 110 vụ. So với cùng kỳ năm trước, án thụ lý mới tăng 28 vụ ( năm
2005 thụ lý 105 vụ, án cũ năm 2004 chuyển sang 23 vụ, thụ lý mới 82 vụ ).
Toà đã giải quyết 120/130 vụ, đạt tỷ lệ 92,30%.
án hôn nhân gia đình toà thụ lý tập trung chủ yếu là án ly hôn 120/130
vụ chiếm tỷ lệ 92,30%; án xin thay đổi thành phần nuôi con chung 6/130 vụ
chiếm tỷ lệ 4,61%; án tranh chấp tài sản sau ly hôn 02/130 vụ chiếm tỷ lệ
1,53%, xin cấp dưỡng nuôi con 03/130 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%, truy nhận cha
cho con 01/130 vụ chiếm tỷ lệ 0,76%.
Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu do mâu thuẫn gia đình, đánh đập
ngược đãi 63 vụ chiếm tỷ lệ 48,4%; do tính tình không hợp 30 vụ chiếm tỷ
lệ 23%; do ngoại tình 10 vụ chiếm tỷ lệ 7,69%; không có con 03 vụ chiếm tỷ
lệ 2,3%; một bên đi vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một
bên bỏ đi 02 vụ chiếm tỷ lệ 1,53%.
Trong tổng số 120 vụ Toà án đã giải quyết trong đó có:
-Hòa giải thành: 20 vụ = 16,%
-Công nhận thuận tình ly hôn: 40 vụ = 33,%
-Đình chỉ(nguyên đơn xin rút đơn, đoàn tụ): 25 vụ = 20,%
-Xét xử cho ly hôn: 20 vụ = 16%
-Tạm đình chỉ( không tìm được bị đơn): 15 vụ = 12%
5

Chương II: Nguyên nhân dẫn đến ly hôn và căn cứ giải quyết ly hôn
1/ Nguyên nhân.
Tôi đã đề cập đến một số nguyên nhân nho nhỏ về tình trạng ly hôn ở
địa phương tôi trên đây. Nhưng trong phần này tôi muốn đề cập những
nguyên nhân cụ thể và phân tích một cách rõ ràng hơn.
Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn tăng một cách đáng kể và
đang trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Việt nam nói chung và Hà Giang
nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có một nhà nghiên cứu đã nói
rằng ở Việt Nam cứ ba đôi kết hôn thì có một đôi xin ly hôn.

Cụ thể trong năm 2005 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang xét xử 115
vụ ly hôn gồm nguyên nhân sau: Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu là do mâu
thuẫn vợ chồng 36 vụ chiếm tỷ lệ 31,3%; Đánh đập ngược đãi 29 vụ chiếm
tỷ lệ 25,2%; Do tính tình không hợp 18 vụ chiếm tỷ lệ 15,6%; Do ngoại tình
06 vụ chiếm tỷ lệ 5,2%; không có con 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86; một bên đi
vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,6%; do nghiện rượu 01 vụ
chiếm tỷ lệ 0,86%; huỷ hôn nhân trái pháp luật 05 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%; Một
bên mất tích 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%.
Năm 2006 trong tổng số 130 vụ ly hôn thì: Nguyên nhân xin ly hôn
chủ yếu do mâu thuẫn gia đình, đánh đập ngược đãi 63 vụ chiếm tỷ lệ
48,4%; do tính tình không hợp 30 vụ chiếm tỷ lệ 23%; do ngoại tình 10 vụ
chiếm tỷ lệ 7,69%; không có con 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên đi vắng
lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên bỏ đi 02 vụ chiếm tỷ
lệ 1,53%.
Nhìn vào những thông số trên đây chúng ta có thể thấy rằng nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới việc ly hôn do mâu thuẫn gia đình, ngược đãi là những
con số rất lớn,( năm 2005 là 36 vụ chiếm 31,3% - năm 2006 là 63 vụ chiếm
6

48,4% ), số vụ do tính tình không hợp nhau dẫn đến ly hôn cũng là một con
số không nhỏ (năm 2005 là 25 vụ chiếm tỷ lệ 21,3%, năm 2006 là 18 vụ
chiếm 13,6% , không kể tỷ lệ % ly hôn do những lý do khác mang lại nữa, từ
những điển hình này cho thấy đây là thực trạng vô cùng “bức xúc” của Hà
Giang hiện nay. Dựa trên kết quả này chúng ta đều nhận thấy rằng số vụ án
do đánh đập ngược đãi trong gia đình lại chiếm khá lớn mặc dù xã hội hiện
nay đang có chủ trương không có bạo lực trong gia đình .Vậy vì sao có tình
trạng số vụ án ly hôn do ngược đãi và do tính tình không hợp nhau cũng như
do những nguyên nhân khác lại có tỷ lệ cao như thế khi mà trong xã hội nay
những người tri thức của ta rất nhiều, tầm nhận thức về quan hệ gia đình của
họ rất lớn? Phải chăng là do ngày nay, khi quan hệ giữa các thành viên trong

gia đình như con cái với bố mẹ, vợ chồng với nhau có phần xuống cấp trong
một bộ phận không nhỏ của dân cư, bởi xã hội này mọi người chủ yếu quan
tâm tới yếu tố kinh tế và quên đi việc chăm lo tới gia đình mình. Sự quan
tâm chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình giờ đây được thay thế bằng
việc tính toán làm ăn kinh tế , đôi khi là chơi bời trụy lạc ... đã làm cho mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ. Sự cách biệt
giữa thu nhập của vợ chồng, sự ảnh hưởng của yếu tố văn hóa ngoại lai, sự
xâm nhập của những quan hệ không đúng đắn sự nhận thức không đầy đủ và
không thấu đáo về hậu quả ly hôn giữa các cặp vợ chồng... Đó là một số các
nguyên nhân trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng ly hôn ở Việt
Nam nói chung và ở Hà Giang nói riêng gia tăng đáng kể? Còn với lý do ly
hôn ta có thể thấy nó là cái cớ mà đương sự dựa vào đó để yêu cầu tòa án
cho ly hôn (thường do lỗi của bị đơn). Như vậy lý do ly hôn thường trùng
với nguyên nhân gây mâu thuẫn vợ chồng, mà thực tế cho thấy người đứng
đơn cho mỗi vụ ly hôn thường là người phụ nữ, với các lý do như: chồng
ngoại tình, chồng cờ bạc rượu chè…
7

Những nguyên nhân, lý do dẫn tới ly hôn rất đa dạng và khá phức tạp. Vì
vậy muốn giải quyết ly hôn chính xác, để vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn
chính đáng của vợ chồng, vừa đảm bảo lợi ích của gia đình và xã hội, cán bộ
thẩm phán cần nắm rõ quy định của pháp luật, tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới
mâu thuẫn vợ chồng. Đồng thời lưu ý đặc điểm kinh tế - chính trị, xã hội tác
động vào quan hệ ly hôn trong thời điểm giải quyết vụ án để quyết định
đúng đắn đường lối chính sách của Đảng & nhà nước đối với việc giải quyết
từng án kiện ly hôn, bởi quyết định này có ảnh hưởng sâu sắc đến thành viên
trong gia đình cũng như xã hội. Ví dụ:
Ngày 12 tháng 09 năm 2005 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã thụ lí đơn
xin ly hôn của chị Bàng Thị Sơn, sinh năm 1986, dân tộc Cao Lan, thường
trú tại tổ 12 phường Minh Khai thị xã Hà Giang yêu cầu tòa án giải quyết ly

hôn giữa chị và anh Nguyễn Văn Nam, trong khi hai anh chị mới chung sống
cùng nhau được một thời gian ngắn chưa đầy 6 tháng vì anh chị đăng kí kết
hôn vào tháng 4 năm 2005.
Nguyên nhân dẫn tới việc Chị Sơn xin yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn
của chị và anh Nam là do anh Nam nghiện ma túy, bản thân anh Nam không
có công ăn việc làm ổn định để lo cho gia đình lại còn có quan hệ bất chính
với người đàn bà khác đã bị chị Sơn phát giác, khuyên ngăn anh nhiều lần
nhưng anh không chịu nghe còn chung sống bất hợp pháp cùng với người
phụ nữ đó. Qua nghiên cứu hồ sơ và điều tra vụ án, Tòa án nhân dân Thị xã
đã chấp nhận đơn yêu cầu của chị Sơn và giải quyết đúng theo nguyện vọng
của chị .
2/ Căn cứ giải quyết cho ly hôn.
Trước hết cũng như theo quy định của pháp luật thì thủ tục hòa giải
được áp dụng đối với các vụ kiện ly hôn do TAND tiến hành là thủ tục pháp
lý bắt buộc, bởi vậy Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang rất coi trọng công tác
8

điều tra và hòa giải. Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất mà cán bộ hòa
giải hướng tới giúp cho cuộc hôn nhân có nguy cơ tan vỡ tránh được đổ vỡ,
vợ chồng đoàn tụ. Sau mỗi lần hòa giải, tòa án sẽ lập ra biên bản hòa giải,
hòa giải thành gia đình trở về đoàn tụ, hòa giải không thành tòa án lập biên
bản hòa giải không thành và đưa ra xét xử vụ kiện ly hôn, chỉ khi nào thấy
quan hệ vợ chồng thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn; Theo Đ89 - LHN & GĐ năm 2000 quy định.
Và khi xem xét giải quyết ly hôn Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thực
hiện triệt để theo các quy định về điều kiện hạn chế ly hôn. LHN & GĐ năm
2000 ghi nhận “ vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải
quyết việc ly hôn” Quyền này gắn liền với quyền nhân thân của vợ, chồng,
không thể chuyển giao, không ai có thể đệ đơn xin ly hôn thay vợ, chồng.

Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em, khoản 2 điều 85 LHN & GĐ
năm 2000 đã quy định điều kiện hạn chế ly hôn đối với người chồng “ Trong
trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng
không có quyền yêu cầu xin ly hôn” Người chồng bị hạn chế quyền ly hôn
không phân biệt người vợ có thai với ai. Trong trường hợp vợ có thai hoặc
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng,
nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ không có lợi cho sức khỏe của mình, của
thai nhi hoặc đứa bé mới sinh mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì tòa án vẫn
thụ lý đơn yêu cầu xin ly hôn của người vợ và giải quyết vụ án theo thủ tục
chung.
3/ Đường lối giải quyết án ly hôn của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang.
Luật LHN & GĐ năm 2000 quy định rõ: Cơ quan có thẩm quyền xét
xử ly hôn là Tòa án nhân dân. Cũng như tòa án nhân dân ở các địa phương
khác, Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn
9

×