Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

HÔN NHÂN CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG VIỆT - PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.04 KB, 3 trang )

HÔN NHÂN CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG VIỆT - PHÁP
Năm 2004, Phòng Quản lý Hộ tịch, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đã tiến hành đăng
ký cho hơn 300 giấy đăng ký kết hôn của các cặp vợ chồng Pháp-Việt, tăng 10% so
với năm 2003. Để được kết hôn với công dân Việt Nam tại Việt Nam, công dân Pháp
phải tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại và
phải có giấy chứng nhận đủ khả năng kết hôn do Đại sứ quán cấp. Theo quy định tại
Nghị định số 46 - 1917 ngày 19 tháng 8 năm 1946, hồ sơ đăng ký kết hôn bao gồm
một số giấy tờ bắt buộc như giấy khai sinh, giấy chứng nhận chỗ ở…
Sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước sở
tại, đa số các cặp vợ chồng đều được yêu cầu làm thủ tục đăng ký tại Cơ quan quản lý
hộ tịch Pháp. Thủ tục này không mang tính bắt buộc, nhưng thường được khuyến
khích tiến hành để hôn nhân có hiệu lực theo pháp luật của Pháp. Ngoài ra, thông qua
thủ tục này, người vợ hoặc chồng mang quốc tịch nước ngoài có thể có được thị thực
cư trú tại Pháp nếu cả hai vợ chồng có dự định cư trú tại nước này.
Hôn nhân của các cặp vợ chồng Việt-Pháp được chia thành hai nhóm:
1. Người chồng là Việt Kiều về nước lấy vợ: Thông thường, các cặp vợ chồng kết hôn
kiểu này thường không quen biết nhau lâu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, họ có
thể đã gặp nhau từ khi còn bé. Đây ít nhiều là những cuộc hôn nhân do gia đình sắp
đặt theo kiểu Việt Nam; truyền thống vẫn còn có một vai trò nhất định trong cuộc
sống của người Việt Nam.
Hôn nhân giữa những người Pháp gốc Việt (Việt Kiều), hiện đang sinh sống tại Pháp
chiếm hơn 50% các cuộc hôn nhân Pháp-Việt đăng ký tại Cơ quan quản lý hộ tịch.
Nhìn chung, các cuộc hôn nhân này không đặt ra vấn đề gì đối với công tác quản lý
hành chính.
2. Công dân Pháp muốn lập gia đình với người Châu Á thông qua:
 Trung gian
 Các dịch vụ môi giới hôn nhân.
Ngày nay, nhờ có mạng Internet, mọi việc trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Các hãng
môi giới hôn nhân được thành lập và sẵn sàng cung cấp cho các khách hàng Châu Âu
dịch vụ môi giới hôn nhân với phụ nữ Việt Nam. Trong trường hợp này, khách hàng
phải ký hợp đồng với hãng môi giới để được cung cấp danh sách các phụ nữ Việt Nam


muốn lấy chồng nước ngoài.
Trong một số trường hợp, hãng môi giới có thể yêu cầu khách hàng cung cấp thêm hồ
sơ, đặc biệt đối với những người đã bị từ chối cấp thị thực ngắn hạn. Như vậy, cơ quan
quản lý hộ tịch phải hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh. Hồ sơ thị
thực của người vợ hoặc chồng Việt Nam sẽ được xác minh trong trường hợp có nghi
ngờ.
Cũng phải nói thêm rằng không phải phụ nữ nào có tên trong danh sách xin kết hôn
cũng biết tiếng Anh hoặc tiếng Pháp; còn người chồng Pháp trong một số trường hợp
lại chỉ biết tiếng Pháp. Điều này khiến cho việc giao tiếp, trao đổi giữa hai người gặp
khá nhiều khó khăn.
Cùng với nhiều căn cứ khác, sự chênh lệch về tuổi tác cũng là một cơ sở cho phép
chứng minh một trong hai vợ chồng không tự nguyện kết hôn.
Đa số hồ sơ kết hôn đều không đặt ra vấn đề về mặt hành chính và yêu cầu đăng ký
được tiến hành một cách bình thường. Tuy nhiên, cơ quan quản lý hộ tịch cũng đã gặp
một số trường hợp kết hôn không tự nguyện, hay còn gọi là hôn nhân giả tạo.
Điều 146 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: "Không có hôn nhân khi không có sự tự
nguyện".
Luật ngày 26 tháng 11 năm 2003 về vấn đề nhập cư vào Pháp (hay còn gọi là Luật
Sarkozy) đã nhấn mạnh vai trò của công tác phỏng vấn hai vợ chồng ở mỗi giai đoạn
khác nhau của quá trình làm thủ tục kết hôn. Cơ quan lãnh sự có nhiệm vụ chủ động
tiến hành phỏng vấn nhằm xác minh ý định thực sự của hai vợ chồng.
Việc phỏng vấn được tiến hành riêng rẽ đối với người vợ và chồng. Từng người phải trả
lời các câu hỏi đặt ra. Sau khi kết thúc phỏng vấn, các nhân viên lãnh sự phải phối hợp
chặt chẽ với Bộ Tư pháp để xác định xem ý định của các bên có thực sự nghiêm túc
hay không hay phải chuyển hồ sơ lên Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm
để hủy bỏ. Theo quy định tại Điều 170 - 1 Bộ luật Dân sự, "trong trường hợp có căn cứ
cho phép suy đoán một hôn nhân được cử hành ở nước ngoài là vô hiệu, nhân viên
ngoại giao hoặc nhân viên lãnh sự phụ trách việc đăng ký kết hôn có nhiệm vụ thông
báo ngay cho Viện Công tố và hoãn việc đăng ký". Hiện nay, khoảng 10 hồ sơ đang
được xem xét. Năm 2004, một hồ sơ xin đăng ký kết hôn đã bị hủy bỏ.

Tại Hà Nội, việc tổ chức phỏng vấn, thường thông qua phiên dịch, cho phép cơ quan
lãnh sự xác định được ý định thực sự của các bên:
 Ý định kết hôn rõ ràng, chắc chắn
 Ý định xây dựng gia đình
Hoặc
 Mong muốn được làm việc tại công ty của một thành viên trong gia đình,
 Đoàn tụ gia đình đã định cư tại Pháp
 Có được quốc tịch Pháp và các lợi ích liên quan đến việc chuyển đổi quốc
tịch…
Ngoài ra, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đã tìm hiểu về Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ nước CH XHCN Việt Nam về "tăng cường quản lý Nhà nước đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" và hoan nghênh Chính phủ
Việt Nam đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề này. Tuy nhiên,
Đại sứ quán Pháp cũng nhận thấy rằng các cơ quan quản lý của Việt Nam trước đây
còn tương đối lơi lỏng trong công tác xác minh nhân thân khi tổ chức hôn lễ cho công
dân Việt Nam và công dân nước ngoài. Thực vậy, từ hè năm 2004, Đại sứ quán đã ghi
nhận được một trường hợp ủy quyền kết hôn. Cụ thể là công dân Pháp không trực tiếp
sang Việt Nam kết hôn mà ủy quyền cho một người khác. Trong khi đó, theo quy định
tại Điều 146-1 Bộ luật Dân sự Pháp, công dân Pháp khi đăng ký kết hôn, ngay cả khi
kết hôn ở nước ngoài, phải trực tiếp có mặt để làm thủ tục kết hôn. Đối với trường hợp
này, ngay khi có thông tin, Đại sứ quán đã tiến hành xác minh các giấy tờ về hộ tịch
được trình báo khi tiến hành đăng ký kết hôn. Viện trưởng Viện Công tố đã được cung
cấp các chứng cứ về sự hiện diện của đương sự tại Pháp và đã thụ lý hồ sơ. Hiện nay,
vụ việc này đang được giải quyết và chờ kết quả. Việc đăng ký kết hôn trước các cơ
quan có thẩm quyền ở cấp tỉnh, cụ thể là Ủy ban nhân dân tỉnh, cũng như phương
thức tiến hành kết hôn này này tất nhiên cũng không tránh khỏi tình trạng lộn xộn.
Chỉ thị này rất đầy đủ, bao gồm 8 phần và có dẫn chiếu đến Nghị định số 68/2002
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình. Chỉ thị cũng đề cập
đến một số vấn đề như: trung gian trong việc kết hôn với người nước ngoài; điều kiện
sống ở nước ngoài đối với các phụ nữ Việt Nam chưa chuẩn bị cho việc xuất cảnh;

đăng ký khai sinh cho trẻ có cha, mẹ kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan quản lý
hộ tịch của Việt Nam…

×