Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

VAI TRÒ tài CHÍNH CÔNG 2008 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.42 KB, 16 trang )

VAI TRÒ TÀI CHÍNH CÔNG 2008 – 2010
I. Tìm hiểu chung về tài chính công
Nhà nước ra đời mang tính chất khách quan nhưng tồn tại lại mang tính chất chủ
quan. Nhà nước có 2 chức năng chính là trấn áp bạo lực và tổ chức quản lí. Vai trò của
tài chính công luôn gắn liền với vai trò của nhà nước trong từng thời kì nhất định, tài
chính công là một trong các công cụ được nhà nước sử dụng nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ.
Khái niệm tài chính công được thể hiện qua 2 khía cạnh: hình thức và vật chất.
Xét về hình thức, tài chính công là các hoạt động thu, chi tiền tệ nhà nước gắn liền
với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tài chính công nhằm đáp ứng các nhu cáu thực
hiện chức năng của nhà nước trong việc cung cấp hành hóa công cho xã hội.
Xét về thực chất, tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế trong phân phối
nguồn tài chính quốc gia phát sinh giữa các cơ quan công quyền của nhà nước với các
chủ thể khác trong nền kinh tế nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
trong việc cung cấp hành hóa, dịch vụ công cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận.
Vai trò của tài chính công đối với nề kinh tế rất quan trọng. Cụ thể, vai trò của tài
chính công được xem xét trên hai phương diện là: đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động
của bộ máy nhà nước và điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội.
Đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà nước, là vai trò truyền
thống của tài chính công trong mọi mô hình kinh tế mà bất cứ quốc gia nào cũng đều
sử dụng tài chính công để phục vụ cho công việc quản lý, điều hành nền kinh tế - xã
hội. Đồng thời thông qua các hoạt động của tài chính công đã tạo nguồn tài chính một
cách kịp thời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước, giúp cho bộ
máy nhà nước được vận hành có hiệu quả.
Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội là vai trò đáng chú trọng hơn trong
cơ chế thị trường. Chính phủ các nước sử dụng tài chính công như một công cụ nhằm
khắc phục những thất bại của nền kinh tế thị trường như độc quyền, khoảng cách giàu
nghèo… Vai trò này được thực hiện qua hai công cụ: công cụ thuế và công cụ chi tiêu
1
công nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô
thực hiện công bằng xã hội đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội


Trong giai đoạn 2008 – 2010, vai trò tài chính công ở nước ta được thể hiện rõ
ràng nhất trong điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm ổn định kinh tế, hạn
chế đã suy giảm trước tác động của khủng hoảng toàn cầu đồng thời đưa đất nước dần
phục hồi sau khủng hoảng.
II-Vai trò của tài chính công ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2010
1. Tài chính công 2008
F Tình hình kinh tế
+) Trong nửa đầu năm, Việt Nam gánh chịu ảnh hưởng của tình trạng phát triển quá
nóng khởi nguồn từ dòng vốn vào ồ ạt. Kết quả là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương
mại, bong bóng bất động sản và giảm sút chất lượng đầu tư
+) Chịu tác động từ cuộc khủng hoảng KT thế giới 2007 - 2010
+) Các doanh nghiệp sản xuất gặp phải nhiều khó khăn
F Tình hình xã hội
+) Lạm phát những tháng đầu năm cao -> khó khăn cho nhân dân
+) Doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động. Vào tháng 7/2008,
tổng số người thất nghiệp ở thành thị tăng 2,7% so với năm 2007, đưa tỷ lệ thất nghiệp
của khu vực thành thị lên 4,7% so với 4,6% năm 2007. Con số người thất nghiệp, mất
việc làm và phải giảm giờ làm còn tăng cao hơn nữa trong nửa cuối năm 2008. Hơn
nữa, lạm phát cao càng làm giảm thu nhập thực của đa số dân cư và có tác động rất xấu
đến nhóm người nghèo, thu nhập thấp.
Để đảm bảo ổn định KT vĩ mô và an sinh xã hội chính phủ đã sử dụng TCC như một
công cụ hữu hiệu để tác động và nền kinh tế thông qua chính sách thuế và chi tiêu công
1.1. Chính sách thuế ( Điểu chỉnh tăng và giảm)
a) Điều chỉnh tăng
_ Điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu bằng mức trần tối đa theo cam kết
trong WTO của năm 2008 đối với các hàng hoá tiêu dùng không khuyến khích nhập
2
khẩu (ô tô nguyên chiếc, linh kiện và phụ tùng ô tô; một số mặt hàng điện tử, điện
lạnh, )
VD về việc điều chỉnh thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc

_ Điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu đối với hàng hoá là tài nguyên thiên nhiên,
khoáng sản (dầu thô, than đá, quặng kim loại…)
_ Điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ôtô con nguyên chiếc dưới 10 chỗ ngồi
b) Điều chỉnh giảm
_ Tiếp tục giảm thuế đối với khoảng 1.700 mặt hàng thuộc 26 ngành hàng khác nhau,
với mức giảm thuế từ 1 - 6% (chủ yếu là 2 - 3%).
_ Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hàng thiết thực phục vụ
sản xuất (clinke, một số mặt hàng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, giấy in
báo…)
_ Giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế đối với các đơn vị sản xuất - kinh doanh hoạt
động chế biến hàng XK
_ Rà soát, bãi bỏ một số khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân không
còn phù hợp, giảm đóng góp của nhân dân trong điều kiện giá cả tăng
è GIảm giá nguyên liệu đầu vào -> Giảm giá thành sản phẩm
è GIảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp trong đk kinh tế trong nước và thế
giới gặp phải nhiều khó khăn
è Giảm gánh nặng thuế cho người dân
1.2. Chi tiêu tài chính công.
v Cắt giảm 10% chi thường xuyên của các cơ quan Nhà nước ( trừ chi lương) và
giảm 25% tổng vốn đầu tư vào các dự án tài trợ bằng trái phiếu chính phủ.
- Nội dung:
Theo chỉ đạo, việc cắt giảm 10% chi tiêu sẽ tập trung vào các nội dung chính như: tạm
dừng mua sắm ôtô công, tài sản có giá trị lớn, sửa chữa trụ sở làm việc; hạn chế tối đa
các khoản chi hội nghị, hội thảo, lễ hội, đi công tác trong và ngoài nước bằng ngân
sách; tiết giảm tối thiểu 10% trong sử dụng điện, nước, điện thoại; ngừng các khoản
chi cho nhiệm vụ chưa cấp bách và nội dung không thiết thực.
3
Đối với nguồn vốn trái phiếu chính phủ, các bộ, ngành và địa phương sẽ phải rà
soát lại việc phân bổ và xác định nhu cầu vốn trong năm 2008. Trên cơ sở đó, Bộ Kế
hoạch - Đầu tư sẽ xây dựng phương án cắt giảm khoảng 25% kế hoạch vốn đầu tư từ

nguồn vốn trái phiếu chính phủ năm 2008.
- Kết quả: Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng
Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo của
Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản liên
quan đến người lao động).
Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã
hội; phòng, chống khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác.
v Rà soát lại danh mục các dự án đầu tư bằng vốn Nhà nước và không tăng
tổng vốn đầu tư
- Nội dung:
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương sẽ đình hoãn khởi công các dự án
không có trong quy hoạch được phê duyệt, chưa đủ thủ tục, chưa giải phóng mặt bằng
hoặc còn nhiều vướng mắc về thủ tục. Ngừng triển khai các dự án chưa thực sự cấp
bách, không mang lại hiệu quả. Đình hoãn các dự án xây dựng trụ sở các cơ quan, xây
dựng hội trường, bảo tàng, nhà văn hóa đã có kế hoạch năm 2008 nhưng chưa khởi
công. Thực hiện giãn tiến độ các dự án: đã được duyệt hoàn thành đưa vào sử dụng
năm 2007 trở về trước nhưng bố trí vốn không đủ tiến độ mà đến hết năm 2007 số vốn
bố trí chưa được 50% khối lượng dự án; các dự án còn vướng mắc trong thủ tục đầu tư,
giải phóng mặt bằng.
Các bộ, ngành và địa phương không thực hiện rà soát sẽ không được tạm ứng
vốn. Số vốn có được từ các biện pháp này sẽ được chuyển cho các dự án có hiệu quả,
cấp bách, hoàn thành trong năm 2008 - 2009.
- Kết quả: Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình
Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sử dụng vốn từ
nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các Bộ,
ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án đình
4
hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là
1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng.
Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước

là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng.
v Tăng cường thu hút và giải ngân ODA
- Nội dung:
Năm 2008, Bộ Tài chính đã tiến hành thẩm định và phê duyệt cho 08 dự án. Các
dự án này hỗ trợ cho Bộ Tài chính trong lĩnh vực: quản lý doanh nghiệp, quản lý nợ,
phân tích chính sách tài chính, quản lý rủi ro hải quan, nâng cao năng lực, hậu WTO,
quản lý thuế và quản lý giá.
Tình hình đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA:Tổng vốn đầu tư
của 08 dự án này gần 10 triệu USD, quy đổi ra là gần 141 tỷ VNĐ (trong đó vốn ODA
viện trợ không hoàn lại gần 9 triệu USD).
- Kết quả: Tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA năm 2008
Năm 2008, Bộ Tài chính tiếp nhận thêm 08 dự án mới, kết thúc 01 dự án, đưa
tổng số dự án đang thực hiện lên 25 chương trình, dự án với tổng giá trị cam kết lên
đến gần 248 triệu USD (trong đó 203 triệu ODA vay và 45 triệu ODA không hoàn lại).
Các dự án của Bộ Tài chính chủ yếu là dự án có quy mô vừa (10 dự án) và nhỏ (11 dự
án).
Biểu đồ 2.1 - Số lượng dự án theo quy mô vốn
5
Các dự án do nước ngoài tài trợ cho Bộ Tài chính tập trung hỗ trợ cho các lĩnh
vực quản lý thu NSNN (64%), quản lý chi NSNN (26%), quản lý nợ, lĩnh vực bảo
hiểm….
Hình 2.2: Biểu đồ phân loại theo lĩnh vực
Phân loại dự án theo loại hình tài trợ thì số lượng các dự án do các Tổ chức tài
chính quốc tế và tổ chức quốc tế tài trợ (11 dự án) gần tương đương với số lượng dự án
do các song phương (12 dự án). Tuy nhiên, quy mô vốn thì hoàn toàn khác biệt (dự án
do TCTCQT và TCQT chiếm tỷ lệ cao nhất và chủ yếu nhất (88%)
Tóm lại, có thể nói, những kết quả đạt được trong thu hút và sử dụng ODA của
Việt Nam trong năm qua đã cho thấy cộng đồng tài trợ quốc tế đã khẳng định sự đồng
tình và ủng hộ chính sách ngoại giao mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá của Việt
Nam. Đồng thời, việc tiếp nhận và sử dụng ODA đã góp phần tăng cường và củng cố

vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác góp phần quan trọng cho tổng đầu
tư toàn xã hội, chiếm khoảng 12-13%. Song điều quan trọng hơn cả là nguồn vốn ODA
đã được tập trung để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, góp phần tạo lập môi
trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu vực tư nhân nhằm xoá đói
giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
6
Bên cạnh những kết quả khả quan trong thu hút và sử dụng ODA thì vẫn còn một
số yếu kém:
Thứ nhất, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nêu trên song có thể thấy tỷ
lệ giải ngân ODA của Việt Nam còn thấp so với mức trung bình của khu vực.
Thứ hai, các văn bản pháp quy về ODA chưa được thực hiện đầy đủ; Chất lượng
văn kiện chương trình, dự án chưa cao; Năng lực nhà thầu/tư vấn không đáp ứng được
yêu cầu công việc; Cơ chế bố trí vốn đối ứng giữa Trung ương và địa phương chưa phù
hợp; Năng lực tổ chức và quản lý ODA ở cấp địa phương còn nhiều hạn chế; Cơ chế
phối hợp giữa Ban QLDA Trung ương và Ban QLDA của địa phương chưa chặt chẽ;
Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động, kế hoạch chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện
dự án của các Sở, ngành, Ban QLDA địa phương thường chậm và bị động; Sự khác
biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ, đặc biệt trong lĩnh vực đấu
thầu, chính sách về an sinh xã hội làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân; Thay đổi
quy hoạch ở địa bàn nơi thực hiện dự án là một trong những nhân tố đã tác động không
nhỏ đến tiến độ của dự án
§ Thường xuyên rà soát, kiểm tra chi tiêu vay nợ của các DNNN
§ Đề xuất quy định mới về quản lí tài chính của các DNNN, trong đó yêu cầu DNNN
tập trung vào lĩnh vực kinh doanh và các khoản đầu tư của DNNN vào ngân hang và
chứng khoán phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt trong 2008 nhà nước có chính sách tiền lương cho người nghỉ hưu và CNV
thu nhập thấp. Cụ thể:
† Ngày 12/9/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định 101/2008/NĐ-CP điều chỉnh tăng
lương hưu nói chung và trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã,
phường đã nghỉ việc thêm 15% từ ngày 1/10 tới.

† Cũng từ ngày 1/10/2008, dự kiến sẽ áp dụng trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công
chức, viên chức và người hưởng lương thuộc LLVT có mức thu nhập thấp (hệ số lương
từ 3,0 trở xuống) với mức trợ cấp 270.000 đồng/người/quý
2. Tài chính công 2009
F Tình hình KT – XH
7
+) Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế
thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường
vốn, thị trường lao động
+) việc thực thi chính sách kích thích kinh tế, ở một chừng mực nhất định nào đó, sẽ
gây áp lực làm tăng lạm phát và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội
khác của nước ta
Chính phủ đã sử dụng công cụ tài chính công như thế nào để giảm tốc độ theo đà suy
thoái kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội?
2.1. Những chính sách điều chỉnh thuế 2009
( Chính sách thuế 2009 có thay đổi đáng kể so với các năm trước được thể hiện cụ thể
nhất qua 3 loại thuế:
+) Thuế TNCN
+) Thuế TNDN
+) Thuế VAT
a) Thuế thu nhập DN
_ Giảm thuế suất thuế TNDN từ 28% xuống 25%.
_ Giảm 30% thuế TNDN cho các DNVN
_ Giãn nộp thuế TNDN trong 9 tháng cho 1 số DN
è Giảm bớt gánh nặng thuế cho DN, tạo đk cho DN tập trung vốn vào phục vụ
sản xuất.
b) Thuế thu nhập cá nhân
+) Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các khoản thu nhập chịu thuế
Kể từ năm 2009, thu nhập chịu thuế không chỉ gói gọn trong thu nhập từ tiền lương,
tiền công, mà còn bao gồm thu nhập từ đầu tư chứng khoán, đầu tư vốn, chuyển

nhượng vốn, thừa kế, quà tặng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tiền bản quyền tác
giả… Những thay đổi này không chỉ giúp thuế TNCN của Việt Nam phù hợp với thông
lệ quốc tế, mà còn góp phần bù đắp phần nào sự giảm về số thu ngân sách nhà nước từ
thuế gián thu, chẳng hạn như thuế nhập khẩu do thực hiện các cam kết quốc tế sau khi
gia nhập WTO.
8
+) Hoãn huế thu nhập cá nhân trong vòng 6 tháng ( bắt đầu từ 6/2/2009)
c) Thuế giá trị gia tăng
+) Thu hẹp từ 28 xuống còn 25 nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế VAT.
+) Giảm 50% thuế VAT cho một số HHDV và hàng NK
+) Áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với các dịch vụ xuất khẩu, mà không cần
thiết là phải có điều kiện tiêu thụ ngoài Việt Nam như trước đây
2.2. Chính sách chi tiêu công
Chính phủ đưa ra gói cứu trợ nhằm trị giá 8 tỷ USD nhằm giải quyết cấp thiết các vấn
đề trước mắt đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội
a) Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô
Đáng chú ý nhất là việc chính phủ hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp: với tổng trị giá
17000 tỷ đồng. Động thái này có tác động tích cực về cả 2 phía doanh nghiệp và hệ
thống ngân hàng.
+) Đối với DN: như một chiếc phao cứu sinh làm gia tăng tức thời lòng tin của các
doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm và
quyền năng của Nhà nước trong giải cứu các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng
như vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước. Đồng thời “Gói kích
cầu” còn trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với
chi phí rẻ hơn, từ đó góp phần giảm giá, tăng cạnh tranh và tăng tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ trên thị trường, có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần
giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
+) Đối với hoạt động ngân hàng, “gói kích cầu” còn giúp các ngân hàng cải thiện hoạt
động huy động và cho vay tín dụng do không phải hạ thấp lãi suất huy động, vừa mở
rộng đầu ra nhờ không phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị

trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng trong khi gia tăng
dòng tiền bơm vào thị trường là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và
gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội.
b) An sinh xã hội
3. Tài chính công 2010
9
Năm 2009 được đánh giá là đáy của suy thoái kinh tế thế giới -> Tin tốt lành cho nền
kinh tế 2010
Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực từ các chính sách TCC 2009 đến nền
kinh tế, các chính sách đã bộc lộ một số điểm hạn chế như viêc: sự lạm dụng, thiếu
kiểm soát và sử dụng không hiệu quả các “gói các kích cầu” sẽ có thể gây ra một số hệ
lụy tiêu cực nặng nề khó đo lường, như: Làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay,
gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” , lạm phát…
*) Chính sách thuế trong năm 2010 nổi bật với 3 lần giảm thuế nhập khẩu xăng
§ Từ ngày 21/4/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm từ 20% xuống 17%, thuế
nhập khẩu các loại dầu giảm từ 15% xuống 10%.
§ Từ ngày 1/12/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm từ 17% xuống 12%, thuế
nhập khẩu dầu giảm từ 10% xuống còn 5%.
§ Từ ngày 22/12/2010, thuế nhập khẩu xăng giảm còn 6% từ mức 12%
trước đó, thuế nhập khẩu dầu giảm còn 2% từ mức 5% trước đó.
*) Về chính sách chi tiêu tài chính công
+) Tăng lương cơ bản
+) Trợ giá cho các mặt thiết yếu như một số hàng tiêu dùng, xăng dầu, điện…( và trích
lập các quỹ bình ổn giá). Theo kết quả kiểm toán tại 10 doanh nghiệp kinh doanh xăng
dầu, năm 2010 số phải trích là 4,583,753 triệu đồng
+) Các chính sách trợ cấp được tăng cường. Chính sách trợ giú người có công và bảo
trợ xã hội tiếp tục được hoàn thiện, đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và tăng mức trợ
cấp. Nhà nước dành hơn 19000 tỷ đồng (tăng 17% so với năm 2009) để thực hiện
chính sách cho hơn 1.4 triệu người công với cách mạng; dành 4500 tỷ đồng (gấp hơn 2
lần so với năm 2009) để thực hiện trợ cấp thường xuyên cho hơn 1.6 triệu người. Dư

nợ cho vay ưu đãi để thực hiện các chính sách xã hội là 91000 tỷ đồng , tăng 25% so
với năm 2009, riêng dư nợ tín dụng cho hơn 1.9 triệu học sinh, sinh viên là 29000 tỷ,
tăng 60%.
( VD thêm về vvs TP HCM trợ giá xe buyt 700 tỷ
Hà Nội : 339 tỷ)
10
II. Kết quả đạt được 2008 – 2010
Nghiên cứu và phân tích các biểu đồ
1.1. Chỉ số GDP, CPI, Xuất khẩu, Đầu tư.
Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế nước ta đã
sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP cả năm 2010
tăng khoảng 6,7%. Khu vực nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp và xây dựng tăng
7,6%, dịch vụ tăng 7,5% GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.160 USD
(tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 7%/năm).
Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng khoảng
41% GDP.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán và tăng
17,6% so với năm 2009
11
Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước
ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong
giới hạn an toàn
1.2. Thu hút vốn FDI
Do vẫn còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới,
thu hút FDI đạt 18,6 tỉ USD, giảm 19,5% so với mức 23,1 tỉ USD của năm 2009,
không đạt mục tiêu thu hút 22 – 25 tỉ USD trong năm 2010. Điểm sáng nhất trong thu
hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm trước và chỉ
cách kỉ lục của năm 2008 là 500 triệu USD; nhóm ngành sản phẩm chế biến vươn lên
dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD đăng kí và giúp số dự án nhóm này tăng gần gấp rưỡi.
Đây được đánh giá là tín hiệu tốt đối với nền kinh tế trong việc thu hẹp thâm hụt

thương mại trong tương lai.
Tuy nhiên với những kết quả đạt đc, công tác quản lí TCC còn xuất hiện nhiểu yếu
kém mà chứng minh tốt nhất là vụ vinashin 2010
Nguyên nhân:
12
1. Tình trạng “nước chảy chỗ trũng” là một trong những bất cập của chính
sách chi tiêu công.
Năm 2005 Vinashin được Nhà nước cho vay 750 triệu USD lấy từ nguồn 1tỷ USD Nhà
nước vay được từ hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế. Năm 2007, khoản vay 600
triệu USD của Vinashin tuy không có bảo lãnh của Chính phủ nhưng nhờ có “thư hậu
thuẫn” nên đã được vay với lãi suất thấp. Tuy nhận được nhiều khoản vay, nhưng hoạt
động đầu tư của Tập đoàn lại mang lại hiệu quả không cao. Mức đóng góp vào tăng
trưởng thấp, chưa tương xứng. Ngày 1/11/2011 Vinashin đã chính thức bị Công ty
Elliot VIN (Hà Lan) khởi kiện lên tòa án tại Anh, liên quan đến khoản nợ 600 triệu đô
la vay bằng trái phiếu. 60 triệu đô la từ khoản vay này đã đến hạn trả nợ từ tháng
12/2010 nhưng Vinashin và các công ty con không có khả năng thanh toán đưa
Vinashin đến bờ vực phá sản.
2. Tình trạng bao che, biện hộ
Từ năm 2006 đến 2009, tập đoàn này đã qua 11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra
nhưng vẫn không phát hiện đầy đủ, kết luận đúng tình hình yếu kém để có biện pháp
ngăn chặn kịp thời. Theo Tổng kiểm toán viên Nhà nước bấy giờ là ông Vương ĐÌnh
Huệ, đã 2 lần KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán với tập đoàn này nhưng chưa thực
hiện được để tránh trùng lặp với công tác kiểm tra của Thanh tra Chính phủ. Công tác
thanh kiểm tra ở một tập đoàn lớn như Vinashin đã không được chú trọng đúng mức và
gây nên hậu quả to lớn sau này.
Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin về vụ Vinashin cho bài thuyết trình của
mình!
Tài chính công và vụ Vinashin
Xem tin gốc
Tuổi Trẻ - 20 tháng trước 130 lượt xem

TTCT - Không thể không quan tâm đến thông tin từ Văn phòng Chính phủ hôm 18-9:
Bộ Tài chính được lệnh “xử lý” đề nghị của Vinashin về việc sử dụng 300 triệu USD từ
13
nguồn trái phiếu quốc tế năm 2010 để tập đoàn có nguồn trả nợ cho Ngân hàng
Natixis.
Nôm na mà nói, chuyện này có nghĩa là lấy 300 triệu USD mới vay được năm nay qua
phát hành trái phiếu quốc tế để bắt đầu trả món nợ mà Vinashin vay năm 2005. Nhìn ra
khỏi khuôn khổ vụ Vinashin, việc lấy vay mới trả nợ cũ là một việc bất đắc dĩ mong
rằng đừng tái diễn, vì những tác động bất lợi không tránh khỏi.
Vẫn nên “ôn cố”
Biết rằng tổng vốn mà Chính phủ bảo lãnh cho Vinashin vay năm 2005 là 750 triệu
USD, với lãi suất 7,125%/năm, tiền lãi năm đầu đã hơn 53,43 triệu USD. Nếu tính năm
năm qua, tiền lãi phải trả (chưa tính lãi gộp) hơn 53,43 triệu USD/năm nhân với năm
năm, tức 267,15 triệu USD. Nếu tính lãi gộp thì 300 triệu USD trái phiếu mới vay
được năm nay đem ra vừa đủ để trả lãi, chưa tính đến trả vốn. Và nếu tính đến khi đáo
hạn vào năm 2015, sẽ còn bao nhiêu tiền lãi bên cạnh 750 triệu USD vốn phải trả: tối
thiểu sẽ thêm 1 tỉ USD nữa, cả vốn lẫn lãi
Ngay từ khi Vinashin mới được bảo lãnh vay (năm 2005), Tuổi Trẻ Cuối Tuần đã tính
toán số lãi phải trả này và cảnh báo: “Ở góc độ người dân thường, không thể không đặt
câu hỏi: lãi suất 7,125%/năm, vay 750 triệu USD trong 10 năm, trả lãi bao nhiêu? Thời
gian như tên bắn. Cuối tháng 3 này, các chủ nợ ở New York đã lãi khoảng trên 26
triệu USD sau sáu tháng, nếu tính hết thời hạn cho vay 10 năm, số lãi phải trả sẽ là 536
triệu USD (lãi đơn). Bất cứ ai mua nhà trả góp chỉ với 1%/năm đều có thể kiểm
nghiệm bằng thực tế trả lãi của mình”.
Một tuần sau đó, mục “Thời sự & suy nghĩ” của Tuổi Trẻ khuyến cáo thêm: Cú sốc
“mỗi năm trả nợ 2 tỉ USD” đã lan khắp bề mặt báo chí trong tuần qua. Điều đó cho
thấy công luận và công chúng quan tâm đến đất nước như thế nào. Hãy nhìn thấy nơi
làn sóng quan tâm đó một vận hội tích cực: vận hội “thật sự liêm chính cần kiệm”. Hãy
nương theo làn sóng ý dân muốn “sạch” đó để thật sự làm sạch bộ máy. Từ đó, hãy
14

khởi sự một ý thức mới “chúng ta đang nợ, hãy sống, làm việc, sử dụng nợ như là
những con nợ chứ đừng như là các chủ nợ!”.
Tiếc là những khẩn khoản đó đã không được chú ý đúng mức. Và tiền vay đã vào rồi ra
khỏi Vinashin như gió vào nhà trống, hậu quả nhãn tiền ngày nay.
để “tri tân” cho sát
Cho đến buổi chất vấn chiều 10-6-2010 của Quốc hội, những thông tin về số nợ đó của
Vinashin đã được sử dụng ra sao vẫn hiếm hoi như lá mùa thu. Ngay cả khi đại biểu
Quốc hội Vũ Quang Hải chất vấn Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Hồ Nghĩa Dũng về
vụ thua lỗ của con tàu Hoa Sen của Vinashin, vấn đề nợ của Vinashin cũng chỉ gói gọn
ở con tàu bất hạnh này. Gọi là “bất hạnh” vì theo giải thích của bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải, Vinashin vừa mua con tàu đó xong thì rơi ngay vào cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, thị phần vận tải hàng hải thế giới - chứ không phải riêng chúng ta -
giảm mạnh, giá cước vận tải còn giảm tới 100 lần
Đối với Bộ Giao thông vận tải lúc đó, Vinashin có thua lỗ là do gặp vận xui, mua tàu
không đúng lúc, chứ việc mua con tàu đó là đúng đắn: “Mục tiêu là vận chuyển hành
khách và vận chuyển hàng hóa, hàng hóa ở đây cụ thể là ôtô theo tuyến Bắc - Nam.
Đứng về mặt phù hợp với quy hoạch, chúng tôi cho rằng quy hoạch phát triển vận tải
hàng hải cũng khuyến khích các doanh nghiệp tìm phương án tổ chức để vận tải chủ
yếu là hàng hóa và hành khách trong tuyến ngắn, hàng hóa ở tuyến Bắc - Nam. Mục
tiêu là phát triển vận tải hàng hải tuyến Bắc - Nam để chia sẻ bớt áp lực đối với vận tải
đường bộ Đấy là một chủ trương chung, có định hướng như vậy và Vinashin đi theo
định hướng này cũng là một suy nghĩ, theo tôi, có hợp lý của nó”. (*)
Trên một bình diện khác, cuộc chất vấn và trả lời chất vấn chiều 10-6 ấy cho thấy vấn
đề quan tâm là con tàu Hoa Sen có giá 1.300 tỉ đồng, chứ chưa nghe nhắc đến tổng nợ
của Vinashin là bao nhiêu. Thành ra, thông báo “tái cơ cấu” Vinashin cùng tổng số nợ
hơn 80.000 tỉ đồng mới như “sét đánh ngang tai” đối với không ít người.
15
Vậy mà chỉ ít lâu sau khi lãnh đạo số một của Vinashin là ông Phạm Thanh Bình bị
đình chỉ chức vụ rồi bị bắt, thậm chí từ đầu tháng 7, báo chí đã có thể tuôn ra hết loạt
bài “phanh phui” này đến “hồ sơ” khác. Thông tin về các sai phạm của ông này cứ như

núi, ngang với số nợ; cứ như thể báo chí đã nắm vụ Vinashin tường tận chân tơ kẽ tóc
từ thuở nào. Nếu nhớ lại buổi chất vấn trước đó một tháng của đại biểu Quốc hội Vũ
Quang Hải, rõ ràng là đại biểu Quốc hội “hiểu biết chuyện” này (để có thể chất vấn)
chỉ nói đến có “một móng tay” của vụ Vinashin. Câu hỏi đặt ra: Làm thế nào mà trước
đó là cực ít thông tin, còn sau khi nội vụ vỡ lở lại là cơn lũ thông tin?
Đó mới chính là vấn đề cần đặt ra để hi vọng tránh các “vụ Vinashin” khác. Một công
ty niêm yết thị trường chứng khoán, để thật sự được đánh giá là đáng tin cậy, phải
được kiểm toán độc lập ra sao, cáo bạch hằng năm như thế nào thì tại sao Vinashin lại
không phải làm như thế? Một con nợ ngân hàng bị giám sát như thế nào thì tại sao
Vinashin lại không được giám sát như thế?
Câu trả lời chất vấn của bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải: “Chúng tôi là một bộ, là
quản lý nhà nước về chuyên ngành kỹ thuật. Về những vấn đề những dự án tương tự
như vậy thì bộ không có quyết định. Nhưng sau khi nghe thông tin về những tình hình
khó khăn và công ty còn định đầu tư tiếp thì vấn đề này bộ đã phát hiện và đình chỉ, đã
yêu cầu công ty phải xem xét lại phương án làm ăn và không được tiếp tục thực hiện.
Hiện nay doanh nghiệp đang xây dựng một vài phương án để xử lý về vấn đề này, tuy
nhiên cụ thể thì chúng tôi chưa được báo cáo” (**) cho thấy Vinashin được quản lý
như thế nào. Năm năm qua, “con nợ” Vinashin đã có lần nào cáo bạch với bất cứ ai?
Với người dân đóng thuế trả nợ thay?
16

×