Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế ESTIMATING RENMINBI (RMB) EQUILIBRIUM EXCHANGE RATE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.91 KB, 14 trang )

0

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP



Lớp CHK23_TC05
NHÓM 1
MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ESTIMATING RENMINBI (RMB) EQUILIBRIUM
EXCHANGE RATE
Wang Yajie, Hui Xiaofeng, Abdol S. Soofi
Người hướng dẫn khoa học:
Đinh Thị Thu Hồng






Năm học: Tháng 10/2014
1

Danh sách nhóm :
1) Nguyễn Huy Hiển
2) Nguyễn Đăng Thanh
3) Hồ Lâm Thanh Thảo
4) Lê Thị Kim Tú

2



Tóm tắt
Người ta nói rằng biện pháp can thiệp thị trường tiền tệ của Trung Quốc đã
gây ra sự mất cân bằng thương mại lớn trong ưu thế của Trung Quốc. Nếu không
có một ước tính chính xác về giá trị cân bằng NDT trong dài hạn, tuy nhiên, giá trị
này được tuyên bố không được xác định chắc chắn. Bài viết này nhằm mục đích để
các cuộc tranh luận về mức độ sai lệch RMB trong khuôn khổ dễ xử lý bằng cách
ước tính tỷ giá hiệu quả thực sự cân bằng dài hạn của tiền tệ. Dựa trên ước tính của
tỷ giá cân bằng hành vi (BIA) và sử dụng Johansen đồng liên kết, chúng tôi kết
luận rằng NDT dao động xung quanh mức cân bằng dài hạn của nó trong một biên
độ hẹp. Điều này ngụ ý rằng tỷ giá không được đánh giá thấp một cách nhất quán.
Chúng tôi xác định việc cung tiền, dự trữ cổ phiếu ngoại của ngân hàng Trung
ương Trung Quốc, và một biện pháp đo lường năng suất của Trung Quốc như là
các biến giải thích quan trọng về giá trị cân bằng NDT trong dài hạn. Một cuộc
thảo luận về ý nghĩa của các kết quả thực nghiệm này, nghiên cứu chỉ ra các chính
sách tỷ giá của Trung Quốc có thể đã đóng một vai trò không đáng kể trong thặng
dư thương mại của nó trong một biên độ hẹp.
@ 2007 Hiệp hội mô hình chính sách. Xuất bản hởi Elsevier Inc, Tất cả đã niêm
phong
1. Giới thiệu
Chính sách tỷ giá của Trung Quốc đã nổi lên như một vấn đề tranh cãi lớn
giữa CHDCND Trung Hoa và Hoa Kỳ, trong thời gian gần đây. Cuộc tranh cãi
được thúc đẩy bởi việc Trung Quốc ghìm giá NDT so với USD. Kể từ sau khi đồng
NDT giảm giá mạnh vào năm 1994, tỷ giá hối đoái của đồng tiền này so với USD
vẫn ít nhiều không thay đổi cho đến giữa tháng 7 năm 2005, và đã dao động trong
một biên độ rất hẹp 8.11 NDT = 1 USD kể từ đó.
Trong hầu hết các giai đoạn từ năm 1994 đến thời điểm viết bài này, Mỹ đã
trải qua sự mất cân bằng thương mại lớn với Trung Quốc. Sự kết hợp của việc neo
giữ tỷ giá đồng NDT với USD và thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã
tạo ra một cuộc tranh cãi về mối quan hệ thương mại Trung-Mỹ, một số trung tâm

có tầm ảnh hưởng ở Mỹ cho rằng Trung Quốc đã cố tình định giá thấp đồng tiền
của mình so với đồng USD với các can thiệp trong thị trường. Mặc dù sự đánh giá
thấp tỷ giá không được biết chính xác, nhưng ước chừng sự chênh lệch (thấp hơn)
của NDT dao động từ 0-60% (xem, ví dụ, Coudert & Couharde, 2005).
Mặc dù không chắc chắn liên quan đến sự tồn tại và đánh giá thấp quy mô
đồng NDT, các nhà phê bình yêu cầu bồi thường chính sách tỷ giá của Trung Quốc
neo giữ tỷ giá đồng NDT với USD đã dẫn đến sự mất cân bằng thương mại lớn đã
đem lại lợi nhuận cho Trung Quốc (hơn 202 tỉ USD trong năm 2005). Trung Quốc,
mặt khác, trả lời rằng giá USD hiện tại so với đồng NDT phản ánh một sự khác
biệt năng suất giữa Mỹ và Trung Quốc, và rằng tỷ giá danh nghĩa NDT - USD hiện
nay rất thấp, nếu có, chỉ ảnh hưởng đến sự cân bằng hiện tại của thương mại giữa
hai nước. Hơn nữa, dựa trên lý thuyết kinh tế, đó là tuyên bố rằng bất kỳ sự gia
tăng giá trị chính thức do đồng NDT sẽ chỉ có một tác động tích cực tạm thời về
cán cân thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc (xem Higgins & Humpage, 2005).
3

Rõ ràng, căn cứ vững chắc xoay quanh những lập luận tương ứng theo định
nghĩa về cân bằng tỷ giá NDT-USD. Mà không biết đánh giá dài hạn, cân bằng tỷ
giá NDT-USD, xác minh liệu giá trị NDT cao hay thấp có khá nhiều vấn đề. Để
giúp đặt các cuộc tranh luận trong một khung cảnh dễ kiểm soát, trong bài báo này,
mục đích chúng tôi nhằm để đánh giá tỷ giá NDT-USD trong trạng thái cân bằng
dài hạn. Hơn nữa, chúng tôi sẽ thảo luận về tác động chính sách của các kết quả
thực nghiệm về công tác này.
Cụ thể, chúng tôi sử dụng phương pháp xác định tỷ giá hối đoái cân bằng
(BEER), trong việc đánh giá tỷ lệ cân bằng đồng NDT bằng cách sử dụng dữ liệu
hàng năm trong giai đoạn 1980-2004. Chúng tôi dự báo BEER dựa trên phương
pháp tối đa khả năng đồng liên kết Johansen, xác định các mô hình sửa sai, và lọc
dữ liệu bởi bộ lọc Hodrick-Prescott (bộ lọc HP) để loại bỏ ngắn hạn và các hiệu
ứng ngẫu nhiên trên các dữ liệu đánh giá BEER.
Bài viết này được thiết lập như sau. Trong phần 2, chúng tôi đưa ra một báo

cáo ngắn hạn về chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong 20 năm qua. Trong phần
3, chúng tôi xem xét, ở hiện tại, rất nhiều tài liệu của các nghiên cứu đang giải
quyết về đánh giá đồng NDT. Phần 4 giải quyết lý thuyết về tỷ giá hối đoái cân
bằng. Trong phần 5, chúng tôi thảo luận về các lựa chọn biến để đưa vào mô hình
tỷ giá cân bằng dài hạn. Phần 6 giải quyết kinh tế lượng theo chuỗi thời gian thử
nghiệm đơn vị gốc, các đồng liên kết, mô hình sửa lỗi, và trình bày các kết quả
thực nghiệm. Trong phần 7, chúng tôi thảo luận về tác động chính sách của các kết
quả thực nghiệm. Cuối cùng, tại phần 8, chúng tôi trình bày một bản tóm tắt và
một số nhận xét kết luận.

2. Chính sách tỷ giá hối đoái gần đây của Trung Quốc:
Trước năm 1978, chính sách tỷ giá của Trung Quốc chủ yếu được xác định
bằng lợi ích chiến lược của quốc gia, và được hình thành trong bối cảnh căng
thẳng, tình trạng khắc nghiệt của chiến tranh lạnh mà các nhà lãnh đạo mới của
Trung Quốc phải đối mặt. Với sự khởi đầu của cải cách kinh tế ở Trung Quốc, các
chức năng của thị trường ngày càng được đánh giá cao bởi các nhà làm chính sách,
và từ năm 1981, một hệ thống tỷ giá hối đoái kép xuất hiện, theo đó, tỷ giá hối đoái
cố định chính thức được bổ sung với thị trường quyết định tỷ giá hối đoái tại các
trung tâm giao dịch.
Năm 1988, các trung tâm giao dịch đã được thành lập để giao dịch của các
nhà xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh tiền tệ và các đơn vị khác được tập trung.
Trước khi thành lập những trung tâm giao dịch, các đại lý trao đổi ngoại tệ trên thị
trường tỷ giá hối đoái bị phân mảnh. Trong đầu những năm 1990, tỷ giá thị trường
hoán đổi mất giá mạnh và tỷ giá chính thức trở nên định giá quá cao. Năm 1994, tỷ
giá chính thức đã được giảm giá theo tỷ giá thị trường quyết định giao dịch, từ 5,8
NDT / USD lên 8,7 NDT / USD, và chế độ tỷ giá hối đoái chính thức được định
nghĩa là một hệ thống quản lý nổi. Tỷ lệ mới vẫn ít nhiều ổn định cho đến 21 tháng
7 năm 2005, khi Trung Quốc định giá lại đồng NDT tăng 2,1% lên 8,11 NDT = 1
USD, và công bố rằng nó sẽ chuyển từ việc neo giữ tỷ giá đồng nội tệ với USD
4


sang chính sách neo giữ tỷ giá đồng nội tệ với nhiều đồng ngoại tệ mạnh khác, và
cho phép đồng tiền thả nổi linh hoạt hơn.

3. Tài liệu nghiên cứu:
Có rất nhiều các nghiên cứu đánh giá tỷ giá hối đoái cân bằng NDT; Tuy
nhiên, các kết quả liên quan đến sai lệch của đồng tiền là hỗn hợp tốt nhất. Trong
phần tiếp theo, chúng tôi trình bày các kết quả của một số nghiên cứu.
Các nghiên cứu NDT cân bằng dài hạn có thể được phân thành hai loại. Đầu
tiên, một tập hợp các nghiên cứu dựa trên lý thuyết sức mua tương đương (PPP).
Thứ hai, một tập hợp các nghiên cứu nhằm mục đích để đánh giá tỷ giá cân bằng
NDT bằng cách sử dụng cấu trúc mô hình kinh tế lượng dựa trên nền tảng kinh tế.
Những mô hình này đi theo nhiều loại chỉ số như tỷ giá hối đoái cân bằng (BEER),
tỷ giá cân bằng cơ bản (FEER), tỷ giá cân bằng vĩnh viễn (PEER), và tỷ lệ cân
bằng giá hối đoái thực (ERER). Các nghiên cứu sử dụng phương pháp PPP đánh
giá tỷ lệ cân bằng NDT gồm có Yu Qiao (2000), Yang và Dou (2004). Cả hai
nghiên cứu đều cho thấy NDT không bị định giá thấp. Funke và Rahn (2005),
Coudert và Couharde (2005) sử dụng cả hai cách tiếp cận PPP cũng như cách tiếp
cận kinh tế cơ bản đánh giá sai lệch của đồng NDT. Funke và Rahn không thấy có
sự định giá thấp giá trị của đồng tiền, trong khi Coudert và Couharde (2005) thấy
có sai lệch khoảng 43-50% của NDT so với USD. Goh và Kim (2005) thử nghiệm
sai lệch của đồng NDT sử dụng nền tảng kinh tế và phương pháp đồng liên kết và
không thể tìm thấy bất kỳ bằng chứng về sự định giá thấp của đồng NDT.

4. Tỷ giá hối đoái cân bằng:
Ở các phân tích tiếp theo, đó là sự hữu ích để có các mô tả rõ ràng của các
phương pháp khác nhau về tỷ giá hối đoái cân bằng.
Chúng tôi bắt đầu với cuộc thảo luận về tỷ giá hối đoái cân bằng cơ bản
(FEER). FEER không chỉ xác định tỷ giá hối đoái thực mà còn là phương pháp để
ước lượng tỷ giá. Về mặt khái niệm các FEER đề cập đến tỷ giá hối đoái cân bằng

dài hạn kiên định với chính sách bên ngoài và cân bằng kinh tế vĩ mô bên trong
(Williamson,1994). Là một phương pháp ước lượng, nó xác định tỷ giá hối đoái
cân bằng như là một hàm của các biến số kinh tế cơ bản, tóm tắt ngắn hạn về sự
biến động kinh tế, và tập trung toàn vẹn trung hạn và dài hạn vào các điều kiện
kinh tế. Điểm yếu của nó nằm trong những khó khăn của việc đo lường, vì việc đo
lường liên quan đến một số lượng lớn các thông số có mối liên hệ đến tài khoản
hiện tại và vốn cũng như vốn trong nước và thị trường lao động. Theo đó, kết quả
ước lượng bằng cách sử dụng phương pháp này trở nên nhạy cảm với các thông số
của mô hình.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng, cách tiếp cận BEER, không ước lượng
được tính thực tỷ giá hối đoái cân bằng mỗi loại, nhưng nó cố gắng ước tính độ sai

×